21/02/2020
Thứ Sáu tuần 6 thường
niên
BÀI ĐỌC I: Gc 2, 14-24.
26
“Cũng như xác không hồn là xác
chết, thì đây đức tin không việc làm là đức tin chết”.
Trích sách của
Thánh Giacôbê Tông đồ.
Anh em thân mến, nếu có ai nói mình có đức tin, mà không hành động theo đức
tin, thì nào có ích gì? Đức tin như thế có thể cứu được nó ư? Nếu có anh chị em
nào không cơm ăn áo mặc, mà có kẻ trong anh em lại bảo họ rằng: “Chúc anh chị
em đi bình an, và ăn no mặc ấm”, mà anh em lại không cho họ những gì cần dùng
cho thân xác, thì nào có ích gì? Về đức tin cũng vậy, nếu không có việc làm, là
đức tin chết tận gốc rễ.
Nhưng có người sẽ nói: “Anh, anh có đức tin; còn tôi, tôi có việc làm”.
Anh hãy tỏ cho tôi thấy đức tin không việc làm của anh, và tôi sẽ lấy việc làm
mà chỉ cho anh thấy đức tin của tôi. Anh tin Thiên Chúa là Đấng duy nhất ư? Như
thế là đúng. Ma quỷ cũng tin như thế và chúng run sợ. Hỡi người khờ dại, anh có
muốn biết rằng đức tin không việc làm là đức tin chết không? Abraham, tổ phụ
chúng ta, đã chẳng nhờ việc làm mà được công chính hoá khi hiến dâng con mình
là Isaac trên bàn thờ đó sao? Anh có thấy rằng: đức tin hợp tác với việc làm,
và nhờ việc làm mà đức tin được hoàn hảo đó không? Như vậy đã ứng nghiệm lời
Kinh Thánh rằng: “Abraham đã tin vào Thiên Chúa và việc ấy được kể là điều công
chính cho người, và người đã được gọi là bạn thiết nghĩa của Thiên Chúa”.
Do đó anh em có thấy rằng: người ta nhờ việc làm mà được nên công chính,
chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi không? Quả vậy, cũng như xác không hồn
là xác chết, thì đức tin không việc làm là đức tin chết. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 111, 1-2.
3-4. 5-6
Đáp: Phúc đức thay
người ham mộ luật pháp của Chúa (c. 1b).
Xướng:
1) Phúc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng ham mộ luật pháp của
Ngài. Con cháu người sẽ hùng cường trong Đất Nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho
dòng dõi hiền nhân. – Đáp.
2) Trong nhà người có tài sản phú quý, và lòng quảng đại người còn mãi
muôn đời. Trong u tối người xuất hiện như ánh sáng soi kẻ lòng ngay, người nhân
hậu, từ bi và công chính. – Đáp.
3) Phúc đức cho người biết xót thương và cho vay, biết quản lý tài sản
mình theo đức công bình. Cho tới đời đời người sẽ không nao núng: người hiền đức
sẽ được ghi nhớ muôn đời. – Đáp.
ALLELUIA: Tv 118, 27
Alleluia, alleluia!
– Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh Chúa, và con suy gẫm các điều
lạ lùng của Chúa. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 8, 34-39
(Hl 8, 34 – 9, 1)
“Ai chịu mất mạng sống mình vì
Ta và vì Phúc Âm thì sẽ cứu được mạng sống mình”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu tập họp dân chúng cùng các môn đệ lại, và phán: “Ai muốn
theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng
sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì
sẽ cứu được mạng sống mình. Vì chưng được lời lãi cả thế gian mà mất mạng sống
mình, thì nào được ích gì? Và người ta lấy gì mà đánh đổi mạng sống mình? Ai hổ
thẹn vì Ta và vì lời Ta trong thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, thì Con Người
cũng sẽ hổ thẹn từ khước nó, khi Người đến trong vinh quang của Cha Người cùng
với các thần thánh”.
Và Ngài nói với họ: “Quả thật, Ta bảo các ngươi: trong số những kẻ có mặt
đây, có người sẽ không phải nếm cái chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa đến
trong quyền năng”. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Theo
Chúa Giêsu
Khi nhìn về hoạt động của Giáo Hội giữa thế giới hôm nay, có người ghi nhận
rằng Giáo Hội hiện tại rất đa năng đa dạng, Giáo Hội có thể có mặt một cách
khéo léo và hiệu quả trong hầu hết mọi lãnh vực của đời sống con người; nhưng
đôi khi Giáo Hội đã bỏ quên một sở trường có thể là quan trọng nhất, đó là làm
người phát ngôn bảo vệ các giá trị tuyệt đối của Tin Mừng và bảo vệ cho đến
cùng như được nhắc lại trong Tin Mừng hôm nay.
Sau khi nghe Phêrô nói lên sự thật: "Thầy là Ðức Kitô", thì
Chúa Giêsu xác định rõ hơn thế nào là Kitô theo quan điểm của Thiên Chúa. Chúa
Giêsu không ngần ngại minh định tư cách Kitô của mình, đó là một Ðấng Kitô theo
hình ảnh của Người Tôi Tớ Yavê như được nhắc đến trong sách Tiên tri Isaia.
Ngài sẽ không là Ðấng Kitô theo ý riêng của mình, nhưng hoàn toàn theo ý Thiên
Chúa Cha như đã được tiên báo nơi hình ảnh người tôi tớ Yavê và ngày càng được
mạc khải rõ hơn nơi Người Con yêu dấu của Thiên Chúa; Thiên Chúa muốn Ngài hoàn
thành kế hoạch bằng chính đau khổ và cái chết của Ngài. Mạc khải ấy lẽ ra phải
được các môn đệ đón nhận với cảm thông và chia sẻ. Phêrô đã đại diện các Tông đồ
để tuyên xưng: "Thầy là Ðức Kitô", nhưng chỉ tiếc liền sau đó, ông đã
không hoàn toàn cảm nghĩ theo cách thức Thiên Chúa, nhưng đã theo cách thức
nhân loại. Phêrô phản đối thái độ vâng phục của Chúa Giêsu, và một cách vô
tình, ông đã lôi kéo Ngài ra khỏi tư cách Kitô.
Chúa Giêsu chẳng những quở trách Phêrô, Ngài còn đưa ra một giáo huấn
quan trọng: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo
Ta". Từ nay cả Phêrô lẫn những ai muốn làm môn đệ Chúa đều phải sống thân
phận tôi tớ như Chúa. Nhưng Ngài còn thêm: "Ai muốn cứu mạng sống mình thì
sẽ mất". Làm tôi tớ Thiên Chúa, từ bỏ chính mình, vác thập giá, đồng nghĩa
với chấp nhận hy sinh mạng sống mình vì Tin Mừng. Nếu có bao giờ con người cảm
thấy ngại ngùng với những yêu sách đó, thì cần phải nhớ một lời cảnh giác của
Chúa cũng như trong bối cảnh đó: "Ai hổ thẹn chối Ta và các lời Ta, thì
Con Người cũng sẽ hổ thẹn chối nó, khi Ngài đến trong vinh quang Cha Ngài với
các thánh thiên thần."
Ðành rằng con đường của Chúa là cả một đoạn trường, nhưng đã là môn đệ
Chúa và muốn thi hành số mệnh của mình, chúng ta không còn một chọn lựa nào
khác. Xin Chúa cho chúng ta can đảm sống đúng tư cách môn đệ của Chúa, mạnh dạn
thực hiện những đòi hỏi của Tin Mừng, để ngày nay Danh Chúa được mọi người nhận
biết và mai sau chúng ta được Chúa đón nhận vào Nước Trời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần VI TN2
Bài đọc: Jam 2:14-24, 26; Mk 8:34-9:1.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người phải lãnh nhận hậu quả cho lối sống của
mình.
Trong cuộc đời có 2 lối sống chính: lối sống theo ý định của Thiên Chúa
và lối sống theo sở thích của con người. Con người có tự do để lựa chọn sống
theo lối nào, nhưng chọn lối sống là chọn hậu quả của lối sống đó mang lại.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh 2 lối sống này và hậu quả của nó. Trong
Bài Đọc I, tác giả Thư Giacôbê nhấn mạnh việc các tín hữu phải biểu tỏ đức tin
bằng hành động; vì đức tin không việc làm là đức tin chết. Trong Phúc Âm, Chúa
Giêsu trình bày lối sống của những người muốn theo Chúa: họ phải từ bỏ chính
mình và vác thập giá hằng ngày. Tuy là lối sống hy sinh gian khổ, nhưng nó mang
lại hậu quả tốt lành cho con người cả đời này và đời sau.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức tin không có hành động
thì quả là đức tin chết.
1.1/ Đức tin và hành động
(1) Sự quan trọng của đức tin: Cả Chúa Giêsu và Phaolô đều chú trọng đặc
biệt đến đức tin. Chúa Giêsu nói: điều kiện để được hưởng cuộc sống đời đời là
tin Ngài được Thiên Chúa sai đến (Jn 6:39-40). Thánh Phaolô nhấn mạnh: con người
được trở nên công chính là nhờ niềm tin vào Đức Kitô, chứ không bằng việc giữ cẩn
thận Lề Luật (Rom 3:20; Gal 2:16).
(2) Sự quan trọng của hành động: Tác giả Thư Giacôbê chú trọng đặc biệt đến
hành động: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức
tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng?” Ông dẫn chứng
một ví dụ cụ thể: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và
không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình
an, mặc cho ấm và ăn cho no,” nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang
cần, thì nào có ích lợi gì?” Và tác giả kết luận: “đức tin không có hành động
thì quả là đức tin chết.”
Thực ra, Chúa Giêsu cũng như thánh Phaolô không có ý nói hành động không
cần thiết; nhưng các ngài muốn nêu bật sự cần thiết của đức tin. Con người phải
có niềm tin đúng trước khi có thể hành động đúng. Chúa Giêsu cũng đã từng nhấn
mạnh đến hành động: “Không phải tất cả những ai nói Lạy Chúa! Lạy Chúa! mà được
vào Nước Trời; nhưng Nước Trời chỉ dành cho những ai nghe và thực hành Lời
Chúa.”
1.2/ Đức tin của tổ-phụ Abraham được chứng minh bằng hành động: Người ta
đã tốn rất nhiều thời giờ và bút giấy vào việc tranh cãi thần học: “Con người
được nên công chính nhờ đức tin vào Thiên Chúa hay bằng việc giữ Lề Luật?” Có 3
chủ trương trong lịch sử:
(1) Một số người Do-thái cũng như chủ thuyết Pelagianism tin con người
nên công chính bằng việc giữ Lề Luật hay nhờ làm các việc lành.
(2) Thánh Phaolô chủ trương con người nên công chính nhờ đức tin (nhưng
không chỉ bằng đức tin như anh em Tin Lành cắt nghĩa). Nếu đọc
các Thư Phaolô cẩn thận, một người sẽ nhận ra ngài đề cập rất nhiều đến nhu cầu
cần phải tránh tội, tập luyện nhân đức, và làm các việc lành.
(3) Thánh Giacôbê: con người nên công chính bằng cả đức tin lẫn việc làm.
Cả hai Phaolô và Giacôbê, đều dẫn chứng gương tổ-phụ Abraham: “Ông Abraham tổ
phụ chúng ta, đã chẳng được nên công chính nhờ hành động, khi ông hiến dâng con
mình là Isaac trên bàn thờ đó sao? Bạn thấy đó: đức tin hợp tác với hành động của
ông, và nhờ hành động mà đức tin nên hoàn hảo. Như thế ứng nghiệm lời Kinh
Thánh đã chép: Ông Abraham tin Thiên Chúa, và vì thế Thiên Chúa kể ông là người
công chính và ông được gọi là bạn của Thiên Chúa.”
Câu trả lời xác thực và rõ ràng nhất là Thư Giacôbê. Tác giả nhấn mạnh đến
cả đức tin và việc làm: “Anh em thấy đó, nhờ hành động mà con người được nên
công chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi. Thật thế, một thân xác
không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin
chết.”
2/ Phúc Âm: Ai muốn cứu mạng sống mình,
thì sẽ mất.
2.1/ Lối sống theo Thiên Chúa: Chúa Giêsu nói với dân chúng và các môn đệ:
“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.”
(1) Từ bỏ chính mình: là từ bỏ ý muốn, sở thích, và lối sống cá nhân để
chấp nhận thánh ý và lối sống theo Thiên Chúa. Đây là điều khó khăn nhất để từ
bỏ, vì nó đòi con người hầu như phải từ bỏ tất cả những gì con người ưa thích.
(2) Vác thập giá mình mà theo: Theo Chúa là chọn sống theo lối sống của
Thiên Chúa, mà lối sống của Chúa Giêsu là theo con đường đau khổ. Ngài đòi con
người phải từ bỏ lối sống ích kỷ và an toàn, để chấp nhận lối sống hy sinh cho
tha nhân và tin tưởng hoàn toàn nơi Thiên Chúa.
2.2/ Hậu quả của lối sống theo Thiên Chúa: Có một mâu thuẫn trong cuộc sống
mà Chúa Giêsu muốn nêu bật trong câu này: Người càng lo lắng đến bảo vệ cuộc sống
theo cách thức con người, họ sẽ mất nó; người sẵn sàng từ bỏ chính mình, và hy
sinh sống cho người khác và Thiên Chúa, họ sẽ cứu được mạng sống. Chúng ta có
thể nhìn thấy điều này xảy ra ngay tự đời này trong gia đình hay cộng đoàn: khi
cha mẹ chấp nhận gian khổ để hy sinh cho con cái, gia đình sẽ an vui hạnh phúc;
ngược lại, khi cha mẹ chỉ ích kỷ lo cho mình, gia đình sẽ tan vỡ và mọi phần tử
của gia đình sẽ chịu thiệt hại.
Người từ chối không chịu sống theo cách thức của Thiên Chúa, không những
phải lãnh nhận hậu quả ở đời này, mà còn phải chịu những hình phạt đời sau nữa,
như lời Chúa Giêsu tuyên bố: “Giữa thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, ai hổ thẹn
vì tôi và những lời tôi dạy, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người
ngự đến cùng với các thánh thiên thần, trong vinh quang của Cha Người.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Để mang lại hậu quả tốt đẹp cho cá nhân và cộng đoàn, chúng ta phải từ
bỏ lối sống theo sở thích con người để chấp nhận lối sống hy sinh và từ bỏ của
Thiên Chúa.
– Tin vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô là phải tuân giữ những gì Ngài dạy.
Chúng ta không thể chỉ tin Thiên Chúa trong lòng hay chỉ nơi chót lưỡi đầu môi.
– Con đường Thập Giá là con đường cứu sống: Chúa Giêsu đã đi con đường đó
để nhân loại được sống; chúng ta cũng phải đi con đường đó để cứu sống chúng ta
và sinh lợi ích cho nhiều người.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
21/02/2020 – THỨ SÁU TUẦN 6 TN
Th. Phê-rô Đa-mi-a-nô, giám mục, tiến sĩ HT
Mc 8,34-9,1
LÀM CHỨNG NHÂN CAN ĐẢM
“Giữa thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, ai hổ thẹn vì tôi và
những lời tôi dạy, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy.” (Mc 8,38)
Suy niệm: Thánh Mác-cô viết những lời này cho các người Ki-tô
hữu đang bị Đế quốc Rô-ma bách hại, vừa để củng cố đức tin và lòng trung thành,
vừa giúp họ hiểu rõ bản chất của người Ki-tô hữu, là những chứng nhân can đảm của
Tin Mừng Chúa Ki-tô (Theo V. Howard). Làm chứng là vác thập giá mình đi theo
Chúa, thậm chí có khi mất mạng sống mình vì Danh Ngài. Việc làm chứng ấy không
dành riêng cho một giới lớp nào, nhưng là bổn phận hàng đầu của mọi người đi
theo Chúa. Khung cảnh Tin Mừng “khi ấy, Đức Giêsu gọi đám đông cùng với các môn
đệ lại” (c. 34) cho thấy Ngài giao phó bổn phận làm chứng nhân cho mọi người,
chứ không phải chỉ các Tông đồ. Phần thưởng của họ sẽ là được Ngài làm chứng lại
về sự trung tín của người môn đệ “khi Người ngự đến trong vinh quang.” Đó là lời
khích lệ cho những ai đang dấn thấn loan báo Tin Mừng của Ngài.
Mời Bạn: Bạn hiểu thế nào lời của Thánh I-nha-xi-ô: “Biết
chiến đấu mà không sợ thương tích”? Bạn có sợ bị thương trước khi bước vào cuộc
chiến đấu vì Nước Trời hay không?
Sống Lời Chúa: Để sống được như Chúa đòi hỏi, để hoạt động cho
“Danh Cha cả sáng” và “Nước Cha trị đến,” tôi sẽ chấp nhận từ bỏ nếp sống an
nhàn, cầu an, để tích cực dấn thân hơn trong sứ vụ chứng tá Tin Mừng của Chúa ở
giữa dòng đời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã tin tưởng trao cho con nhiệm vụ
làm chứng nhân cho Nước Trời. Xin ban cho con ơn can đảm để con sống đức tin giữa
dòng đời hôm nay. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Suy Niệm : Từ bỏ
chính mình
Suy niệm :
Trên con đường đi ngang giáo phận Xuân Lộc,
có ngôi nhà thờ mặt tiền mang một dòng chữ to: “Sống là chọn.”
Câu này dễ làm ta nghĩ đến câu kế tiếp: “mà chọn là bỏ.”
Bỏ là điều, dù muốn dù không, ai cũng phải làm nhiều lần trong đời.
Thai nhi phải bỏ bụng mẹ ấm êm, cô gái bỏ gia đình để về nhà chồng.
Bỏ khi chọn việc, chọn trường, chọn nhà, chọn ơn gọi…
Bỏ thường làm ta đau đớn, nhưng ta không thể chọn tất cả.
Tuy nhiên, có khi từ bỏ đem lại niềm vui, đến nỗi ta không biết mình đang
bỏ.
Một vận động viên, một nhà khoa học hay một tu sĩ đã tự ý bỏ nhiều điều.
Nhưng họ rất vui khi nghĩ đến kết quả của việc từ bỏ đó.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mời các môn đệ và đám đông
từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Ngài (c. 34).
Từ bỏ chính mình là không coi mình như trung tâm nữa,
không coi danh dự, quyền lợi, dự tính, của cải là điều mình phải nắm chặt.
Vác thanh ngang của thập giá là việc mà người sắp bị đóng đinh phải làm.
Như thế vác thập giá đồng nghĩa với việc chấp nhận cái chết sắp xảy ra.
Đức Giêsu đã sống những điều này trước khi mời chúng ta sống.
Ngài đã vác thập giá Cha trao cho Ngài.
Ngài đã từ bỏ chính mình hoàn toàn khi bị treo trên thập giá.
Đời sống người Kitô hữu mãi mãi không bao giờ dễ dàng,
vì đó là hành trình vác thập giá của riêng mình theo chân Thầy Giêsu.
Thập giá ghi dấu ấn trên bất cứ ai dám sống thật sự ơn gọi kitô hữu.
Nhưng thập giá lại không phải là kết thúc của Kitô giáo.
Kitô giáo kết thúc bằng sự sống và sự sống lại của Đức Giêsu.
Tất cả nghịch lý nằm ở chỗ ai dám mất thì lại được,
còn ai cố giữ cho được thì lại mất.
Mà cái được và cái mất không như nhau.
Cái mất chỉ là mạng sống tạm bợ ở đời này,
còn cái được là sự sống vĩnh hằng ở đời sau (c. 35).
Đức Giêsu đã trải qua kinh nghiệm này, kinh nghiệm được và mất.
Ngài mời chúng ta dám sống kinh nghiệm ấy cùng với Ngài.
Được cả thế giới này mà mất sự sống đời đời thì có ích chi ?(c.36).
Đức Giêsu hôm nay vẫn muốn nhắc nhở chúng ta như thế.
Cầu nguyện :
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,
đến với Người trong mọi sự,
và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người
và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. Amen. (R. Tagore)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
21 THÁNG HAI
“Lạy Chúa, Xin Tạo
Cho Con Một Tấm Lòng Trong Trắng”
Ngoài Thiên Chúa ra,
không gì có thể lấp đầy khát vọng con người. Đó là ý nghĩa của hoán cải. Và đó
là sứ điệp cứu độ. Thiên Chúa là Tình Yêu. Con người đã quay lưng lại với Thiên
Chúa để tìm kiếm những sự thỏa mãn nơi những gì không thể làm mình thỏa mãn được.
Và Thiên Chúa – qua Con của Ngài – đã mời gọi con người từ bỏ nẻo đường tội lỗi
để trở lại cùng Ngài.
Vì yêu thương chúng
ta, Thiên Chúa đã không ngần ngại thí bỏ Con của Ngài. Vì yêu thương chúng ta,
Thiên Chúa đã không ngần ngại xử Con của Ngài như một tội nhân – dù Người hoàn
toàn vô tội, “để cho chúng ta có thể trở nên công chính” (2Cr 5, 21).
Giáo Hội lên lời nhân
danh Thiên Chúa. Giáo Hội mời gọi chúng ta ý thức về tội lỗi mình và nhận hiểu
tình yêu của Thiên Chúa. Ngôn ngữ của Giáo Hội hết sức triệt để. ‘Triệt để’
nghĩa là ‘truy ngược về tới tận gốc rễ’.
Tiếng gọi triệt để ấy
là cốt tủy của bầu khí bước vào mùa Chay. Tận đáy lòng mình, chúng ta phải thốt
lên được như tác giả thánh vịnh: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót
thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm… Vâng, con biết tội mình đã phạm,
lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa…Lạy Chúa Trời,
xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng” (Tv 51, 3. 5 – 6. 12).
Mùa Chay là mùa Thiên
Chúa ngỏ lời mật thiết với chúng ta, mùa để chúng ta lắng nghe, đón nhận ơn cứu
độ, và trở thành con người mới.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 21/2
Thánh Phêrô
Đamianô, Giám mục tiến sĩ Hội Thánh
Gc 2,14-24.26; Mc
8,34-9,1
Lời Suy Niệm: “Giữa thế hệ
ngoại tình và tội lỗi này, ai hổ thẹn vì tôi và những lời tôi dạy, thì Con Người
cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với các thánh thiên thần,
trong vinh quang của Cha Người.”
Chúa Giêsu biết mỗi một người tín hữu trong chúng ta đều đang ở trong một thực
tại tội lỗi, mà chúng đang lối kéo đi theo con đường của chúng; Có thể làm suy
yếu đức tin, đưa chúng ta đi tới chỗ chối bỏ mình là Kitô hữu và không còn tin
vào giáo lý của Chúa Giêsu. Nên Chúa đã cảnh báo: “ai hổ thẹn vì tôi và những lời
tôi dạy, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với các
thánh thiên thần, trong vinh quang của Cha Người.”
Lạy Chúa Giêsu. “Chúa là Đấng Kitô”, là “Đấng Cứu Chuộc”; “Đấng xóa bỏ tội trần
gian”; “Đấng Cứu Rỗi Vĩnh Viễn” toàn thể nhân loại. Xin cho chúng con xác tín,
để được sống đời đời.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 21-02
Thánh PHÊRÔ ĐAMIANÔ
Giám mục Tiến sĩ
(1007 – 1072)
Vị tu sĩ và Hồng Y sẽ
nắm giữ một vai trò hàng đầu trong Ktô giáo này chào đời năm 1007 tại Ravenne,
trong một gia đình nghèo túng, đến nỗi một trong số các anh Ngài đã phải thốt
lên khi Ngài sanh ra: – “Chỉ còn thiếu nỗi bất hạnh này nữa thôi. Sao lại phải
có nhiều người thừa hưởng cái di sản nhỏ nhoi này vậy”
Và người mẹ kiệt sức
đã không muốn cho đứa trẻ sơ sinh bú sữa mà thất vọng bỏ mặc nó. Một bà hàng
xóm giảng giải cho bà rằng: – “Những con báo con hùm không bỏ con chúng, trong
khi chúng ta là những người Kitô hữu lại bỏ rơi con cái mình sao ? Đứa trẻ mà
người ta xua đuổi này, một ngày kia biết đâu lại chẳng là niềm hân hạnh của gia
đình ?”
Người đàn bà can đảm
này không tin lời mình nói lắm, nhưng đã cung ứng những săn sóc đầu tiên cho đứa
bé nghèo khổ. Người mẹ mắc cỡ nên âu yếm ẵm lấy đứa trẻ. Bà đặt tên là Phêrô.
Năm năm sau, Phêrô mồ
côi cha mẹ, người được trao cho người anh đã giận dữ đón nhận cuộc sinh hạ của
Ngài. Bị đối xử như người làm thuê Ngài phải chăn heo, ngủ chuồng của súc vật,
mặc rách rưới và ăn bánh đen. Một ngày kia nhặt được đồng tiền, của trời ơi ngạc
nhiên đối với đứa trẻ không hề ăn hàng, Ngài mang tiền đi xin lễ cho cha mẹ.
Chính vì vậy mà dường như cha mẹ đã chúc lành cho cả đời đứa trẻ, con mình.
Đamianô, người anh cả
của Ngài đã làm linh mục đưa Ngài về Ravenna ở với mình. Anh cho Ngài ăn học và
Phêrô đã tỏ ra thông minh, đến nỗi Ngài đã sớm trở thành giáo sư. Đứa trẻ bị
khinh miệt ngày trước, bây giờ dạy học tại Parma rồi tại Ravenna. Để bày tỏ lòng
biết ơn với người anh cả, Ngài nhận tên mình là Phêrô Đamiano. Ngài được may mắn
về mọi mặt. Nhiều gia đình quí, phải gọi Ngài tới ở. Song những thành công
không làm cho Ngài thôi cầu nguyện ăn chay. Dưới bộ áo ngoài, Ngài mặc một chiếc
áo nhặm.
Trước danh tiếng ngày
càng gia tăng, Ngài tự nhủ: – Ích lợi gì nếu tôi dính bén vào được của cải
chóng qua này? Bởi vì một ngày kia, tôi sẽ phải giã từ tất cả, tại sao ngay từ
bây giờ tôi không hiến dâng chúng cho Thiên Chúa ?
Thế là Ngài từ bỏ cuộc
sống dễ dãi và gia nhập dòng Camaldules, Ngài chọn cái gì nặng nhọc nhất và lui
vào vô tịch ở nhà dòng Phonte Avellna. Đời khổ hạnh và cầu nguyện sắp biến Ngài
thành một vị thánh lớn. Ngài chỉ muốn khiêm tốn vâng phục và thống hối, nhưng
trong khi ẩn mình đi, thì năm 1043, vì vâng lời, Ngài đã được đặt làm tu viện
trưởng. Khi đó, Ngài tăng số các tu sĩ, lập nhiều tu viện, giúp đỡ các dòng
khác. Ý kiến của Ngài luôn hướng thượng, đến nỗi người ta nói rằng: Ngài được
Thánh Thần soi sáng.
Giáo hội đang trải qua
một thời u buồn và người tu sĩ nghèo khổ hôm qua sắp giữ một vai trò lớn lao
làm giảm bớt đau đớn của Roma. Những nết xấu bỉ ổi đè nặng trên triều đại Giáo
hoàng. Lời nói của Thánh Thần lẫn sự hiện diện của Ngài chưa đủ, Ngài viết một
tác phẩm, “cuốn sách về thành Gomorrha”, để lột trần những lạm dụng đang làm
cho Giáo hội phải tủi hổ. Còn chính Ngài, để làm cân bằng cho sự yếu đuối của
những giám mục bất xứng, đã tự mình đền tội đánh đòn hàng ngày đến độ chảy máu,
dành giờ để hát mười thánh vịnh như Ngài đã khuyên nhủ các tu sĩ. Ngài ăn chay
ba ngày mỗi tuần.
Phêrô Đamianô đã muốn
là một tu sĩ rốt cùng suốt đời. Nhưng năm 1057, Đức Stephanô IX đã đặt Ngài làm
Hồng Y giám mục Ostia. Ngài phản đối, nhưng Đức Thánh Cha khi giảng giải cho
Ngài đã cầm tay xỏ nhẫn và đeo thánh giá cho Ngài. Trách vụ giao phó cho Ngài
thật lớn lao. Phêrô Damianô hiến trọn tâm hồn cho gia đình mới rộng lớn này.
Ngài đón nhận mọi khó khăn, chiến đấu chống các lạc giáo, chấm dứt các xáo trộn
của Giáo hội Milanô dẹp tan những bất đồng với xã hội giáo hoàng. Những lo lắng
mệt nhọc không cản trở Ngài sẵn sàng hiến dâng đời mình, dù chỉ cho một linh hồn
thôi.
Dù kiệt sức, Ngài vẫn
dậy sớm để giải tội, không nản lòng, Ngài săn sóc những người bất hạnh, phân
phát áo mặc bánh ăn cho họ, thăm viếng các bệnh nhân. Mỗi ngày để nhắc lại tình
yêu của Chúa Kitô, Ngài rửa chân cho 12 người nghèo. Đối với những người về quê
lập nghiệp, Ngài gửi đồ trợ giúp họ, Ngài nhân hậu đồng đều đối với những người
giàu có, những người cũng gặp khó khăn và cố gắng làm cho họ sống bác ái vị tha
hơn. Thư từ còn làm cho ảnh hưởng của Ngài lan rộng hơn.
Sau bao nhiêu nhọc mệt
và phục vụ, Phêrô trở nên già nua, Đức Thánh cha cho phép Ngài trở lại với nếp
sống nhà dòng, Ngài đã muốn căn phòng xấu nhất, ăn thứ bành dành cho heo, hành
hạ mình bằng dây lưng sắt, tìm đền bù cho các tội nhân và thánh hóa mình hơn nữa.
Ngài nói:
– Một chiến sĩ của Chúa
Kitô phải biết mình có thể tiến đến đâu trên đường nhân đức.
Phêrô Đamianô đã định
ngày thứ sáu phải được thánh hiến bằng chay tịnh và thống hối, để kính nhớ Chúa
Giêsu đã chịu chết trên thánh giá, và ngày thứ bảy kính Đức Mẹ, Đấng mà Ngài đã
soạn một bản kinh Nhật tụng để chúc khen.
Tuy đã cao niên, nhưng
khi Đức Thánh Cha xin Ngài làm đại diện cho mình tại Pháp. Thánh nhân lên đường
ngay. Ngài viếng thăm nhiều địa phận, dẹp tan nhiều cuộc cãi vã, đi tới tận Nước
Đức, hoà giải nhà vua với vợ mình là hoàng hậu Berthe, mẹ vua xin được Ngài hướng
dẫn. Rồi Ngài tiêu diệt các bè rối tại Florence và mang an bình lại cho
Ravenna. Phêrô Đamianô lên cơn sốt ở Faenza. Tu viện Nữ Vương các thánh thiên
thần tiếp đón Ngài,
Ngài đã qua đời năm
1072 đang khi xin các tu sĩ vây quanh mình đọc kinh nhật tụng. Chính Ngài đã
trước tác mộ bia của mình như sau: – “Mọi cái hôm nay đều phải qua đi để cho điều
tồn tại mãi mãi tới gần. Hãy mộ mến những sự trên trời hơn những sự dưới đất, mộ
mến điều tồn tại hơn cái rữa tàn. Ước gì tinh thần bạn đạt tới những đỉnh cao,
tới được những nơi phát ra sự sống bạn”.
(daminhvn.net)
21 Tháng Hai
Người Cùi Hủi
Raoul Follreeau, vị
đại ân nhân của người phong cùi trên thế giới có kể lại mẩu chuyện đáng thương
tâm như sau:
Trong một thị trấn
nhỏ nọ, một người đàn ông lâm bệnh nặng. Sau khi khám nghiệm, các bác sĩ nghi
ngờ anh ta đã mắc bệnh phong hủi… Tuy không là một phán quyết dứt khoát, nhưng
kể từ đó người ta không còn thấy anh ra khỏi nhà nữa. Gia đình anh mỗi lúc lại
càng xác tín hơn về bệnh tình của anh. Thế là để che dấu con người mà họ coi
như một sự xấu hổ chung, những người thân của anh đã giam anh trong một cái
mùng lớn. Người đàn ông đáng thương chỉ còn sống vất vưởng nhờ lương thực tiếp
tế mỗi ngày. Vũ trụ của anh chỉ còn là khung mùng phủ kín bốn chân giường. Ngậm
đắng nuốt cay từng giờ từng phút, người đàn ông chỉ còn mỗi một hy vọng: đó là
chốn thoát được chính nhà giam của anh… Ngày nọ, anh đã chốn ra khỏi khuôn mùng
và gia đình của anh. Nhưng chẳng may, người ta đã nhận bắt được anh. Lần nay,
người đàn ông khốn khổ dường như không còn một hy vọng nào nữa. Anh chỉ còn muốn
tìm sự giải thoát qua cái chết…
Lần thứ hai, anh chốn
khỏi vũ trụ tối tăm của anh. Nhưng lang thang mãi mà vẫn không tìm được sự tin
tưởng và giúp đỡ của những người khác, anh đã tìm đến cái chết như một lời biện
hộ cuối cùng. Người đàn ông đã mua thuốc ngủ và tự vận trước mặt mọi người. Cái
chết của anh đã gây chấn động trong dư luận. Người ta yêu cầu cho khám nghiệm tử
thi. Kết quả đã làm cho mọi người sửng sốt: anh đã không bao giờ mắc bệnh phong
cùi…
Những ai đã và đang sống
dưới một chế độ độc tài trong đó mọi thứ tự do cơ bản nhất của con người bị chối
bỏ, đều cảm nhận được sự độc hại của thái độ thiếu tin tưởng lẫn nhau giữa người
với người… Một xã hội mà quan hệ giữa người với người cjỉ xây dựng trên dối
trá, lừa đảo, hận thù, ganh ghét…. Một xã hội như thế không thể không đi đến chỗ
diệt vong…
Người Kitô chúng ta luôn được mời gọi để xây dựng Nước Chúa, Nước của Chân Lý, của Công Bình, của Bác Ái, của sự tín nhiệm lẫn nhau…
Người Kitô chúng ta luôn được mời gọi để xây dựng Nước Chúa, Nước của Chân Lý, của Công Bình, của Bác Ái, của sự tín nhiệm lẫn nhau…
Chúa Giêsu đã để lại
cho chúng ta chế độ kiểu mẫu: Ngài không nhìn người bằng một nhãn hiệu, bằng một
lăng kính có sẵn. Tất cả mọi người, dù tội lỗi thấp hèn đến đâu cũng đều được
Ngài nhìn dưới ánh mắt của cảm thông, của yêu thương, của tha thứ… Tất cả mọi
người đều được nhìn dưới ánh mắt yêu thương của Ngài như một giá trị độc nhất
vô nhị trong tình yêu của Thiên Chúa.
Ðể được một cái nhìn
như thế, chúng ta luôn được mời gọi để gạt bỏ mọi thứ thành kiến ra khỏi tâm hồn
chúng ta. Trong tất cả mọi sự và trong mọi người, chúng ta hãy mặc lấy cái nhìn
của Chúa Giêsu. Chỉ với cái nhìn ấy, chúng ta mới mong tái tạo được sự tín nhiệm
và tin tưởng lẫn nhau trong xã hội chúng ta.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét