Dịch bệnh và lòng nhân
(AFP) |
Trong những ngày này, cả thế giới đang lao đao vì những con
vi-rút bé xíu có tên là Corona. Số nạn nhân tăng luỹ tiến từng ngày khiến tất cả
chúng ta ít nhiều đều cảm thấy sợ hãi. Dòng chủ lưu truyền thông thời gian vừa
qua đều liên quan đến vấn đề phát tán dịch bệnh này. Bên cạnh những thông tin về
phòng tránh, người ta cũng bắt đầu phân tích các thành phần chịu trách nhiệm
cho sự phát tán đó, mà một trong những phần lỗi lớn nhất thuộc về sai lầm của
chính quyền Trung Quốc, vì họ đã cố tình che dấu dịch bệnh. Đúng như một số người
đã nhận xét, sai lầm của họ không chỉ là vấn đề của một đường lối chính trị hay
một chiến lược quản trị, mà sâu xa hơn là vấn đề của một nền luân lý đã không đặt
giá trị sinh mạng con người ở mức tối thượng. Nhưng bây giờ chúng ta tạm thời bỏ
qua chuyện này, mà xét từ bối cảnh của ‘sự đã rồi’ ở hiện tại, tức khi dịch bệnh
đã phát tán tràn lan, để suy nghĩ về cách thức chúng ta đang đối xử với nhau
như thế nào.
Khắc Bá, S.J.
Như sử liệu nhắc nhở, dịch bệnh không phải là một sự kiện hiếm
gặp, mà nó thường xuyên xảy ra trong lịch sử con người, trong có có những dịch
bệnh khủng khiếp làm chết hàng triệu người ở thời Trung Cổ, cho tới những dịch
gần đây như Ebola năm 1976 hay SARS năm 2002.
Cho tới năm 1878, tức trước khi nhà khoa học Pasteur phát hiện
ra sự tồn tại của các loài vi khuẩn, nhân loại vẫn không biết nguyên nhân thực
sự của các bệnh truyền nhiễm là gì. Có nhiều thời điểm, họ còn nghĩ rằng dịch bệnh
là do thần ô uế hay quỷ dữ nhập vào người. Vì vậy, thời xưa, khi dịch bệnh xảy
đến, người ta đều đưa ra giải pháp giống nhau: cách ly. Hình thức và mức độ
cách ly tuỳ thuộc vào tính nguy hiểm và phạm vi lây lan của dịch bệnh, nhưng
thường thì các dịch bệnh lớn đều dẫn đến những kiểu cách ly thô bạo, đi kèm với
sự kỳ thị lẫn những đối xử phi nhân dành cho bệnh nhân. Họ hoàn toàn bị loại ra
ngoài xã hội, và thậm chí có những trường hợp bị chôn sống.
Trong cơn dịch Corona hiện nay, giải pháp chính được đưa ra
để giảm thiểu độ lây lan vẫn là ‘cách ly’. Tất nhiên, đó là một điều chính
đáng, vì nếu không dùng giải pháp này thì chúng ta hầu chắc không kiểm soát được
dịch bệnh. Nhưng điều ngạc nhiên là, từ những thông tin và hình ảnh tương đối
khả tín trên truyền thông, hình thức cách ly hiện nay vẫn mang tính thô bạo, kỳ
thị và phi nhân không khác mấy ngày xưa. Ví dụ, có những người bị nhốt hẳn trong
chung cư, bị người ta hàn cửa chính lại để không thoát được ra ngoài. Có những
người bị đuổi bắt, bị trói và đem về trại tập trung vì nghi bị nhiễm bệnh. Người
ta cũng xây cả những bệnh viện lớn và tập trung người bệnh lại một chỗ với những
điều kiện thiếu thốn; và như thế, nó trở thành nơi hiểm nghèo cho các bệnh
nhân, vì họ vừa có nguy cơ bị lây chéo các bệnh khác, vừa phải sống trong một
môi trường vi-rút đậm đặc, và lại vừa không được chăm sóc tử tế từ thể chất lẫn
tinh thần.
Vậy là, dù hiểu biết của con người đã tiến một bước dài,
nhưng cách chúng ta đối xử với nhau trong những lúc hoạn nạn vẫn không hề thay
đổi! Có thể nói rằng, điều chính yếu ở đây không phải là chúng ta chiến đấu với
con vi-rút, mà chúng ta đang chiến đấu cho bản năng sinh tồn của mình. Vấn đề ở
chỗ: đó là cuộc chiến mang tính vị kỷ, ‘bất chấp’. Người ta hầu như đang bất chấp
tất cả để tìm sự an toàn cho mình. Những giải pháp ‘cách ly’ đều được quyết định
bởi những kẻ khoẻ mạnh, và dường như cũng chỉ đặt mục tiêu lợi ích cho những
người chưa bị bệnh, chứ không phải cho những người bị nhiễm. Và ngược lại, một
số bệnh nhân cũng tìm mọi cách trốn tránh để không bị rơi vào tình trạng nguy
hiểm nơi các điểm tập trung, bất kể sự trốn tránh của mình có thể gây thêm tai
hoạ bệnh tật cho người khác. Về điểm này, chúng ta lại giống hệt như những con
vi-rút. Thực thế, những con vi-rút chỉ có thể kí sinh nội bào bằng cách xâm nhập
vào tế bào chủ và sử dụng vật liệu di truyền của tế bào chủ để tự nhân lên. Nói
cách khác, vi-rút sinh tồn theo kiểu ‘bất chấp’. Chúng tìm mọi cách sinh tồn mà
không cần để ý đến thiệt hại của ai khác.
Hoá ra, khi đụng đến lằn ranh sống chết, phần lớn chúng ta lại
hành xử chẳng khác gì một con vi-rút ư? Tất nhiên, có thể không phải mọi người
đều hành động giống nhau, nhưng ở mức chung thì chúng ta có thể nói như vậy. Nếu
vậy, hoá ra hàng triệu năm ‘tiến hoá’ cũng chỉ có thế thôi sao? Vì thế, lúc này
chúng ta phải đặt lại câu hỏi về hạt nhân của ‘nhân tính’. Điều gì thực sự làm
nên căn cốt của nhân loại, để ngay cả khi đụng đến lằn ranh sinh tử, chúng ta vẫn
hành xử theo đúng cốt cách riêng biệt của con người, thay vì hành xử như những
con vi-rút?
Tất nhiên, đây là câu hỏi mang tính siêu hình triết học, nên
không dễ gì đưa ra những trả lời vắn tắt. Tuy nhiên, chúng ta thử xét câu hỏi
này trong phạm vi bối cảnh xã hội hiện đại mà mình đang sống. Vào năm 1789, để
làm nền tảng cho cuộc Cách Mạng Pháp, người ta đã trưng lên khẩu hiệu: liberté, égalité, fraternité (Tự
Do, Bình Đẳng, Bác Ái). Đằng sau khẩu hiệu đó là nền tư tưởng mang đậm tính
Chủ Nghĩa Ánh Sáng, vốn xác định vị trí trung tâm dành cho con người, và tuyên
bố rằng căn bản của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng nhân loại chính là lý trí,
và rằng cũng chỉ có lý trí là tiêu chuẩn duy nhất xác lập và quyết định cho mọi
bước tiến của loài người.
Nhân loại đã từng lạc quan và tự tin rằng chúng ta có thể
xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, đầy nhân bản và tiến bộ hơn, dựa trên nền tảng
này. Và quả thật, cuộc cách mạng đó đã biến đổi bộ mặt của cả thế giới. Điều phải
kể đến đầu tiên chính là những tiến bộ vượt bậc trong nhiều lãnh vực, từ khoa học
kỹ thuật cho tới văn hoá và chính trị xã hội. Những phát hiện y khoa của
Pasteur là ví dụ điển hình cho dòng chảy tiến bộ đó. Nó cũng kéo theo những
thăng tiến, ít nhất là ở phạm vi tư tưởng hay từ các tuyên ngôn, về địa vị và
phẩm giá của con người, mà Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế về Nhân Quyền 1948 là một
minh chứng điển hình.
Nhưng, liệu nền tảng duy lý có thực sự đủ để xây dựng một nền
nhân bản vững vàng? Lịch sử thế giới từ đó đến nay, nhất là bối cảnh dịch bệnh
hiện tại, cho thấy rằng những tầm nhìn quá lạc quan như nói trên đều là ảo tưởng.
Chính những con vi-rút bé xíu kia đang phơi bày sự thật đó! Cơn dịch bệnh trong
những ngày qua đang cho thấy rằng nền tảng nhân tính mà người ta dày công xây dựng
từ hạt nhân duy lý không hề vững chắc; và chỉ cần một biến cố cũng đủ khiến nó
lung lay. Châu Âu nói riêng và Nước Pháp nói chung, nơi được xem là có nền văn
minh đầy chiều sâu, và cũng là nơi khởi phát cho cuộc cách mạng duy lý, lại là
một trong những nơi có biểu hiện kỳ thị chống người Trung Quốc đầu tiên. Tất
nhiên, điều phải ghi nhận là những dối trá của chính quyền và của một số cá
nhân Trung Quốc đã khiến họ bùng lên cơn giận dữ, nhưng rõ ràng nó cũng cho thấy
rằng nền tảng khoan dung của họ đã không đủ sâu và đủ lớn để có thể thông cảm
và bỏ qua cho sai lầm nghiêm trọng của người khác.
Vậy là, khi đặt nền trên hạt nhân duy lý, dù với những nỗ lực
lớn lao, từ những lý thuyết giáo dục nhân bản, những chủ nghĩa anh hùng phim ảnh,
cho tới những câu chuyện văn học lãng mạn và đầy tính hy sinh, vv., chúng ta đều
không thực sự xây nên được một nền nhân tính đủ sâu và đủ vững. Lý do vì, nếu
không được đặt trên một nền tảng siêu vượt khác, ‘trí tuệ lý thuyết’ của con
người, với khuynh hướng tìm các giải đáp rạch ròi cho mọi vấn đề và đòi thiết lập
một trật tự xã hội công bằng theo kiểu công thức, không thể chỉ ra một viễn tượng
tận căn cho một thế giới đầy đa dạng, mâu thuẫn, và bí ẩn. Hơn nữa, ‘trí tuệ thực
hành’ của chúng ta luôn bị bao vây bởi những ‘lực hấp dẫn’, như quyền lực, lợi
lộc, danh vọng, vv., nên ngay cả bản thân nó cũng không đủ ‘khách quan’ khi vạch
ra các định hướng chung cho cả cộng đồng.
Vì vậy, đã đến lúc chúng ta phải đặt lại vấn đề về hạt nhân
nền tảng của nhân tính. Tất nhiên, lý trí luôn là điểm căn bản cho mọi dự án, mọi
phương hướng của đời sống con người. Nhưng lý trí đó cần được đặt nền trên một
điểm tựa nào khác sâu xa hơn nó, để không chỉ cung cấp những lý do siêu hình,
mà còn để thanh luyện khuynh hướng duy lợi trong các hoạt động tư duy của nó.
Thiết tưởng, chính tại điểm này, chúng ta phải trở lại với những nền tảng và kiến
giải cao sâu của các tôn giáo.
Để hướng dẫn con người xây dựng và phát triển nhân tính, hầu
hết các tôn giáo chân chính đều tập trung vào khái niệm lòng nhân, vì chính
lòng nhân là điểm gặp gỡ giữa con người và Thượng Đế. Các bậc tôn sư tâm linh đều
dạy ta điểm giác ngộ đó. Nói như phái Tâm học bên Trung Hoa, tình yêu – vốn gắn
với sự thực hành lương tâm – chính là phương cách đạt được tận cùng của bản
tâm, tức tình trạng thiên uyên nhất thể với vạn vật và với Trời. Phật giáo cũng
lấy đức Từ Bi làm nền tảng, như nhận xét của Đạt Lai Lạt Ma: “tôn giáo đích thực
là sự tử tế, là lòng nhân ái.” Tương tự, Ki-tô giáo cho rằng tình yêu và khả
năng yêu thương là điều con người được chia sẻ bản tính của Thiên Chúa cách rõ
nhất, vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Vì vậy, khi nhấn mạnh đến lòng nhân và đặt nó
trong nền tảng tâm linh, chúng ta mới thấy được viễn tượng lớn lao và cao sâu
mà nhân tính có thể đạt tới, vì tình yêu tự nó có biên cương bao la – do vốn
thuộc về Thiên Chúa. Nhờ tình yêu, con người như thể được trải rộng và chạm đến
chiều sâu nhất của hiện hữu mình, có thể kinh nghiệm phần nào điều thuộc phạm
vi vô cùng và siêu việt. Trong viễn tượng đức tin, có thể nói đó là kinh nghiệm
‘đụng chạm’ đến Thiên Chúa. Chính trong kinh nghiệm tình yêu mà con người thấy
rõ nhất việc mình và tha nhân thuộc về Thiên Chúa, thấy mình là hình ảnh của
Người.
Chỉ khi trở lại với viễn tượng đó, như suy tư của Đức Thánh
Cha Biển Đức XVI trong Thông điệp Deus caritas est (Thiên Chúa
Là Tình Yêu), chúng ta mới bớt quy hướng về mình để tìm kiếm hạnh phúc cho người
khác, và rồi cuối cùng sẽ tự hiến và mong muốn ‘sống’ vì tha nhân. Đó là cuộc gặp
gỡ trong chiều sâu bản chất của Eros và Agape.[1] Khi đặt nền trên tình yêu trong đức
tin, nhân tính chúng ta được mở ra một chân trời vượt qua bên kia lãnh vực
riêng của lý trí, đồng thời thanh luyện cho lý trí thoát khỏi những mù quáng để
trở nên chính nó cách tốt đẹp hơn, giúp nó biết chu toàn trách vụ cao cả của
mình. Chính những lý lẽ và nguyên do thiêng liêng mới làm cho hành động của con
người mang ý nghĩa và giá trị tối hậu.
Nếu hình dung chúng ta đang có một nền tảng nhân tính vững
chắc như thế ngay lúc này, điều gì sẽ xảy ra trong việc đối phó với cơn đại dịch
corona? Xét cho cùng, con vi-rút không phải là một ‘loài thông minh’. Nó không
có bất cứ ‘kế hoạch tính toán’ nào để lây lan. Vì thế, mức độ phát tán của nó
phụ thuộc chính yếu vào ứng xử của con người. Nếu lòng nhân của thế giới đủ sâu
và rộng, những người có dấu hiệu bị nhiễm sẽ chủ động đi kiểm tra và chủ động
tránh tiếp xúc để bảo vệ cho người khác. Họ có thể tự cách ly ở nhà, nhưng cũng
sẵn sàng đến những điểm cách ly chung mà không cần chạy trốn, vì họ biết trách
nhiệm, đồng thời ý thức rằng mình sẽ được yêu thương và chăm sóc. Còn những người
khoẻ mạnh: họ vừa tìm cách bảo vệ cho mình và cho những người khác, nhưng đồng thời
cũng biết quan tâm, lo lắng và chăm sóc trong khả năng có thể đối với những người
bệnh tật. Cả xã hội sẽ dồn các nguồn lực để chăm sóc và nghiên cứu phương thức
chữa trị. Các thông tin sẽ minh bạch và chân thực; sẽ không ai cố tình che dấu
hay làm nhiễu loạn để gây hoang mang trở ngại, vì tất cả đều được lòng nhân hướng
dẫn. Nếu viễn tượng đó diễn ra, trong thời đại tiến bộ về khoa học kỹ thuật hiện
nay, hẳn những con vi-rút này không thể mang lại đại dịch cho nhân loại được!
Có lẽ chưa bao giờ cả nhân loại lại cảm thấy số phận con người
gần nhau, gắn chặt với nhau như lúc này. Cùng chung số phận, nếu không có khả
năng tương trợ, gánh vác cùng nhau và cho nhau, thì chỉ có thể đẩy nhau vào thảm
hoạ. Cả nhân loại đang cần tình người phát lộ hơn bao giờ hết, cần quay lại với
sự dịu dàng như lòng mẹ để bao bọc và chăm sóc và hy sinh cho nhau trong cơn hoạn
nạn. Có lẽ đó cũng là bài học lớn mà Thiên Chúa muốn con người rút ra như một
phần ý nghĩa của đau khổ. Vì vậy, chung trong lời cầu cho các nạn nhân và cho
thế giới trong cơn đại dịch, chúng ta cũng cầu mong cho nhau biết quay lại với
nền tảng lòng nhân trong đức tin, để xây dựng một thế giới thật sự nhân bản
hơn. Đó là giải pháp căn cơ nhất, không phải chỉ đối với cơn dịch này, mà đối với
toàn thể đời sống xã hội tương lai của nhân loại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét