Trang

Thứ Ba, 9 tháng 6, 2020

10-06-2020 : THỨ TƯ - TUẦN X THƯỜNG NIÊN


10/06/2020
 Thứ Tư tuần 10 thường niên


BÀI ĐỌC I: 1 V 18, 20-39
“Chớ gì dân này nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa và chính Chúa đã hoán cải lòng họ”.
Trích sách Các Vua quyển thứ nhất.
Vua Acáp sai người triệu tập toàn thể con cái Israel và nhóm họp các tiên tri trên núi Carmel.
Bấy giờ Êlia đến cùng toàn dân và tuyên bố rằng: “Các ngươi đi nước đôi cho đến khi nào? Nếu Chúa là Thiên Chúa, các ngươi hãy theo Người; nếu Baal là thiên chúa, thì hãy theo nó đi!” Dân chúng không thưa lại được lời nào. Êlia nói tiếp: “Chỉ còn tôi là tiên tri duy nhất của Chúa, mà tiên tri của Baal thì có đến bốn trăm năm mươi người. Hãy cho chúng tôi hai con bò đực; họ hãy chọn lấy một con cho họ, xẻ ra từng miếng đặt trên củi, nhưng đừng đốt lửa. Phần tôi, tôi làm thịt con bò kia, xếp trên củi và cũng không châm lửa. Đoạn các ông hãy kêu cầu danh các thần của các ông, còn tôi, tôi sẽ kêu cầu danh Chúa của tôi. Đấng nào đáp lời cho lửa xuống đốt, thì Đấng ấy là Thiên Chúa”. Toàn dân đồng thanh đáp: “Đề nghị hay đấy!”
Vậy Êlia nói với các tiên tri của Baal rằng: “Các ông hãy chọn lấy một con bò và làm thịt trước đi, vì các ông đông hơn, rồi hãy kêu cầu danh thần của các ông, nhưng đừng châm lửa”. Họ liền bắt con bò người ta trao cho mà làm thịt. Họ kêu cầu danh Baal từ sáng đến trưa và nguyện rằng: “Lạy thần Baal, xin nghe lời chúng tôi!” Nhưng chẳng có tiếng đáp, cũng chẳng ai trả lời. Họ nhảy múa chung quanh bàn thờ họ đã dựng lên. Khi trời đã trưa, Êlia chế diễu họ rằng: “Hãy gào thét to hơn, vì Baal là một vị thần. Có khi Người đang là tính công chuyện hoặc đang bận việc, hoặc đi vắng, hay đang ngủ chăng, và sẽ thức dậy”. Họ càng kêu lớn tiếng, lấy gươm giáo rạch mình theo tập tục họ, cho đến khi mình đầy máu me. Khi đã quá trưa, họ còn đọc thần chú đến giờ dâng lễ vật thường lệ, nhưng không có tiếng đáp, cũng chẳng có ai trả lời tỏ dấu lưu tâm đến.
Bấy giờ Êlia nói với toàn dân rằng: “Hãy lại gần tôi”. Toàn dân liền đến gần bên ông. Ông dựng lại bàn thờ Chúa trước kia đã bị phá huỷ. Ông lấy mười hai hòn đá đúng theo số mười hai chi tộc con cái Giacóp, là kẻ đã được nghe lời Chúa phán như sau: “Ngươi sẽ gọi là Israel”. Ông dùng các hòn đá ấy làm bàn thờ kính danh Chúa. Rồi ông đào một cái mương, rộng chừng hai đấu hạt giống, chung quanh bàn thờ; ông xếp củi, xẻ con bò ra từng miếng và đặt trên củi. Đoạn ông nói: “Hãy múc đầy bốn hũ nước và đổ trên của lễ toàn thiêu và củi”. Và họ làm như thế. Ông còn dạy: “Hãy làm như vậy một lần thứ hai”. Khi người ta đã làm như ông dạy, ông lại ra lệnh: “Hãy làm như thế một lần thứ ba”. Và họ làm lần nữa. Nước chảy chung quanh bàn thờ, mương đầy nước.
Khi đã đến giờ dâng của lễ toàn thiêu, tiên tri Êlia tiến ra cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Israel, xin tỏ ra Chúa là Thiên Chúa của Israel và con là tôi tớ của Chúa, và chính vì tuân lệnh Chúa truyền mà con đã làm các việc này. Lạy Chúa, xin nhậm lời con, xin đoái nghe lời con, hầu cho dân này nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa và chính Chúa hoán cải lòng họ”. Bấy giờ lửa Chúa giáng xuống thiêu đốt của lễ toàn thiêu, củi, đá và cả bụi đất, đồng thời cũng hút hết nước trong mương. Trông thấy thế, toàn dân kinh hãi sấp mặt xuống đất mà nói rằng: “Chúa là Thiên Chúa! Chúa là Thiên Chúa!”. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 15, 1-2a. 4. 5 và 8. 11
Đáp: Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa (c. 1).
Xướng:
1) Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa, con thưa cùng Chúa: Ngài là chúa tể con. – Đáp.
2) Thiên hạ tăng thêm nhiều nỗi đau thương của họ, họ là những kẻ chạy theo các thần tượng ngoại lai. Con sẽ không dâng lễ quán bằng máu của chúng, cũng không đọc tên chúng trên môi. – Đáp.
3) Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Người nắm giữ vận mạng của con. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng. – Đáp.
4) Chúa sẽ chỉ cho con đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! – Đáp.

ALLELUIA: Tv 24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mt 5, 17-19
“Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đừng tưởng Thầy đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn. Vì Thầy bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời”. Đó là lời Chúa.


SUY NIỆM : Kiện toàn lề luật
Luật cơ bản nhất trong đời sống tu trì vốn là luật bác ái và nền tảng của luật này là sự tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau. Sự kiện này tiêu biểu cho chính sự tuân hành luật lệ trong Giáo Hội. Giáo Hội có luật lệ, nhưng không bao giờ dùng sức mạnh đe dọa để cưỡng bách người tín hữu tuân hành. Tinh thần đích thực của việc tuân hành luật lệ trong Giáo Hội chính là tình mến; không có tình mến, thì một bộ luật, dù hoàn hảo đến đâu, cũng không khác gì một cây khô héo.
Ý nghĩa và tinh thần ấy của luật lệ, chúng ta có thể đọc được trong Tin Mừng hôm nay. Những người Biệt phái, nhất là các Luật sĩ, vốn là những người rất trung thành với lề luật, họ tuân giữ luật lệ không thiếu một chấm, một phết. Nhưng đàng sau sự trung thành ấy có hàm ẩn tự mãn: họ cho rằng trung thành với lề luật là đương nhiên trở thành người công chính, và vì nghĩ mình là người công chính, nên họ lên mặt khinh dễ những người không tuân giữ luật lệ một cách nghiêm chỉnh như họ.
Chúa Giêsu không phải là người vô kỷ cương và luật pháp. Ngài đã sống như một người Do thái, nghĩa là tuân giữ luật lệ của Môsê truyền lại. Chỉ có điều khác biệt giữa Ngài và các người Biệt phái, đó là tinh thần: nếu những người Biệt phái tự cho mình là người công chính nhờ tuân giữ lề luật, thì Chúa Giêsu lại khẳng định rằng chỉ nhờ ơn Chúa, con người mới có thể nên công chính. Chúa Giêsu tuân giữ lề luật để kiện toàn nó, kiện toàn theo nghĩa thực hiện chính những lời loan báo của các tiên tri liên quan đến Ngài, kiện toàn đến độ mặc cho lề luật một tinh thần mới, tức là tình mến.
Luật lệ vốn là lời loan báo của các tiên tri về Ðấng Cứu thế, do đó luật lệ có tính tiên tri. Khi chu toàn lề luật, Giáo Hội chứng tỏ cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng các tiên tri đã loan báo. Như vậy, một cách nào đó, khi người Kitô hữu tuân hành lề luật, họ cũng loan báo chính Chúa Kitô, nhưng dĩ nhiên, họ chỉ có thể loan báo về Ngài khi việc tuân giữ của họ thể hiện được chính tinh thần của Ngài. Xét cho cùng, đối với người Kitô hữu, tuân giữ lề luật là mặc lấy tâm tình của Chúa Kitô, là sống như Ngài, là trở thành hiện thân của Ngài.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn ý thức sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống của chúng ta và ban sức mạnh để chúng ta chu toàn lề luật của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)



Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 10 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc1 Kgs 18:20-39; Mt 5:17-19.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Biết phân biệt những gì thuộc Thiên Chúa hay thuộc con người.
Sống trong cuộc đời vàng thau lẫn lộn, sự thật trộn với sự sai lầm, người tín hữu cần Chúa Thánh Thần để nhận ra sự thật từ biết bao sự sai lầm trong thế gian.
Các bài đọc hôm nay nêu bật một số nguyên tắc giúp người tín hữu nhận ra sự thật. Trong bài đọc I, ngôn sứ Elijah bày ra cuộc thi đấu giữa ông và tất cả nhà vua, 450 ngôn sứ của Baal, và toàn thể nhà Israel. Mục đích của ngôn sứ là để cho tất cả nhận ra đâu là Thiên Chúa đích thực để thờ phượng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu muốn các môn đệ phân biệt Luật của Thiên Chúa và luật của con người. Luật của Thiên Chúa thì bất biến trong khi luật của con người có thể thay đổi và bị hủy diệt.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Nếu Đức Chúa là Thiên Chúa, các ngươi hãy từ bỏ thần Baal và thờ phượng Người.
1.1/ Vua chúa và hầu hết con cái Israel chạy theo thần Baal: Con người rất dễ quên và hay thay đổi. Dưới thời vua Ahab, nhà vua và hầu hết dân chúng đã chạy theo thần Baal của người Sidon và Canaan. Họ hầu như quên hẳn những gì Thiên Chúa đã làm cho tổ tiên của họ. Một số những lý do làm cho con người quay lưng với sự thật:
(1) Sự thật mất lòng: Thiên Chúa đòi con người phải đi con đường hẹp, nhưng con người lại thích đường rộng rãi thênh thang và cuộc sống dễ dãi. Đa số những người vô thần không phải họ không biết có Thiên Chúa, nhưng họ sợ nếu tin họ phải giữ các giới răn của Thiên Chúa, hay ít nhất họ sẽ phải cắn rứt lương tâm khi làm điều sai trái; vì thế, họ từ chối luôn Chúa để dễ dàng phạm tội. Đã không tin Thiên Chúa thì chớ, nhiều khi họ còn khó chịu khi thấy người khác biểu tỏ niềm tin vì làm cho lương tâm của họ bị cắn rứt; nên họ nhân danh tự do để đòi chính phủ phải cấm luôn những biểu lộ này. Thật vô lý khi họ được tự do để sống vô thần nhưng lại bắt các người khác không được sống hữu thần!
(2) Lý do chính trị: Vua Israel, sau khi đất nước bị chia đôi, không muốn dân của mình xuống Jerusalem tham dự các lễ nghi, vì sợ họ nếu cứ xuống đó, sẽ theo vua Judah thì sẽ mất dân; nên nhà vua đã cho làm hai tượng bò vàng bắt dân thờ: một tượng đặt ở Bethel giữa biên giới của hai vương quốc Israel và Judah, tượng kia đặt ở Dan giữa biên giới của Israel với Syria.
(3) Lợi nhuận và hưởng thụ vật chất: Quỉ thần và thế gian biết chiếc mồi hiệu nghiệm nhất cho con người là tiền của. Với sức mạnh của đồng tiền cám dỗ, ít người có thể thắng nổi.
(4) Chiều theo ý của người khác: Nhiều người biết sự thật nhưng không có can đảm để sống theo sự thật. Vua Ahab chiều theo ý của bà hoàng Jezebel vì sợ phật lòng mỹ nhân. Một số con cái chiều theo ý của cha mẹ không dám theo đạo hay đi tu vì sợ mang tội bất hiếu.
1.2/ Cuộc thi đấu giữa ngôn sứ Elijah và 450 ngôn sứ của Baal
(1) Đề nghị của ngôn sứ Elijah: Để chứng tỏ đâu là Thiên Chúa thật, ngôn sứ Elijah đề nghị cách thức giải quyết bằng cách mỗi bên lập đền thờ của mình, sát tế bò làm của lễ nhưng không đốt lửa, rồi kêu cầu với Thiên Chúa của mình. Thần nào cho lửa thiêu xuống đốt của lễ, đó là thần thật mà mọi người phải thờ phượng. Đây là:
+ Một đề nghị can đảm: Chỉ một mình ngôn sứ Elijah chống lại vua Ahab, 450 ngôn sứ của Baal, và tất cả con cái Israel, để làm chứng cho sự thật. Elijah mời gọi tất cả phải xét lại niềm tin vô lý của họ: “Các ngươi nhảy khập khiễng hai chân cho tới bao giờ? Nếu Đức Chúa là Thiên Chúa, hãy theo Người; còn nếu là Baal thì cứ theo nó!”
+ Một đề nghị rất táo bạo: nhưng nói lên niềm tin vững mạnh của ngôn sứ Elijah vào Thiên Chúa. Nếu kết quả không như nguyện ước, ngôn sứ sẽ mất mạng vào tay vua Ahab và các ngôn sứ của Baal.
+ Một đề nghị rất hữu hiệu: Chẳng gì hữu hiệu cho bằng mắt thấy tai nghe. Đề nghị này chẳng những giúp con cái Israel nhận ra uy quyền của Thiên Chúa, mà còn thấy sự vô hiệu của việc thờ các thần khác.
1.3/ Kết quả cuộc thi đấu
(1) Cố gắng của 450 ngôn sứ của Baal: Họ kêu cầu danh thần Baal từ sáng tới trưa: “Lạy thần Baal, xin đáp lời chúng tôi!” Nhưng không một tiếng nói, không một ai trả lời, và họ nhảy khập khiễng bên cạnh bàn thờ họ đã dựng. Theo thói tục của họ, họ dùng gươm, giáo rạch mình đến chảy máu. Quá trưa rồi mà họ vẫn tiếp tục nói liên miên cho tới giờ dâng lễ; nhưng vẫn không một tiếng nói, không ai trả lời, không người để ý. Trả lời sao được khi Baal chỉ là sản phẩm tưởng tượng do con người làm ra!
(2) Elijah chứng tỏ quyền năng của Thiên Chúa: Đến giờ dâng lễ, ngôn sứ Elijah tiến ra và nói: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Israel! Ước chi hôm nay người ta biết rằng trong Israel Ngài là Thiên Chúa và con là tôi tớ Ngài. Cũng vì lời Ngài phán mà con đã làm tất cả các việc này. Xin đáp lời con, lạy Đức Chúa, xin đáp lời con, để dân này nhận biết Ngài là Đức Chúa, Thiên Chúa thật, và Ngài đã khiến họ thay lòng đổi dạ.” Bấy giờ lửa của Đức Chúa ập xuống, thiêu rụi của lễ, củi, đá và bụi, cả nước trong mương cũng hút cạn luôn. Toàn dân thấy vậy, liền phủ phục sát đất và nói: “Đức Chúa quả là Thiên Chúa! Đức Chúa quả là Thiên Chúa!”
2/ Phúc Âm: Ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời.
Tất cả Luật và Lời Thiên Chúa phán ra đều tốt lành và muôn đời không đổi vì phát xuất từ Thiên Chúa và có khả năng giúp con người sống tốt lành; nhưng vấn đề là ở phía con người. Chúa Giêsu xác quyết: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Moses hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.” Một số những lý do làm con người hiểu sai Luật của Thiên Chúa:
(1) Không hiểu nguyên tắc của Lề Luật và phiên dịch Luật theo ý mình: Ví dụ: Luật ngày Sabbath. Nguyên tắc là để con người nghỉ ngơi và thờ phượng Chúa; chứ không phải để tranh luận trong những vấn đề liên quan đến sự sống như: có nên chữa bệnh nhân trong ngày Sabbath, có nên bứt bông lúa để ăn cho khỏi đói, vì đó thuộc lãnh vực bảo vệ sự sống.
(2) Tạo thêm nhiều Luật khác: Những nhà làm luật của Do-thái tạo thêm 615 luật từ những Luật Chúa ban cho Moses, ấy là chưa kể những luật bất thành văn (truyền khẩu) vì vô tình hay vì lợi nhuận (định nghĩa thế nào là của lễ thanh sạch). Những luật do con người làm ra có thể thay đổi hay hủy bỏ.
Khi Chúa tranh luận những việc liên quan đến Luật, Chúa muốn con người nhận ra đâu là Luật của Thiên Chúa và đâu là luật của con người. Các kinh sư tranh luận với Chúa muốn đánh lừa mọi người để kết tội Chúa như người phá bỏ Luật của Thiên Chúa. Ngài cũng muốn cho họ nhận ra nguyên lý đứng đang sau là tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người, chứ không giữ cách vụ luật.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chân lý không bao giờ lệ thuộc vào số đông người vì số đông có khuynh hướng tương đối hóa chân lý theo sở thích. “Gió chiều nào che chiều đó” sẽ không bao giờ dẫn con người tới đích điểm.
– Chúng ta đừng dễ dàng chạy theo sở thích của đám đông, nhưng phải bảo vệ những gì chân thật và tốt lành. Chúng ta phải sống làm sao để đạt mục đích cuộc đời chứ không theo những đòi hỏi của thế gian và xác thịt.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


10/06/2020 – THỨ TƯ TUẦN 10 TN
Mt 5,17-19


LUẬT CỦA CHÚA
“Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời.” (Mt 5,19)

Suy niệm: Lề Luật đối với người Do Thái là toàn thể bộ luật trong Cựu Ước được nối kết với thế giá của nhà lập luật lừng danh của họ là ông Mô-sê. Chúa Giê-su cho biết Ngài đến không phải để phá bỏ luật ấy mà là để kiện toàn. Ngài dạy phải thực thi cả đến “một chấm một phết trong Lề Luật.” Thế nhưng Lề Luật tự nó không phải là cùng đích mà hướng đến chỗ trở nên “hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” và để thiên hạ “thấy những việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,48.16). Giữ luật theo tinh thần của Chúa là giữ luật vì tình yêu đích thực: vì thế chúng ta có thể sẵn sàng vâng phục Chúa Thánh Thần với cả tấm lòng chứ không chỉ giữ luật theo hình thức, cũng không làm cách qua loa hời hợt mà là sống triệt để tinh thần của Luật là “yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” (Mt 22,37). Với tinh thần đó, không có việc nào là nhỏ trước mặt Chúa, vì “ai bãi bỏ dù chỉ là một điều răn nhỏ nhất, cũng bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời.”
Mời Bạn: Tình yêu phải thể hiện bằng hành động; vì thế tuân giữ lề luật, nhất là Luật Tình Yêu của Chúa, thì không thể chỉ bằng lời nói suông mà phải bằng việc làm cụ thể và thiết thực, bằng tâm tình cảm thông, nhẫn nại, bao dung và tha thứ.
Sống Lời Chúa: Một điều luôn phải có khi xét mình: Hôm nay tôi đã thực thi luật bác ái như thế nào?
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin cho con yêu mến luật Chúa để con tuân giữ và giúp tha nhân cũng tuân giữ như thế.
(5 Phút Lời Chúa)


Suy Niệm : Để kiện toàn

Suy niệm :
Đã có thời người ta nghĩ rằng theo Công giáo là bất hiếu,
vì phải từ bỏ việc cúng giỗ cha mẹ tổ tiên.
Nếu người chết cũng có nhu cầu ăn uống tiêu dùng như người sống,
thì hiếu thảo đòi phải lo cho người đã khuất được đầy đủ, ấm no.
Nhiều người không dám theo đạo,
vì sợ theo đạo thì không được cúng giỗ tổ tiên, phải bỏ ông bà.
Vào thời thánh Mátthêu, một số người Do thái cũng có nỗi sợ tương tự.
Họ tin vào Đức Giêsu và muốn trở thành môn đệ của Ngài,
nhưng họ lại sợ làm thế là bỏ đạo của cha ông, bỏ Do thái giáo.
Họ sợ giáo huấn mới mẻ của Đức Giêsu làm họ bỏ Luật Môsê,
và không còn thuộc về dân Thiên Chúa nữa.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu khẳng định :
“Đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hay lời các Ngôn sứ.
Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (c. 17).
Luật Môsê thật ra là Luật của Thiên Chúa trao qua trung gian ông Môsê.
Môsê đã làm nhiệm vụ trao lại cho dân Do thái và giải thích Luật ấy.
Người Do thái từ bao đời đã giữ Luật theo lời giải thích của Môsê.
Bây giờ có một Đấng mới xuất hiện, là Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa.
Ngài biết rõ ý định của Thiên Chúa mà Ngài âu yếm gọi là Cha.
Đức Giêsu không gạt bỏ Luật của Thiên Chúa được trao cho Môsê.
Nhưng Ngài sẽ giải thích lại Luật ấy cho đúng với ý Thiên Chúa,
vì chẳng ai biết rõ ý Cha bằng Con.
Trong Bài Giảng trên núi mà ta sắp nghe trong những ngày tới,
ta sẽ thấy Đức Giêsu giải thích lại Luật Môsê như thế nào.
Hành vi đó được gọi là kiện toàn hay hoàn chỉnh.
Một giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ đã được mở ra với Đức Giêsu.
Giai đoạn chung cục này vừa liên tục, vừa vượt quá giai đoạn cũ.
Đức Giêsu mời chúng ta tuân giữ nghiêm túc Luật Thiên Chúa đã ban,
nhưng theo cách giải thích mới mẻ, hoàn chỉnh và có thẩm quyền của Ngài.
Muốn trở nên hoàn thiện, muốn đón nhận Nước Trời do Ngài khai mở,
cần sống Luật Tôra đã được Ngài giải thích lại.
Người Kitô hữu gốc Do thái khi theo Đức Giêsu thì chẳng sợ mình bỏ đạo,
bỏ Lề Luật, bỏ các Ngôn sứ hay truyền thống của cha ông
Giáo huấn của Đức Giêsu đã chứa đựng cốt lõi tinh túy của Luật ấy rồi.
Làm thế nào để các Kitô hữu Á Châu cảm thấy đức tin của mình
không tạo ra sự xung đột hay đoạn tuyệt
với những giá trị của nền văn hóa mình đã lãnh nhận và đã sống?
Làm sao để mình sống viên mãn là một Kitô hữu, một người Công Giáo Rôma,
mà vẫn chẳng mất căn tính là người Việt Nam hay người Châu Á?
Chỉ cần một điều kiện, đó là thấy Kitô giáo không phá bỏ, nhưng kiện toàn
tất cả mọi giá trị cao quý có trong các nền văn hóa và tôn giáo khác.

Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,
Chúa đã muốn trở nên con của loài người,
con của trái đất, con của một dân tộc.
Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa
dù họ từ khước Tin Mừng
và đóng đinh Chúa vào thập giá.
Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương,
một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu
sau những năm dài chiến tranh,
một quê hương đang mở ra trước thế giới
nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc
và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên
trong sự an toàn và tiện nghi vật chất,
nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau,
và làm một điều gì đó thật cụ thể
cho những đồng bào quanh chúng con.
Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước
bằng khối óc, quả tim và đôi tay.
Và ước gì chúng con biết khiêm tốn
cộng tác với muôn người thiện chí. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
10 THÁNG SÁU
Sự Tự Do Chọn Lựa
Bên cạnh trí năng và mối quan hệ của nó với chân lý, con người còn có ý chí để chọn lựa. Và ý chí chọn lựa này có liên hệ mật thiết với sự thiện. Mọi hành vi nhân linh đều có bao gồm một hành vi của ý chí và khả năng chọn lựa.
Xuất phát từ nhận hiểu căn bản ấy về con người, chúng ta thấy tự nhiên bật ra vấn đề luân lý. Con người có khả năng chọn lựa giữa điều tốt và điều xấu, được hướng dẫn bởi tiếng nói lương tâm. Lương tâm hướng dẫn con người làm điều tốt và lôi kéo con người trở về từ đường nẻo xấu xa.
Rõ ràng, ý chí tự do của con người chi phối đến mối quan hệ của con người với thế giới, với đồng loại, và làm cho con người khao khát Thiên Chúa và những gì thuộc về Ngài. Và như chúng ta đã thấy, cũng chính ý chí tự do thúc đẩy con người kiếm tìm chân lý. Thực vậy, bản tính thuộc linh của con người là cơ sở thiết yếu của các khả năng suy lý và lựa chọn tự do. Từ đầu tiên, con người nhận thấy mình ở trong một mối quan hệ đặc biệt với Thiên Chúa. Bản trình thuật về sáng tạo trong Thánh Kinh (St 1-3) cho chúng ta thấy rằng “hình ảnh của Thiên Chúa” được mạc khải trước hết trong mối quan hệ của con người (xét như chủ thể) với Thiên Chúa (xét như đối tượng). Con người biết Thiên Chúa; trái tim và ý chí con người có khả năng kết hiệp với Thiên Chúa. Con người có thể nên một với Thiên Chúa! Con người có thể nói “VÂNG” với Thiên Chúa. Dĩ nhiên, con người cũng có thể nói “KHÔNG”. Con người có khả năng đón nhận Thiên Chúa và thánh ý Ngài; song con người cũng có khả năng chống lại Thiên Chúa và chống lại các hoạch định của Ngài.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 10/6
1V 18, 20-39; Mt 5, 17-19.

Lời Suy Niệm: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.”
       Mười Điều Răn của Thiên Chúa ban cho dân Ítrraen qua Môsê sau khi đã thoát khỏi vòng nô lệ tại Ai cập; để hướng dẫn dân Ítrraen trở thành một dân tộc tự do; dân riêng của Ngài. Một dân biết làm việc thiện và trung thành thờ phượng Thiên Chúa. Nhưng qua thời gian, những con người lãnh đạo trong dân đã làm phát sinh ra quá nhiều điều luật cấm và những điều luật phải làm. Điều này trong Sách Tin Mừng cho chúng ta được thấy, một thầy thông Luật đến hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, điều Luật nào trọng hơn?”. Qua cách Chúa Giêsu sống, và với những giáo huấn Người dạy; đã làm cho những người đi theo Người lầm tưởng Người đến bãi bỏ Lề Luật và lời các ngôn sứ. Nên Chúa cho biết Người đến để kiện toàn Lề Luật, và còn căn dặn thêm: “Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời.”
       Lạy Chúa Giêsu. Chúa đã kiện toàn Lề Luật, để giúp chúng con nhận ra có Chúa trong mọi người, và mọi hoàn cảnh để tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa cho xứng hợp.
Mạnh Phương


10 Tháng Sáu
Hãy Làm Chủ Chính Mình
Một tác giả nọ có kể một câu chuyện nghụ ngôn như sau: Một nhà trí thức, một thương gia và một quan đầu tỉnh bị quân cướp tấn công nhân một cuộc hành trình giữa sa mạc. Sau khi đã đánh đập, bọn cướp bỏ ba người dở sống dở chết bên lề đường. Tuy nhiên, ba người cũng cố gắng lê bước để tìm đến túp lều của một vị ẩn sĩ. Sau khi đã băng bó các vết thương cho ba người, vị ẩn sĩ mới nói với họ: “Túp lều của tôi quá nhỏ. Mùa đông lại sắp đến. Xin mỗi vị cố gắng làm riêng cho mình một căn lều để trú ẩn”.
Nghe thế cả ba người bộ hành đều chống chế, vì họ chỉ muốn tiếp tục cuộc hành trình mà thôi. Vị ẩn sĩ mới cho họ biết rằng tuyết đã bắt đầu rơi và không còn một lối thoát nào có thể giúp họ ra khỏi vùng sa mạc. 
Nhưng làm thế nào để tự mình có thể dựng cho mình túp lều? Nhà trí thức thì than phiền rằng mình không có sách vở trong tay. Thương gia thì quả quyết rằng cả đời mình chỉ biết đếm tiền và giao dịch. Còn viên đầu tỉnh thì cho rằng ông không thể làm việc gì mà không có thuộc hạ.
Nhưng nước đến trôn rồi thì cũng đành phải nhảy. Không còn lý do gì để khước từ, cả ba người đành phải bắt tay vào dựng riêng cho mình căn lều. Khi họ vừa hoàn thành túp lều thì mùa đông cũng vừa đến. Trong suốt mùa đông dài, họ không còn bít làm gì hơn là ngồi bên bếp lửa để ôn lại chuyện quá khứ… Vị ẩn sĩ thỉnh thoảng cũng xen vào câu chuyện để góp ý và an ủi ba người bất hạnh.
Ðông tàn, xuân đến. Ba người bộ hành muốn lên đường trở về tức khắc. Nhưng lòng tốt và tình bạn của nhà ẩn sĩ không nỡ để họ ra đi. Thành ra, họ đành ở nán lại một thời gian để giúp ông cày xới và gieo trồng cũng như chăm sóc gia súc. Và rồi, khi ánh nắng xuân chiếu tỏa giữa sa mạc, họ cũng ở lại thêm một thời gian để ngắm cảnh thiên nhiên…
Một ngày nọ, vị ẩn sĩ mới thắc mắc như sau: “Tôi không còn nghe các ông nói đến sách vở, công việc làm ăn và những người thuộc hạ nữa. Có chuyện gì xảy ra cho các ông không?”. Cả ba người đều giữ thinh lặng. Vị ẩn sĩ mới nói tiếp: “Tôi xin phép được trả lời cho các ông nhé. Trước kia, các ông có một ông chủ, ông chủ của các ông có tên là sách vở, là tiền bạc, là các thuộc hạ. Giờ đây, các ông cũng giống như chó lạc mất chủ, các ông cảm thấy tự do. Nhưng tôi nghĩ rằng tốt hơn là các ông nên trở về với sách vở, với tiền bạc, với các thuộc hạ của các ông. Trêu về nhưng không với tư cách là nô lệ nữa. Các ông hãy là chủ chính mình. Và nếu các ông muốn có một người chủ luôn để cho các ông tự do hoàn toàn, xin hãy nhớ đến tôi và chủ của tôi”.
Lục soát cho kỹ trong lương tâm, có lẽ ai trong chúng ta cũng phải thú nhận rằng mình là nô lệ của rất nhiều ông chủ.
Có ông chủ mang tên là một ý thức hệ kiên cố đang trói buộc đôi cánh tư tưởng của chúng ta. Chúng ta bị giam hãm trong vòng nô lệ đến độ không dám đưa chân bước ra khỏi vòng tròn mà ý thức hệ đó đã vẽ sẵn.
Có ông chủ mang tên là những định kiến đối với cuộc đời, đối với xã hội, đối với con người mà chúng ta không bao giờ muốn từ bỏ, mà chúng ta luôn chụp xuống trên người khác có lẽ cúng là hàng rào kẽm gai mà chúng ta khoanh tròn xung quanh chúng ta để mãi mãi chỉ mang lấy một cái nhìn hẹp hòi, ích kỷ.
Có ông chủ là những thói quen xấu mà chúng ta tích lũy như một pháo đài kiên cố để không muốn rời một bước.
Có ông chủ là thứ tôn giáo vụ hình thức trong đó chúng ta cố gắng tô vẽ cho mình một bộ mặt đạo đức, nhưng kỳ thực lại hoàn toàn xa lạ với Tin Mừng của Chân Lý và tự do đích thực.
Mỗi người chúng ta cần phải rời bỏ những ông chủ quen thuộc để đi vào trong túp lều nhỏ bé, nhưng chính do chúng ta cố gắng tự tạo ra. Nơi sa mạc của cõi lòng, chúng ta sẽ gặp được chính Chúa làông chủ đích thực của chúng ta. Có trút bỏ mọi ràng buộc trong cuộc sống, chúng ta mới cảm thấy được Ngài chiếm ngự và lúc đó chúng ta mới cảm nhận được niềm hạnh phúc đích thực mà Chúa Giêsu đã hứa: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét