Trang

Thứ Bảy, 20 tháng 6, 2020

21-06-2020 : (phần I) CHÚA NHẬT XII THƯỜNG NIÊN năm A


21/06/2020
 Chúa Nhật 12 Thường Niên
(phần I)

Bài Ðọc I: Gr 20, 10-13
"Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Ta đã nghe nhiều người thoá mạ và chế nhạo rằng: "Người này gieo khủng bố khắp nơi: Hãy tố cáo nó, chúng ta hãy tố cáo nó". Tất cả bạn hữu tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: "Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó và sẽ trả thù nó". Nhưng Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng; vì thế, những kẻ bắt bớ tôi sẽ ngã quỵ và kiệt sức: Chúng sẽ thất bại bẽ bàng, chuốc lấy sự hổ nhục muôn đời, không bao giờ quên được. Còn Chúa, lạy Chúa các đạo binh, Ðấng xét xử người công chính, thấu suốt tâm can, lạy Chúa, ước gì con sẽ được thấy Chúa trả thù nó cho con, vì con đã tỏ bày công việc con cho Chúa. Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 68, 8-10. 14 và 17. 33-35
Ðáp: Lạy Chúa, xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi (c. 14c).
Xướng: 1) Sở dĩ vì Chúa mà con chịu nhục, và thẹn thò làm nhơ nhuốc mặt con. Con bị những người anh em coi như khách lạ, bị những người cùng con một mẹ xem như kẻ ngoại lai. Sự nhiệt tâm lo việc nhà Chúa khiến con mòn mỏi, điều tủi nhục người ta nhục mạ Chúa đổ trên mình con. - Ðáp.
2) Nhưng, lạy Chúa, con dâng lời nguyện cầu lên Chúa, ôi Thiên Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương. Xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi, theo ơn phù trợ trung thành của Chúa. Lạy Chúa, xin nhậm lời con vì lòng khoan nhân trắc ẩn, theo lượng cả đức từ bi xin nhìn đến tấm thân con. - Ðáp.
3) Các bạn khiêm cung, hãy nhìn coi và hoan hỉ, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh: vì Chúa nghe những người cơ khổ, và không chê bỏ con dân Người bị bắt cầm tù. Hãy ngợi khen Chúa, hỡi trời và đất, biển khơi và muôn vật sống động bên trong. - Ðáp.

Bài Ðọc II: Rm 5, 12-15
"Không phải như tội phạm thế nào, thì ơn ban cũng thế ấy đâu".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, cũng như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian, và do tội lỗi mà có sự chết, và thế là sự chết đã truyền tới mọi người, vì lẽ rằng mọi người đã phạm tội. Trước khi có lề luật, đã có tội trên thế gian; nhưng tội không bị bắt lỗi, khi không có lề luật. Nhưng từ Ađam cho đến Môsê, sự chết ngự trị cả trên những kẻ không phạm tội giống như sự lỗi phạm của Ađam, hình ảnh của người đến sau.
Nhưng không phải như tội phạm thế nào, thì ơn ban cũng thế ấy đâu, vì nếu do tội của một người mà nhiều người phải chết, thì ơn nghĩa của Thiên Chúa và ân huệ ban do ơn một người là Ðức Giêsu Kitô, làm cho nhiều người được ơn dư đầy hơn bội phần.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Ga 17, 17b và a
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Lời Cha là chân lý; xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật". - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 10, 26-33
"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Ðiều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà.
"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn: Các con hãy sợ Ðấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.
"Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy, là Ðấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy, là Ðấng ngự trên trời".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Hãy ca tụng Chúa; hãy ngợi khen Người
Chúa nhật trước chúng ta đã thấy quá khứ, hiện tại, tương lai của Dân Chúa cũng như của từng người trong chúng ta được bao trùm trong lòng nhân nghĩa của Chúa. Người thương chúng ta vô vàn, đã giải thoát chúng ta trong quá khứ, đang phù trợ chúng ta trong hiện tại và sẽ làm cho tương lai chúng ta được hạnh phúc.
Nhưng đó là cái nhìn đức tin. Còn con mắt nông cạn và xác thịt có lẽ chỉ thấy đời nhiều đắng cay. Lời Chúa hôm nay muốn soi sáng chúng ta về phương diện này, để chúng ta thấy lòng nhân nghĩa Chúa bao trùm cả những nét buồn thảm bi đát trong cuộc đời chúng ta.

A. Trước Hết, Lời Chúa Chẳng Bao Giờ Che Giấu Các Ðau Khổ
Cựu Ước cũng như Tân Ước không những mô tả mà còn tìm hiểu khía cạnh cam go trong đời sống con người một cách sâu sắc.
Bài sách tiên tri Yêrêmya hôm nay tuy vắn tắt nhưng gợi lên hình ảnh của một đời người nhiều nước mắt. Vị ngôn sứ ấy đã được chọn ngay từ trước khi thành hình trong lòng mẹ để đảm nhiệm một sứ vụ gay go bạc bẽo. Yêrêmya đã muốn chối nhưng không được. Ông phải ra đi tiên báo những hoạn nạn sẽ xảy tới. Nghe ông nói nhiều, người ta đã dần dần đồng hóa ông với kẻ mang tai ương vạ gió. Người ta tránh ông như tránh dịch, Nhưng đâu được phép rút lui, ông phải theo lệnh Chúa đến phản đối thái độ bất trung của nhà cầm quyền đối với giao ước. Người ta bắt ông, nhốt ông, kết án ông là tên phản bội, bán nước. Ngay họ hàng thân thích cũng khử trừ ông. Vì ông thuộc dòng tư tế, mà muốn cải cách theo Yosyas, chủ trương hủy bỏ hết các nơi tế tự bất xứng ở địa phương để tập trung tất cả phụng vụ trang nghiêm về Yêrusalem.
Xã hội bắt bớ, họ hàng tẩy chay, ông một thân một mình chịu bao đau khổ. Những tiên tri khác còn được hạnh phúc có vợ có con, Yêrêmya được lệnh Chúa sống độc thân để tuyên sấm cho toàn dân biết: tai họa sắp giáng xuống, đừng dại gì mà dựng vợ gả chồng kẻo vợ con sẽ chết đói, chết chém và chẳng được chôn cất. Dân chưa bị chiến tranh và đi đày lê thê... nhưng vì là tiên tri của những biến cố đó, Yêrêmya đã phải sống trước ở nơi bản thân tất cả số phận cay đắng của dân bội bạc. Ông là vị ngôn sứ khổ sở, là hình ảnh của Ðấng sẽ đến gánh tội thiên hạ, là người được chọn để đi vào con đường hẹp. Ông là người đi trước chúng ta về phương diện đau khổ ở đời.
Vì đời chúng ta không phải chỉ mang theo những khổ đau như mọi người, nhưng còn có những gánh nặng khác mà ta có thể gọi chung là thánh giá. Ðó là những đau đớn vì Danh Chúa, dành cho chúng ta là những người được chọn. Ðức Kitô đã nói với các môn đệ của Người: vì Danh Thầy, thế gian sẽ ghét bỏ các con và người ta sẽ giải các con đến các tòa án. Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay còn gợi lên cả nỗi lo sợ quằn quại không ngừng: tội lỗi chúng ta hằng phạm có khiến chúng ta mất tin tưởng vào hạnh phúc đời sau không? Ðây là lo sợ cuối cùng, lo sợ ở trước mặt Chúa, đang khi những tai họa và bất hạnh nói trên nằm trong tương quan đối với người khác, với gia đình và xã hội.
Thật, mọi vấn đề đau khổ ở đời đã được Sách Thánh liệt kê và nghiên cứu. Yêremya đã sống giữa cảnh thù nghịch. Ông tiên báo về con người đau khổ của Ðức Kitô; rồi Ðức Kitô lại báo trước cho chúng ta biết thân phận khổ sở của những người theo Chúa. Cuối cùng thánh Phaolô nói lên nỗi lo sợ phập phồng dày vò tâm trí những kẻ biết mình tội lỗi.

B. Nhưng Ðồng Thời Lời Chúa Cũng Dọi Sáng Trên Các Ðau Khổ
Yêrêmya bị ghét bỏ và tấn công tứ phía, nhưng không nao núng, vì như lời ông nói hôm nay: Chúa luôn luôn ở với ông như người chiến sĩ vô địch. Ông sống ở thời Cựu Ước, nên lối diễn tả niềm tin của ông chưa được tế nhị. Ông tin rằng kẻ thù của ông sẽ lao đao, thất bại; sẽ hổ ngươi và nhục nhã. Và niềm tin ấy đã biến thành lời cầu nguyện: xin cho con được thấy kẻ thù của con bị báo thù.
Ngày nay chúng ta không được cầu nguyện như thế vì Chúa Yêsu đã dạy chúng ta phải yêu mến kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ghét bỏ mình. Nhưng chúng ta phải có niềm tin chắc chắn như Yêrêmya. Giữa bao nghịch cảnh và mọi khổ đau, Chúa vẫn ở với chúng ta, không những như người chiến sĩ vô địch, nhưng hơn nữa như một người cha săn sóc đếm từng sợi tóc trên đầu người con, để không một cái tóc nào rụng xuống mà không có ý của Người. Hai con chim sẻ chỉ đáng giá một đồng xu thôi, thế mà Cha trên trời vẫn săn sóc đến chúng. Còn chúng con, chúng con đáng giá ngàn ngàn lần hơn tất cả loài chim sẻ. Nói một cách đơn sơ hơn, những đau khổ rủi ro ở đời không bao giờ được làm chúng ta quên lòng nhân nghĩa Chúa. Chúng ta phải nắm vững niềm tin đã trình bày Chúa nhật trước: quá khứ, hiện tại và tương lai chúng ta được bao bọc trong tình yêu trung tín của Cha trên trời. Yêrêmya đã thâm tín như vậy. Chúa Yêsu nhắc lại cho chúng ta nhớ. Và chân lý là ánh sáng chiếu soi vào các khổ đau mà chúng ta gặp để hiểu rõ chúng là gì.
Chúa Yêsu trong bài Tin Mừng hôm nay nói: chúng không có gì đáng sợ. Thử thách và khổ đau ở đời thoạt nhìn vào thì thấy sợ, thấy ghê. Nhưng chiếu ánh sáng của Chúa vào, và nhìn chúng bằng con mắt đức tin, chúng ta dường như sẽ thấy chúng đang dần dần tan biến. Bản chất của chúng đâu có vững bền? Cuối cùng, tức là chung cuộc thử thách chỉ là những mây mù phải tan để làm tỏ hiện bộ mặt thật của thực tại. Có gì che giấu mà không bị bại lộ; có gì thầm kín mà lại không được công bố ra? Rồi đây Ðức Kitô sẽ ở trên Thánh giá, Người sẽ chiến thắng tử thần, dọi ánh sáng phục sinh vào việc làm của mọi kẻ thù địch Ngài; thế gian sẽ bẽ bàng trong tội lỗi và kẻ tin Ngài sẽ hân hoan. Rồi đây Ðức Kitô cũng sẽ lại xuống trong vinh quang. Ánh sáng vinh hiển Người sẽ phán xét hành động và ý nghĩ thâm sâu của mọi người; thử thách và đau khổ của những kẻ được Người chọn sẽ biến mất như đêm tối tan biến trước ánh sáng mặt trời. Thế nên, nếu con cái Chúa không có gì phải sợ khi đã tin ở sự săn sóc của Cha trên trời, thì các môn đệ của Người cũng chẳng có gì phải hãi khi bị bắt bớ vì tòa án loài người cũng sẽ qua đi khi ngày chung thẩm của Chúa đến. Người ta có thể giết các môn đệ của Chúa, nhưng có nên sợ những kẻ chỉ giết được xác mà không giết được hồn không? Dĩ nhiên người môn đệ muốn được sự bình tĩnh chắc chắn trong mọi thử thách, thì phải có sự tự tin ở trong hồn mình, tức là có thể tin vào giá trị đạo đức của mình ở trước tòa Chúa sau này và bây giờ nơi lương tâm của chính mình.
Nhưng ai dám tự hào thâm tín như vậy? Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay đoán được tâm trạng của chúng ta. Người sợ chúng ta nao núng khi nghĩ đến tội lỗi của mình. Và nguời chiếu ánh sáng tin tưởng vào lương tâm lo lắng ấy khi đề ra chân lý sau đây:
Phải, tất cả chúng ta đều đã phạm tội. Từ Ađam cho tới nay, tội lỗi đã thống trị và tràn ngập. Nhưng chính sự kiện phổ quát của chế độ tội lỗi khiến chúng ta suy đến thời đại phổ quát của ân sủng. Một người đã du nhập tội lỗi vào thế gian để đến nỗi không ai không tội lỗi; thì Thiên Chúa là Ðấng nhân nghĩa và trung tín đã mở màn thời đại ân sủng phổ quát khi ban Con Một Người đến chịu chết vì tội lỗi chúng ta.
Và không thể Ðức Yêsu chỉ giống như Ađam. Người phải trổi vượt ông vô vàn. Thế thì chế độ ân sủng mà Người đã khai mạc cho thời sau hết này phải vượt xa thời kỳ tội lỗi xưa đã bắt đầu với Ađam. Chúng ta có kinh nghiệm về thời đại tội lỗi xấu xa này, thì chúng ta càng phải có lòng tin sâu xa hơn nữa về thời kỳ ân sủng do Ðức Kitô sáng lập.
Tin như vậy, không ai còn có thể nghĩ mình không được chan chứa ân sủng. Và đời sống tuy nhiều khổ đau và tội lỗi, tuy nhiên nước mắt như đại dương và đầy bất công bất hạnh, đức tin bảo chúng ta phải quả quyết ân sủng của Ðức Kitô còn mênh mông dư đầy bội phần. Và những gì chúng ta đã nói về lòng nhân nghĩa của Chúa đối với con người, vẫn còn đúng mãi, mặc dầu đời người có thể là bể khổ.

C. Thế Thì, Thái Ðộ Của Chúng Ta Phải Thế Nào?
Yêrêmya đã kết thúc bài nói về đau khổ mình gặp bằng một lời kêu gọi tin tưởng. Ông nói: hãy ca tụng Chúa; hãy ngợi khen Người vì Người sẽ cứu mạng sống kẻ khó nghèo khỏi tay kẻ cường bạo. Lòng tin tưởng của ông không phải vô điều kiện. Chúa sẽ cứu người nghèo khổ. Tin Mừng của Người sẽ chỉ được rao giảng cho những con người ấy. Nói đúng ra, chỉ hạng khó nghèo mới đón nhận Tin Mừng của Chúa và do đó mới được cứu độ. Mà khó nghèo hay nghèo khó Phúc Âm, trước hết là tin tưởng tín nhiệm hoàn toàn vào Chúa và chỉ cậy dựa trông cậy vào Người mà thôi, tức là phải lấy nhân nghĩa đáp trả nhân nghĩa.
Và lòng tín nghĩa chân thật ấy phải được chứng tỏ rõ ràng, đặc biệt khi bị thử thách. Chính Chúa Yêsu trong bài Tin Mừng hôm nay đã tuyên bố rõ ràng: ai xưng Ta ra trước mặt người đời thì Ta cũng xưng kẻ ấy ra trước mặt Cha Ta; còn ai chối Ta trước mặt người đời thì Ta cũng chối kẻ ấy trước mặt Cha Ta.
Ðiều kiện này có thể khiến lòng nhiều người áy náy. Thế nào là xưng Chúa ra trước mặt người đời? Ðeo ảnh, làm dấu đọc kinh trước khi ăn cơm, đi dự lễ ngày Chúa nhật, là những hành vi tuyên xưng Chúa? Bao giờ cũng phải làm? Và có khi nào được miễn không?
Ở đây, không ai có thể đưa ra một câu trả lời gãy gọn áp dụng cho hết mọi trường hợp. Muốn có câu giải đáp phổ cập này, có lẽ chúng ta phải vươn lên trên mọi vấn nạn cụ thể. Và hãy hỏi thế nào là tuyên xưng Chúa ra trước mặt người đời?
Ảnh đeo nhắc người ta nhớ đến Chúa; nhưng chưa chắc người nào đeo ảnh cũng tuyên xưng Chúa ra. Ðã có những người đeo Thánh giá vàng để trang trí và có thể có những người mang thập tự lớn để phản chứng, không phải vì Danh Chúa nhưng vì mình và vì quan niệm của riêng mình. Và chúng ta cũng có thể nói tương tự về việc làm dấu, đọc kinh, đi lễ v.v Nói tóm, giá trị không nằm ở việc làm, nhưng ở niềm tin. Thánh Phaolô đã nói như vậy. Ðiều quan trọng là mỗi người phải tự hỏi về niềm tin của mình. Và chính niềm tin ở trong mình sẽ phán đoán các hành vi của chúng ta. Và chắc chắn người có đức tin mạnh mẽ sẽ biết cư xử đúng với sự tự do của con cái Thiên Chúa, nghĩa là luôn luôn biết phải làm gì và không cần làm gì để tuyên xưng Chúa ra trước mặt người đời.
Giờ đây cũng vậy, Thánh lễ sẽ cử hành ở giữa chúng ta. Lẽ ra mọi người sẽ tuyên xưng niềm tin một cách hết sức chân thành. Nhưng biết đâu và không ý tứ thì sẽ có những kẻ xem lễ mà không dự lễ. Vì xem lễ thì chỉ cần mắt nhìn vào, nhưng dự phần thì phải dấn thân, đem tâm hồn mình đến thông phần Mình Máu Ðức Kitô.
Ai thật sự tham dự lễ tế này mà không thấy Thiên Chúa yêu thương mình, đến nỗi ban Thịt Máu Người cho chúng ta? Và ai thật sự đáp trả tình yêu của Người lại có thể lo sợ các thử thách trong đời sống? Vì cả khi sống giữa đau khổ, người yêu Chúa vẫn cảm thấy sâu xa mình được Chúa yêu. Và với tình yêu ấy Thánh Thần đã đổ được đổ xuống trong lòng chúng ta để một sự an ủi ngọt ngào vẫn tràn ngập tâm hồn của những thân xác đang bị đau khổ. Ðó là niềm tin, là lẽ sống của chúng ta. Chúng ta hãy mạnh dạn tuyên xưng.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)



LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật 12 Thường Niên, Năm A
Bài đọc:Jer 20:10-13; Rom 5:12-15; Mt 10:26-33.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:Đừng sợ! Uy quyền của Thiên Chúa thắng vượt mọi quyền hành của thế gian.
            Con người sợ nhiều thứ trong cuộc đời: sợ khổ cực, sợ đau đớn, sợ mất mát, sợ tù đày, sợ hậu quả của tội, và nhất là sợ chết; vì chết sẽ lấy đi tất cả những gì con người có. Nhưng Thiên Chúa đòi con người không được sợ hãi, vì sợ hãi làm cho con người không dám sống theo sự thật để làm chứng cho Thiên Chúa, sợ hãi làm con người không dám sống theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa mà chỉ bằng lòng với tiêu chuẩn của thế gian, và sợ hãi làm con người trở thành nô lệ cho xác thịt, cho thế gian và cho ma quỉ. Để thắng vượt sợ hãi, con người cần một niềm tin vững mạnh nơi Thiên Chúa và uy quyền của Ngài; đồng thời con người cũng cần biết nấc thang giá trị của những gì con người sở hữu.
            Các bài đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta những lý do tại sao chẳng có gì phải sợ hãi. Trong bài đọc I, ngôn sứ Jeremiah tuy có sợ hãi vì địch thù vây quanh tứ phía; nhưng ông đã thắng vượt được nhờ niềm tin vững mạnh vào Thiên Chúa. Ông tin Thiên Chúa sẽ cứu ông khỏi mọi gian truân và sẽ làm cho các địch thù của ông phải bẽ mặt hổ ngươi. Trong bài đọc II, thánh Phaolô khuyên các tín hữu Rôma đừng sợ ngay cả tội lỗi, vì Đức Kitô đã vô hiệu hóa hậu quả của tội nhờ máu của Người đổ ra trên Thập Giá. Hơn nữa, máu của người còn có sức thánh hóa và ban muôn vàn ân sủng cho con người. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ đừng sợ hãi bất cứ điều gì, vì Ngài đã chiến thắng tất cả. Các môn đệ phải vững tin vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa để dám làm chứng cho sự thật.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I:Người đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo.
1.1/ Jeremiah bị tư tế Pashhur chống đối: Là ngôn sứ của Đức Chúa, Jeremiah phải tuyên sấm những gì Thiên Chúa muốn nói cho vua Judah, các tư tế, và dân thành Jerusalem. Tư tế Pashhur, con ông Immer, là Tổng Quản Đốc Nhà Đức Chúa, chẳng những đã không nghe lời Jeremiah tuyên sấm, lại còn cho đánh đòn ngôn sứ Jeremiah và cho cùm ông tại cửa Bengiamin, tức là Cửa Trên trong Nhà Đức Chúa. Lão “Tứ phía kinh hoàng” là tên của ngôn sứ Jeremiah đặt cho tư tế Pashhur; sau khi ông này bắt bớ, đánh đập, và giam cầm tiên tri (Jer 20:3).
            Jeremiah nói tiên tri về vận mạng của Pashhur và của toàn dân: “Quả thật, Đức Chúa phán như sau: Này Ta sẽ biến ngươi thành nỗi kinh hoàng cho chính ngươi và tất cả bạn bè của ngươi. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm quân thù, chính mắt ngươi sẽ chứng kiến điều đó. Ta sẽ trao nộp toàn thể Judah vào tay vua Babylon; nó sẽ bắt chúng đi lưu đày ở Babylon; sẽ dùng gươm tàn sát chúng. Tất cả của cải thành này cùng với mọi công lao vất vả và mọi đồ quý giá, cũng như tất cả kho tàng của các vua Judah, Ta sẽ nộp vào tay quân thù chúng; bọn này sẽ cướp phá, tịch thu đem về Babylon. Còn ông, hỡi Pashhur, chính ông và tất cả những người ở trong nhà ông sẽ phải đi lưu đày. Ông sẽ đi Babylon, sẽ chết tại đó và sẽ phải chôn tại đó; ông cũng như tất cả bạn bè, tức là những người đã nghe ông tuyên sấm láo!"
            Tất vả những gì ngôn sứ Jeremiah tuyên sấm đều ứng nghiệm: Judah rơi vào tay quân thù Babylon vào năm 587 BC. Tất cả của cải quí giá của Đền Thờ và của Thành đều bị tịch thu mang về Babylon. Tất cả vua quan và tư tế đều bị lưu đày sang Babylon, dĩ nhiên có cả Pashhur, và ông đã chết trong nơi lưu đày.
1.2/ Ngôn sứ Jeremiah tìm sức mạnh nơi Thiên Chúa: Một mình phải đương đầu với bao nhiêu chống đối từ gia đình, bạn bè, các tư tế, và triều đình nhà vua, tiên-ri Jeremiah biết mình sẽ không thể địch nổi với bè lũ hung tàn, nếu không có sức mạnh của Thiên Chúa. Ngôn sứ tin tưởng và cầu nguyện: “Đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng. Vì thế những kẻ từng hại con sẽ thất điên bát đảo, chúng sẽ không thắng nổi con. Chúng sẽ phải thất bại, và nhục nhã ê chề: đó là một nỗi nhục muôn đời không thể quên.”
            Ngôn sứ biết Thiên Chúa có uy quyền để trừng phạt và sức mạnh để giải thóat người công chính: “Lạy Đức Chúa các đạo binh, Đấng dò xét người công chính, Đấng thấu suốt tâm can, con sẽ thấy Ngài trị tội chúng đích đáng, vì con đã giãi bày cơ sự cùng Ngài. Hãy ca tụng Đức Chúa, hãy ngợi khen Đức Chúa, vì Người đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo.”
2/ Bài đọc II: Đức Kitô đã giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết.
2.1/ Đức Kitô đã giải thoát con người khỏi tội lỗi: Một thắc mắc thường được nhiều người nêu lên: Tại sao Thiên Chúa lại trừng phạt tất cả con người vì tội bất tuân của Adam? Thánh Phaolô trả lời câu hỏi này bằng cách so sánh Adam với Đức Kitô, Ngài lý luận như sau: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội... Nhưng sự sa ngã của Adam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.” Đức Kitô được so sánh như một Adam mới. Ngài đến để giải phá tất cả những hậu quả của tội do Adam cũ gây nên.
            Tuy nhiên, không phải chỉ có Adam phạm tội, mà tất cả mọi người đều phạm tội. Thánh Phaolô nói: “Trước khi có Lề Luật, đã có tội lỗi ở trần gian. Nhưng nếu không có Luật, thì tội không bị kể là tội. Thế mà, từ thời Adam đến thời Moses, sự chết đã thống trị cả những người đã không phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa như Adam đã phạm. Adam là hình ảnh Đấng sẽ tới.” Ai cũng biết phải có Lề Luật thì mới có tội. Thế mà Lề Luật chỉ có từ thời Moses, khi Đức Chúa ban cho con cái Israel Thập Giới. Tại sao thánh Phaolô qui tội cho con người khi Lề Luật chưa được ban hành? Có lẽ thánh Phaolô muốn ám chỉ đến Luật Tự Nhiên, như ngài đã từng đề cập đến trong Roman 1:20-21.
2.2/ Ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô: Giáo Hội gọi tội của Adam quả là cần thiết, là tội hồng phúc trong bài ca Exsultet của đêm Vọng Phục Sinh, vì nhờ tội đó mà chúng ta có Đức Kitô đến để ở với con người. Ngài không chỉ chuộc tội, nhưng còn mặc khải cho con người những mầu nhiệm của Thiên Chúa, và nhờ công cuộc cứu độ của Người mà chúng ta được lãnh nhận hết ân sủng này đến ân sủng khác.
            Vì Đức Kitô đã đổ máu ra chuộc tội, chúng ta không sợ hãi hậu quả của tội nữa, vì từ nay chúng ta đã có cách khử trừ tội lỗi bằng cách chạy đến với bí-tích Giao Hòa. Chúng ta cũng không còn sợ ngay cả cái chết là hậu quả của tội; vì nếu tội được xóa bỏ, hình phạt do tội gây nên cũng được xóa bỏ. Chúng ta có hy vọng được sống đời đời với Đức Kitô trên thiên đàng.
3/ Phúc Âm: Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.
3.1/ Ba thái độ phải có của người môn đệ Đức Kitô: Để trở thành môn đệ trung thành của Đức Kitô, một người phải có ba thái độ sau:
            (1) Sẵn sàng chấp nhận gian khổ: "Nếu họ bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em." Người môn đệ Đức Kitô chắc chắn sẽ bị người đời bắt bớ, vì họ đã từng bắt bớ và giết Ngài. Chúa Giêsu muốn các môn đệ Ngài phải nhớ rõ điều này: "Trò không hơn thầy, đầy tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, đầy tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Beel-zebul, huống chi là người nhà."
            Trong khi rao giảng hay làm việc tông đồ, người môn đệ chắc chắn sẽ gặp những người phê bình, chống đối, đe dọa và bắt bớ. Lý do đơn giản là người môn đệ nói những điều người đời không muốn nghe, và sự thật thì hay mất lòng. Một vài ví dụ dẫn chứng: người môn đệ nói phải tuyệt đối trung thành trong ơn gọi gia đình đang khi khán giả ngồi dưới đã từng ly dị; người môn đệ dạy phải hy sinh để báo hiếu cha mẹ đang khi khán giả gởi cha mẹ vào các viện dưỡng lão; người môn đệ dạy phải sinh con cái cho nhiều đang khi khán giả không muốn sinh thêm con.
            (2) Không được sợ hãi người đời: Nếu người môn đệ sợ làm người đời mất lòng, sợ bị phê bình hay bị chống đối, người môn đệ sẽ không dám nói sự thật mà ông được kêu gọi để rao giảng; ngược lại, ông sẽ tìm cách nói những gì mà khán giả thích, cho dẫu những điều này không phải là những gì Chúa dạy. Đó là lý do Chúa Giêsu răn dạy các môn đệ: "Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng."
            Khi làm chứng cho sự thật, các môn đệ sẽ phải trả giá đắt, có thể phải hy sinh cả tính mạng như trường hợp của các thánh tử đạo; nhưng các ngài sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho sự thật, vì các ngài tin Thiên Chúa sẽ trả lại thân xác vinh quang, và cho linh hồn các ngài được sống đời đời.
            (3) Phải tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa: Để dạy các môn đệ điều này, Chúa Giêsu đưa ra hai ví dụ: Thứ nhất, chim sẻ: Ngài nói: "Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ." Thứ hai, tóc trên đầu: Ngài nói: "Ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi." Tóc trên đầu con người quá nhiều và rụng xuống hàng ngày. Nếu một sợi tóc vô nghĩa rơi xuống hàng ngày như vậy còn được Thiên Chúa quan tâm tới, huống hồ là số phận của những người môn đệ Chúa.
            Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, đau khổ là phương tiện Thiên Chúa dùng để thử thách niềm tin yêu của con người dành cho Ngài. Nếu con người sợ hãi và trốn tránh đau khổ, con người không chứng minh niềm tin yêu của họ dành cho Ngài.
3.2/ Phần thưởng cho những môn đệ sống trung thành và làm chứng cho sự thật: Chúa Giêsu nói rõ ràng với các môn đệ: "Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời."   Ngược lại, "Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời." Người nào sợ hãi không dám tuyên xưng danh Thầy mình, không dám nói những sự thật Thầy dạy, người ấy không phải là môn đệ Đức Kitô. Trong Ngày Chung Thẩm, Đức Kitô cũng không nhận những người như thế trước mặt Cha của Ngài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
            - Chúng ta phải tập luyện để đừng sợ hãi bất cứ một điều gì trong cuộc đời vì Thiên Chúa đã chiến thắng tất cả. Gian khổ và bắt bớ chắc chắn sẽ đến, nhưng chúng chỉ là cơ hội cho chúng ta chứng tỏ niềm tin yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa, và giúp chúng ta tập luyện nhân đức.
            - Khi không còn sợ hãi bất cứ điều gì, chúng ta mới bắt đầu sống và sống tròn đầy, vì chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa; lúc đó, ma quỉ và thế gian phải sợ chúng ta.
            - Mỗi người chúng ta đều có bổn phận phải chứng tỏ niềm tin yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa. Chúng ta hãy vượt qua mọi sợ hãi để sống theo sự thật và làm chứng cho Ngài.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.

21/06/20 CHÚA NHẬT TUẦN 12 TN – A
Mt 10,26-33



LOAN BÁO ĐIỀU CHÚA MUỐN
“Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà mà rao giảng.” (Mt 10,27)
Suy niệm: Loan báo Tin Mừng Nước Trời là mệnh lệnh, chứ không phải chuyện được chăng hay chớ, muốn thì làm, không muốn thì thôi; vì điều ta loan báo không phải lời của mình mà là Lời Chúa, Lời Hằng sống, Lời đem lại sự sống đời đời cho con người. Việc loan báo ấy quan trọng đến độ phải leo “lên mái nhà” nói công khai cho mọi người biết. Thực ra, ai cũng có thể loan báo, cũng như có nhiều cách để loan báo, nhất là trong thời đại tiến bộ của công nghệ thông tin. Vấn đề là ta có ý thức được tầm quan trọng, tính khẩn thiết của việc loan báo ấy không. Ý thức nhiệm vụ của mình là động cơ thúc đẩy người Ki-tô hữu thực thi sứ mạng loan báo Nước Chúa. “Lên mái nhà” còn là đi ra khỏi nơi mình sinh sống, làm việc; “lên mái nhà” là ra đi đến một phương trời xa lạ khác, là can đảm phá tan sự im lặng dè dặt vì sợ hãi của mình.
Mời Bạn: “Hữu xạ tự nhiên hương.” Lối sống theo Tin Mừng của người môn đệ Chúa tự nó là hương thơm cho đời. Nhờ tác động của người môn đệ nhiệt thành, Tin Mừng sớm gặp được mảnh đất thích hợp để sinh hoa kết hạt. Bạn có phải là người môn đệ nhiệt thành của Chúa chưa?
Sống Lời Chúa: Hãy để tâm thực thi ơn gọi ngôn sứ (tiên tri) ngày lãnh nhận phép Thánh tẩy và Thêm sức qua việc nỗ lực tìm phương cách loan báo Tin mừng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã tin tưởng gọi con đóng góp xây dựng Nước Chúa. Xin giúp con can đảm loan báo điều Chúa muốn để Danh Chúa được mọi người biết đến, kính tôn.
(5 phút Lời Chúa)


ANH EM ĐỪNG SỢ (21.6.2020 – Chúa nhật 12 Thường niên, năm A)
Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi những nỗi sợ vu vơ, để chúng ta được tự do, biết lo điều phải lo, biết sợ điều phải sợ. 


Suy nim:
Trong bài Tin Mừng này, ba lần Đức Giêsu nhắc chúng ta “đừng sợ” (cc. 26. 28.31).
Cuộc sống con người bị trói buộc bởi những nỗi sợ,
có lý và vô lý, đến từ bên ngoài hay từ bên trong trái tim.
Càng văn minh con người càng có nhiều nỗi sợ mới.
Nỗi sợ làm người ta mất tự do, mất bình an, mất vui…
“Đừng sợ” là điệp khúc trấn an được Đức Giêsu nhắc lại nhiều lần.
Đừng sợ, Simon, khi Thầy gọi anh đi theo (Lc 5, 10).
Đừng sợ khi Thầy đi trên mặt nước mà đến (Mt 14, 27).
Đừng sợ sau khi thấy Thầy được biến hình (Mt 17, 7).
Đừng sợ, Giairô, dù con gái ông đã chết (Mc 5, 36).
Đừng sợ, hỡi các phụ nữ, khi gặp Thầy phục sinh (Mt 28, 10).
Nỗi sợ có vẻ gắn liền với phận người mong manh.
Nhưng Đức Giêsu muốn giải phóng chúng ta khỏi mọi nỗi sợ.
Có người môn đệ sợ bị mất mạng, đến nỗi không dám rao giảng,
không dám tuyên nhận Thầy trước mặt người đời.
Đức Giêsu mời các môn đệ nói công khai giữa ban ngày, trên mái nhà,
điều mình nghe Thầy thì thầm trong đêm khuya (c. 27).
Họ không được giữ riêng cho mình điều đã lãnh nhận.
Đừng sợ cái giá phải trả cho việc rao giảng, làm chứng cho Thầy,
vì có điều gì còn quý hơn cả sự sống thân xác nữa (c. 28).
Trong Vườn Dầu, Đức Giêsu cũng sợ chết, vì Ngài còn quá trẻ.
Nhưng Ngài đã không để cho nỗi sợ thắng mình,
khi dám nói tiếng xin vâng, buông đời mình trong tay Cha.
Cha lo cho cả những sinh vật bé nhỏ, tưởng như vô giá trị.
Chim sẻ là thức ăn rẻ tiền nhất vào thời Đức Giêsu.
Tiền lương một ngày mua được ba chục con chim sẻ.
“Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý Cha” (c. 29).
Cả đến sợi tóc của trên đầu chúng ta cũng được Thiên Chúa đếm (c. 30).
Dù một sợi cũng được Thiên Chúa giữ gìn (Lc 21, 18).
Chính vì thế người Kitô hữu được giải phóng khỏi những nỗi sợ đeo đẳng.
Họ chẳng còn sợ ai, ngoài Thiên Chúa.
Vấn đề không phải là trở nên vô cảm, không biết sợ là gì.
Nhưng là biết sợ ai.
“Mày cùng chịu một án phạt mà không biết sợ Thiên Chúa ư?”
Anh trộm lành đã nói với người kia như vậy (Lc 23, 40).
Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi những nỗi sợ vu vơ,
để chúng ta được tự do, biết lo điều phải lo, biết sợ điều phải sợ.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.

Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.

Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.

Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
21 THÁNG SÁU
Thiên Chúa Can Thiệp Vì Ích Lợi Của Chúng Ta
Giáo Hội rao giảng về sự quan phòng của Thiên Chúa, không phải vì đó là sáng kiến của chính Giáo Hội, song bởi vì Thiên Chúa đã quyết định mạc khải chính Ngài. Chính Thiên Chúa là Đấng tự mạc khải chính Ngài và cứu độ dân Ngài, chính Ngài vén mở cho thấy kế hoạch cứu độ mà Ngài đã chuẩn bị từ đời đời. Trong ánh sáng này, Thánh Kinh là bản trình thuật vĩ đại nhất về sự quan phòng của Thiên Chúa, bởi vì Thánh Kinh cho thấy rằng Thiên Chúa đã sáng tạo nên mọi sự từ đầu và Ngài can thiệp một cách kỳ diệu xuyên qua lịch sử cứu độ. Đây chính là sự quan phòng của Thiên Chúa – sự quan phòng này làm cho chúng ta trở thành những tạo vật mới trong một thế giới đổi mới nhờ tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Kitô.
Thánh Kinh đặc biệt nói về sự quan phòng thần linh trong các chương về sự sáng tạo và nhất là trong những chỗ qui chiếu đặc biệt đến công cuộc cứu độ trong Sách Sáng Thế và các Sách Ngôn Sứ, nhất là Sách Isaia. Thánh Phao-lô cũng có những suy tư sâu sắc về những kế hoạch khôn dò của Thiên Chúa diễn ra trong lịch sử, nhất là trong các Thư Ê-phê-sô và Cô-lô-sê. Trong các Sách khôn ngoan, các tác giả nhắm đến việc tái khám phá các kế hoạch và đường lối của Thiên Chúa. Tông Đồ Gio-an trong Sách Khải Huyền thì cố gắng khám phá lại ý nghĩa của các mục đích cứu độ của Thiên Chúa trong thế giới.
Xem ra quan điểm Kitô giáo về quan phòng không chỉ là một chương khác của triết lý tôn giáo. Vâng, Thiên Chúa trả lời cho những vấn nạn sừng sững của Gióp (và của mọi người giống như Gióp) với nhãn giới Thánh Kinh về sự trung thành và sự quan phòng của Thiên Chúa đối với con người. Đây là một thần học rõ ràng về sự trợ giúp và sự can thiệp có sức cứu độ của Thiên Chúa khi Dân của Ngài đáp lại Ngài trong đức tin.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Gương Thánh Nhân
Ngày 21-06: Thánh LUY GONZAGA
Tu Sĩ (1568 - 1591)

Thánh Luy là con trưởng của Ferrante, bá tước lâu đài Castiglione miền Lombardic. Ông đã nhượng chức tổng chỉ huy cho hiệp sĩ của vua Henry VIII vì thích triều đình Tây Ban Nha hơn, tại Marid, Ferrante gặp Martha Tana đi theo hoàng hậu Isabelle. Ông lập gia đình với Martha năm 1566. Ngày 9 tháng 3 năm 1568, Luy chào đời.
Thân mẫu thánh nhân là người đạo đức. Bà đã dạy cho Luy biết kính sợ và yêu mến Chúa ngay từ hồi còn thơ ấu. Vì vậy, thánh nhân hay được gọi là "thiên thần con". Thân phụ Ngài trái lại đã muốn hứơng dẫn con mình vào nghề binh đao. Hồi lên 4 tuổi, Ngài được dẫn tới Casal để dự cuộc duyệt binh. Thân phụ Ngài cho Ngài mặc như một sĩ quan và vui mừng khi thấy con dẫn đầu đoàn quân, với quân phục vừa tầm cậu. Luy sống ở đây nhiều tháng và có dịp nghe những lời tục tĩu của lính tráng, dầu không hiểu gì.
Một ngày kia,, khi binh sĩ đang ngủ, Luy ăn cắp thuốc nạp vào súng khai hóa và suýt chết vì súng giật. Bá tước định trừng phạt đứa con của mình nhưng nhờ binh sĩ can thiệp, cậu được thả. Tuy nhiên đây là một lỗi lầm mà Luy than khóc suốt đời.
Năm 1577, Luy cùng với em trai là là Rôđôlfo được gởi đi học tại Florence. Tại đây, Luy đã khấn giữ mình trinh khiết trước ảnh Đức Mẹ truyền tin nhà nguyện dòng Tôi Tớ Đức Mẹ. Chẳng bao lâu sau, Ngài trở về Castigliône, và quyết định hiến mình cho Thiên Chúa, Ngài tăng thêm việc đạo đức và coi đó như bổn phận: quỳ đọc kinh nhật tụng Đức Mẹ, các thánh vịnh sám hối và những kinh nguyện khác. Tại Castigilione, Đức Hồng y Carrôlô Borrômeô đã làm cho Luy rước lễ lần đầu. Đức hồng y đã ngạc nhiên trước nhiệt tình và sự khắc khổ của thánh nhân và thốt lên: "Đứa trẻ này có thể làm gương cho chính các tu sĩ".
Bá tước Ferrante được đặt làm quan thị vệ của vua Tây Ban Nha, Luy trở thành thị đồng của hoàng tử, Luy nhiệt tình phục vụ hoàng tử Diogô, nhưng vẫn tìm cách sống tại triều đình như là sống trong tu viện. Nhưng rồi cái chết của Diegô dẫn Luy tới quyết định dứt khoát từ bỏ thế gian để gia nhập dòng Chúa Giêsu. Thân phụ Ngài bất mãn vì quyết định ấy và Luy phải đợi ba năm để được sự ưng thuận của thân phụ. Năm 18 tuổi, Ngài vui vẻ nhượng quyền thừa tự và bước vào đời sống tu trì.
Tại tu viện Luy muốn được hoàn toàn quên lãng. Ngài lo chuyện bếp núc, giúp đỡ người nghèo đeo bị đi ăn xin ngoài phố. Đối với gia đình, Ngài chỉ còn muốn nghĩ tới trong kinh nguyện mà thôi. Sau 2 năm trong dòng, ngày 25 tháng 11 năm 1587, Ngài tuyên khấn và lãnh phép cắt tóc gia nhập hàng giáo sĩ ít lâu sau đó.
Nhưng gia đình bỗng có chuyện tranh chấp sau khi thân phụ Ngài qua đời. Tháng 9 năm 1589, bề trên cho phép Luy về Castiglione để giàn xếp. Luy được tiếp đón như một thiên thần từ trời xuống. Mẹ Ngài không cầm mình nổi, đã quì xuống trước mặt con. Từ khắp ngả người ta nói với nhau: Chúng ta thấy Một Vị Thánh.
Cuộc dàn xếp ổn thỏa, Luy được lãnh giảng thuyết trước khi đi. Ngài đã diễn thuyết một cách kỳ diệu đến nỗi hơn 700 thính giả đã tới tòa cáo giải ngay.
Giã từ cha mẹ, Luy trở lại Milan ngày 22 tháng 3 năm 1590 để tiếp tục lớp thần học và được dời về Rôma ngay năm đó để diễn thuyết trước mặt nhiều giám mục nước Ý. Chính tại đây Ngài qua đời như là nạn nhân của lòng bác ái. Lúc ấy có một bệnh dịch tàn phá Rôma.
Thánh Luy hiến trọn xác hồn phục vụ các bệnh nhân, Ngài làm nhiệm vụ khuân vác giúp đỡ mọi người, có khi vác cả xác chết nữa. Tận tụy làm việc cho đến ngày 20 tháng 6 năm 1591 thì bị bất tỉnh. Hôm sau tỉnh dậy Ngài chào anh em, rước của ăn đàng rồi từ trần.
(daminhvn.net)


21 Tháng Sáu
Nhân Danh Thiên Chúa Ba Ngôi
Christophoro Columbo, người đã khám phá ra Châu Mỹ vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ 15, có lòng sùng kính Chúa Ba Ngôi cách đặc biệt. Trước mọi hoạt động, ông đều kêu cầu Chúa Ba Ngôi cũng như ông luôn khởi đầu những gì mình viết bằng dòng chữ: "Nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh".
Lần kia, khi Columbo trình bày về thuyết "Trái đất tròn" trước một nhóm học giả được gọi là Hội Ðồng Salamanca, một tổ chức quy tụ những nhà khoa học và thần học danh tiếng nhất thời bấy giờ, ông đã khởi đầu như sau: "Hôm nay tôi được hân hạnh đứng trước mặt các ngài nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh, vì hoàng đế đã truyền lệnh cho tôi đệ trình lên sự khôn ngoan của quý vị một dự án mà tôi xác tín là Chúa Thánh Thần Ba Ngôi Thiên Chúa đã gợi hứng cho tôi".
Trong cuộc hành trình thứ ba của ông khởi hành năm 1948, Columbo đã thề hứa sẽ hiến dâng cho Chúa Ba Ngôi phần đất nào ông khám phá ra đầu tiên, vì thế hòn đảo ông đặt chân xuống đầu tiên trong cuộc hành trình thám hiểm Tân thế giới ấy cho đến nay vẫn được gọi là "Trinidad", tức là Chúa Ba Ngôi.
Trong suốt cuộc đời, người Kitô hữu chúng ta luôn kinh nghiệm sự gần gũi của Ba Ngôi Thiên Chúa: lúc vừa mở mắt chào đời, chúng ta được nhận lãnh Phép Rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi. Trong suốt ngày sống, chúng ta thường ghi dấu thánh giá trên mình với lời chúc tụng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, cũng như mỗi lần chúng ta dùng bữa hay khi khởi đầu mọi sinh hoạt.
Cộng vào đấy mỗi lần chúng ta vấp ngã và khiêm nhượng đi xưng thú những lỗi lầm trong tòa cáo giải, chúng ta được giao hòa lại với Thiên Chúa và cộng đoàn nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi và cũng nhân danh Người các đôi trai gái yêu nhau được nối kết để chung sống đời hôn nhân.
Rồi cả các bệnh nhân cũng được ban ơn sức mạnh nhờ danh Thiên Chúa Ba Ngôi để khi nhắm mắt xuôi tay, các Kitô hữu chúng ta cũng được tiễn đưa vào cuộc sống đời sau và được chôn cất nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Mặt khác, Chúa Ba Ngôi cũng là trung tâm và mục đích mọi hoạt động của những kẻ tin kính Người. Bởi thế chúng ta thường kết thúc nhiều Kinh và những sinh hoạt bằng câu: "Sáng danh Ðức Chúa Cha và Ðức Chúa Con và Ðức Chúa Thánh Thần".
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét