Trang

Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2024

THIS SUNDAY, THE UNEXPECTED JESUS: FOUR TAKEAWAYS FROM THE FIRST SUNDAY OF ADVENT

 

This Sunday, the Unexpected Jesus: Four Takeaways From the First Sunday of Advent

Tom Hoopes

November 26, 2024

 


Photo: Pexels, Kelly.

This Sunday is the First Sunday of Advent, Year C, and the Church’s readings ask us to prepare for Christmas in a serious, radical way — in many ways by doing the opposite of what the rest of the culture is doing right now.

Here are takeaways from this week’s readings, taken from previous This Sunday posts and the Extraordinary Story podcast.

First: Advent in the Church is the opposite of the Secular “Holiday Season.”

December 1 in America means the Secular Christmas Season has started. But at Mass for the  First Sunday of Advent, the liturgy sounds like the opposite of a Christmas commercial.

Ads promise the “Christmas you deserve” but Mass begins with a prayer pleading that Christ make us worthy of him.

Christmas at the store is “the most wonderful time of the year,” but today’s prayer after communion  reminds us that  “we walk amid passing things” and must learn to “love the things of heaven,” not earth.

The readings get even more pointed.

Jesus says, “Do not become drowsy from carousing and drunkenness and the anxieties of daily life,” precisely when the world is indulging at boozy parties and stressing about the demands of December.

St. Paul says, “Strengthen your hearts,” and “be blameless in holiness,” while the world’s hearts are becoming sentimental and blurring the line between Christian generosity and consumerism.

The Psalm says “the friendship of the Lord is with those who fear him” exactly when we are focused on nonthreatening Season’s Greetings.

How do we fight against the tide? Jesus Christ himself gives us one way in Sunday’s Gospel.

Second: Jesus tells us that Second Coming can teach us about the first coming.

There are always two strains in Advent Masses: The slow preparation for the appearance of the Christ Child and the noisy proclamations that everything is about to suddenly change.

It can almost seem like the two are at cross-purposes, as if the Church is doing a bait and switch, making dark promises about the end of time, and then saying, “Surprise! What the rolling timpani and brass fanfares were really leading up to was … ‘Away in the Manger.’”

In the readings for the First Sunday of Advent, though, we can see very clearly the way the two are related.

“The days are coming, says the Lord, when I will fulfill the promise I made,” says the First Reading. “I will raise up for David a just shoot; he shall do what is right and just in the land.”

The grand fulfillment of God’s mighty promises, he says, will be a tiny little plant: bunny food. If that seems anticlimactic, it shouldn’t. It’s the same high drama God deploys to great effect each spring. After a long winter, we understand how exciting a shoot can be. And anyone who has ever had a child or grandchild knows what big news the birth of a baby is.

The Gospel refers to an event that hasn’t happened to this day — Christ’s second coming. But the particulars should be very familiar to us.

“There will be signs in the sun, the moon and the stars, and on earth nations will be in dismay,” says Christ. “The powers of the heavens will be shaken.”

If that sounds dramatic we need to remember how dramatic unborn children are. “Goodbye, goodbye, goodbye. You were bigger than the whole sky,” says a popular song that women have adopted as an anthem to the pain of losing an unborn child. Children, even as embryos, feel bigger than the world … because they are. That is even truer of Christ: He is bigger than the sun, the moon, and the stars. In fact, when Jesus came, we saw the very heavens shaken: The star of Bethlehem lit the night, and the hosts of angels, more powerful than all the powers of the earth, filled the sky.

The baby Jesus was monumental, splitting time and space in two.

But, third: Jesus didn’t come to tell us how everything will end; he came to tell us how it will all begin.

Jesus paints a dire picture in the Gospel, saying “People will die of fright.” He counsels us to “Pray that you have the strength to escape the tribulations that are imminent and to stand before the Son of Man.”

Certainly these are messages about how we have to live to be ready at the end of the world; but they are also a description of how we have to behave to be ready for each day.

The Second Reading, from St. Paul to the Thessalonians, was perhaps the earliest letter written in the New Testament. In it, Paul is telling Christians how to act in the first days of Christianity, not the last days. And he says to “abound in love for one another and for all,” and to “strengthen your hearts, to be blameless sin holiness” and “conduct yourselves to please God.”

It’s our duty starting on Day One of Advent to “be vigilant at all times and pray that you have the strength to escape the tribulations that are imminent and to stand before the Son of man.”

So, fourth: Use this Advent to know and share Jesus.

Everyone is on edge these days, looking for truth in a world of lies, and longing to live their lives to the full.

That’s what Advent is for: We fast to learn the self-control we will need to live Christ’s Way; we pray to reconfigure our hearts and minds to conform to Christ’s Truth; and we give alms to learn generosity to live Christ’s Life.

People don’t know themselves until they know they are loved, fully, unconditionally, by Another who really knows them. And people don’t become themselves in full until they give themselves away in love, fully and unconditionally, to One they accept totally.

Advent puts Jesus before us as the object of our deepest longings. and asks us to cooperate with his grace to become the kind of people that the Lord Jesus will recognize when he comes.

 


Tom Hoopes, author of The Rosary of Saint John Paul II and The Fatima Family Handbook, is writer in residence at Benedictine College in Kansas and hosts The Extraordinary Story podcast about the life of Christ. His book What Pope Francis Really Said is now available on Audible. A former reporter in the Washington, D.C., area, Hoopes served as press secretary of the U.S. House Ways & Means Committee Chairman and spent 10 years as executive editor of the National Catholic Register newspaper and Faith & Family magazine. His work frequently appears in Catholic publications such as Aleteia.org and the Register. He and his wife, April, have nine children and live in Atchison, Kansas.

 

https://media.benedictine.edu/this-sunday-the-unexpected-jesus-four-takeaways-from-the-first-sunday-of-advent

 

CHÚA NHẬT NÀY, CHÚA GIÊ-SU BẤT NGỜ: BỐN ĐIỀU RÚT RA TỪ CHÚA NHẬT ĐẦU TIÊN CỦA MÙA VỌNG

 

Chúa Nhật này, Chúa Giêsu bất ngờ: Bốn điều rút ra từ Chúa Nhật đầu tiên của Mùa Vọng

Vũ Văn An  29/Nov/2024

 

Photo: Pexels, Kelly.

Tom Hoopes (*), trên https://media.benedictine.edu/, ngày 26 tháng 11 năm 2024, chia sẻ:

Chúa Nhật này là Chúa Nhật đầu tiên của Mùa Vọng, Năm C, và các bài đọc của Giáo hội yêu cầu chúng ta chuẩn bị cho Lễ Giáng sinh theo cách nghiêm túc, triệt để — theo nhiều cách bằng cách làm ngược lại với những gì phần còn lại của nền văn hóa đang làm ngay bây giờ.

Sau đây là những điều rút ra từ các bài đọc của tuần này, được trích từ các bài đăng Chủ Nhật này trước đó và podcast Câu chuyện phi thường.

Đầu tiên: Mùa Vọng trong Giáo hội trái ngược với "Mùa lễ" thế tục.

Ngày 1 tháng 12 ở Hoa Kỳ có nghĩa là Mùa Giáng sinh thế tục đã bắt đầu. Nhưng tại Thánh lễ Chúa Nhật đầu tiên của Mùa Vọng, phụng vụ nghe giống như trái ngược với một quảng cáo Giáng sinh.

Quảng cáo hứa hẹn "Giáng sinh bạn xứng đáng" nhưng Thánh lễ bắt đầu bằng lời cầu nguyện cầu xin Chúa Kitô làm cho chúng ta xứng đáng với Người.

Giáng sinh tại cửa hàng là “thời điểm tuyệt vời nhất trong năm”, nhưng lời cầu nguyện sau rước lễ hôm nay nhắc nhở chúng ta rằng “chúng ta bước đi giữa những điều chóng qua” và phải học cách “yêu những điều của thiên đàng”, chứ không phải của trái đất.

Các bài đọc thậm chí còn sâu sắc hơn.

Chúa Giêsu nói, “Đừng để mình mê man vì tiệc tùng, say sưa và những lo lắng của cuộc sống hằng ngày”, đúng lúc thế giới đang đắm chìm trong những bữa tiệc say sưa và căng thẳng về những đòi hỏi của tháng Mười Hai.

Thánh Phaolô nói, “Hãy củng cố lòng mình” và “không tì vết trong sự thánh thiện”, trong khi trái tim của thế giới đang trở nên đầy xúc cảm và làm mờ ranh giới giữa lòng quảng đại của Ki-tô hữu và chủ nghĩa tiêu dùng.

Thánh Vịnh nói rằng “tình bạn của Chúa ở với những ai kính sợ Người” đúng lúc chúng ta tập trung vào Lời chúc mừng Mùa lễ không đe dọa.

Làm thế nào để chúng ta chống lại thủy triều? Chính Chúa Giêsu Kitô đã chỉ cho chúng ta một cách trong Tin mừng Chúa Nhật.

Thứ hai: Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng việc đến lần thứ hai có thể dạy chúng ta về việc đến lần thứ nhất.

Luôn có hai giai điệu trong Thánh lễ Mùa Vọng: Việc chuẩn bị chậm rãi cho sự xuất hiện của Chúa Hài Đồng và những lời tuyên bố ồn ào rằng mọi sự sắp đột nhiên thay đổi.

Có vẻ như cả hai đang có mục đích trái ngược nhau, như thể Giáo hội đang nhử mồi và đánh tráo, đưa ra những lời hứa đen tối về ngày tận thế, rồi nói rằng, "Bất ngờ! Những gì tiếng trống định âm và tiếng kèn đồng thực sự dẫn đến là... 'Ở trong máng cỏ.'"

Tuy nhiên, trong các bài đọc của Chúa Nhật đầu tiên của Mùa Vọng, chúng ta có thể thấy rất rõ cách hai giai điệu này liên quan đến nhau.

"Những ngày sẽ đến, Chúa phán, khi Ta sẽ thực hiện lời hứa của Ta", Bài đọc thứ nhất nói. "Ta sẽ dựng lên cho Đa-vít một chồi non công chính; nó sẽ làm điều đúng đắn và công bằng trên trái đất này".

Sự ứng nghiệm vĩ đại của những lời hứa vĩ đại của Chúa, Chúa nói, sẽ là một cây nhỏ bé: thức ăn cho thỏ. Nếu điều đó có vẻ phản cao trào, thì không phải vậy. Đó là cùng một vở kịch cao trào mà Chúa triển khai để tạo ra hiệu ứng lớn vào mỗi mùa xuân. Sau một mùa đông dài, chúng ta hiểu được việc chụp ảnh có thể thú vị như thế nào. Và bất cứ ai đã từng có con hoặc cháu đều biết tin tức lớn lao về sự ra đời của một đứa trẻ.

Tin mừng đề cập đến một sự kiện chưa từng xảy ra cho đến ngày nay — cuộc trở lại của Chúa Kitô. Nhưng những chi tiết cụ thể hẳn rất quen thuộc với chúng ta.

“Sẽ có những dấu hiệu trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao, và trên trái đất, các quốc gia sẽ kinh hoàng,” Chúa Kitô nói. “Các quyền năng trên trời sẽ bị rung chuyển.”

Nếu điều đó nghe có vẻ kịch tính, chúng ta cần nhớ rằng những đứa trẻ chưa chào đời cũng kịch tính như thế nào. “Tạm biệt, tạm biệt, tạm biệt. Con lớn hơn cả bầu trời,” một bài hát phổ biến mà phụ nữ đã sử dụng làm khúc ca nói về nỗi đau mất đi một đứa con chưa chào đời. Trẻ em, ngay cả khi còn là phôi thai, cảm thấy mình lớn hơn thế giới … bởi vì chúng thực sự là như vậy. Điều đó thậm chí còn đúng hơn với Chúa Kitô: Người lớn hơn mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Thực thế, khi Chúa Giêsu đến, chúng ta thấy cả bầu trời rung chuyển: Ngôi sao Bêlem thắp sáng màn đêm, và các đạo quân thiên thần, mạnh mẽ hơn mọi quyền năng của trái đất, lấp đầy bầu trời.

Hài nhi Giêsu là một tượng đài, chia đôi thời gian và không gian.

Nhưng thứ ba: Chúa Giêsu không đến để cho chúng ta biết mọi sự sẽ kết thúc như thế nào; Người đến để cho chúng ta biết mọi sự sẽ bắt đầu ra sao.

Chúa Giêsu vẽ nên một bức tranh thảm khốc trong Tin mừng, nói rằng "Mọi người sẽ chết vì sợ hãi". Người khuyên chúng ta "Hãy cầu nguyện để các con có sức mạnh thoát khỏi những đau khổ sắp xảy ra và đứng trước Con Người".

Chắc chắn đây là những thông điệp về cách chúng ta phải sống để sẵn sàng vào ngày tận thế; nhưng chúng cũng là mô tả về cách chúng ta phải cư xử để sẵn sàng cho mỗi ngày.

Bài đọc thứ hai, từ Thánh Phaolô gửi tín hữu Texalônica, có lẽ là bức thư đầu tiên được viết trong Tân Ước. Trong đó, Thánh Phaolô nói với các Kitô hữu cách hành động trong những ngày đầu tiên của Kitô giáo, chứ không phải những ngày cuối cùng. Và ngài nói rằng “hãy yêu thương lẫn nhau và yêu thương mọi người”, và “hãy củng cố lòng mình, trở nên thánh thiện không chỗ chê trách” và “hãy cư xử để làm đẹp lòng Chúa”.

Bổn phận của chúng ta bắt đầu từ Ngày đầu tiên của Mùa Vọng là “luôn luôn cảnh giác và cầu nguyện để bạn có sức mạnh thoát khỏi những đau khổ sắp xảy ra và đứng trước Con Người”.

Vì vậy, thứ tư: Hãy sử dụng Mùa Vọng này để biết và chia sẻ về Chúa Giêsu.

Mọi người đều căng thẳng trong những ngày này, tìm kiếm sự thật trong một thế giới dối trá, và khao khát sống trọn vẹn cuộc sống của mình.

Đó chính là mục đích của Mùa Vọng: Chúng ta ăn chay để học cách tự chủ mà chúng ta cần để sống theo Con đường của Chúa Kitô; chúng ta cầu nguyện để định hình lại trái tim và tâm trí của mình để phù hợp với Sự thật của Chúa Kitô; và chúng ta bố thí để học cách rộng lượng để sống Cuộc sống của Chúa Kitô.

Mọi người không biết mình cho đến khi họ biết rằng họ được yêu thương, trọn vẹn, vô điều kiện, bởi Một Người Khác thực sự biết họ. Và mọi người không trở thành chính mình trọn vẹn cho đến khi họ trao tặng bản thân mình trong tình yêu, trọn vẹn và vô điều kiện, cho Một Người mà họ chấp nhận hoàn toàn.

Mùa Vọng đặt Chúa Giêsu trước mặt chúng ta như là đối tượng của những khao khát sâu sắc nhất của chúng ta. và yêu cầu chúng ta hợp tác với ân sủng của Người để trở thành kiểu người mà Chúa Giêsu sẽ nhận ra khi Người đến.
_____________________________________________________________________


(*) Tom Hoopes, tác giả của The Rosary of Saint John Paul II và The Fatima Family Handbook, là nhà văn thường trú tại Benedictine College ở Kansas và là người dẫn chương trình podcast The Extraordinary Story về cuộc đời của Chúa Kitô. Cuốn sách What Pope Francis Really Said của ông hiện đã có trên Audible. Là một cựu phóng viên tại khu vực Washington, D.C., Hoopes từng là thư ký báo chí của Chủ tịch Ủy ban Tài chính và Phương tiện của Hạ viện Hoa Kỳ và đã dành 10 năm làm biên tập viên điều hành của tờ báo National Catholic Register và tạp chí Faith & Family. Các tác phẩm của ông thường xuyên xuất hiện trên các ấn phẩm Công Giáo như Aleteia.org và Register. Ông và vợ, April, có chín người con và sống tại Atchison, Kansas.

 

https://vietcatholic.net/News/Html/293067.htm

 

ĐỜI SỐNG ĐẠO CỦA CÁC KI-TÔ HỮU Ở TRIỀU TIÊN GIỐNG THỜI ĐẾ QUỐC ROMA

 


Đời sống đạo của các Kitô hữu ở Triều Tiên giống thời đế quốc Roma

Trong cuộc phỏng vấn với Vatican News, được công bố ngày 28/11, cha Philippe Blot, thành viên Hội Thừa sai Paris, hoạt động mục vụ ở Hàn Quốc từ 34 năm qua cho biết, các Kitô hữu ở Triều Tiên sống đạo âm thầm, không dám công khai, bị bách hại giống các tín hữu thời đế quốc Roma.

Vatican News

Theo cha Philippe Blot, khi đất nước bị phân chia vào năm 1953, Triều Tiên sát hại tất cả linh mục và tu sĩ, trong đó có khoảng 10 tu sĩ dòng Biển Đức, người Đức và Hàn Quốc. Vào thời điểm đó, Bắc Hàn có nhiều Kitô hữu hơn Nam Hàn, nhưng tất cả đều bị cấm thực hành đạo, các tôn giáo khác cũng bị như vậy. Trong những năm qua, do áp lực kinh tế từ quốc tế, họ đã mở cửa một chút, bề ngoài dường như có vẻ tự do nhưng thực ra không phải vậy.

Như nguồn tin về việc xây một ngôi thánh đường ở Bình Nhưỡng và thành lập một hiệp hội người Công giáo ở Triều Tiên, tất cả chỉ là giả dối. Trong thời gian ở Triều Tiên, cha Philippe Blot yêu cầu được dâng Thánh lễ ở nhà thờ Bình Nhưỡng nhưng luôn bị từ chối. Buổi cử hành phụng vụ ở đó không có linh mục, mọi người tham dự đều mặc trang phục truyền thống, hát rất hay nhưng như một cuộc biểu diễn. Họ được trả tiền hoặc bị ép tham dự cuộc họp mặt. Có phần trao Mình Chúa, nhưng không ai biết bánh đã được truyền phép hay chưa. Tất cả đều giả.

Do những bất công, nghèo đói và bách hại đang diễn ra, họ sợ các linh mục, vì các linh mục lên tiếng bảo vệ người nghèo và công nhân. Ở quốc gia này, không có tự do. Họ biết Kitô giáo, và trên hết là Chúa Giêsu, ủng hộ tự do. Trong suy nghĩ của họ, Kitô giáo đại diện cho một hình thức chống quyền lực. Họ biết Kitô hữu có thể chịu đựng rất mạnh mẽ khi bị bách hại. Kitô hữu đích thực không bao giờ chối bỏ đức tin, và điều này là không thể chấp nhận được với Kim Jong-Un, người luôn cho mình ở trên Chúa. Các Kitô hữu, nếu chọn Chúa, sẽ bị đưa đến các trại, hoặc bị giết ngay tại chỗ. Cuộc bách hại rất khắc nghiệt.

Cha cho biết thêm, trước đại dịch Covid-19, một thoả thuận giữa Trung Quốc và Triều Tiên cho phép một số người sống gần biên giới được qua lại thăm người thân hai hoặc ba lần một tháng. Trong lúc ở Trung Quốc một số biết Chúa và được rửa tội. Nhưng khi về Triều Tiên họ không được phép thực hành đạo, đặc biệt họ không được phép mang Kinh Thánh về vì sẽ nguy hiểm đến tính mạng nếu bị phát hiện.

Mọi người không được công khai bày tỏ niềm tin của mình. Từ khi lên hai, ba tuổi, các trẻ em đã được dạy không nói lớn tiếng khi ra ngoài đường, ở lớp học không nói những chuyện ở nhà. Ở đất nước này, mọi người dễ dàng tố cáo nhau. Nếu bị phát hiện cầu nguyện sẽ bị bắt ngay. Luật im lặng ngự trị trong gia đình.

Trước thực trạng này, cha cho biết các tín hữu ở đây sống đạo âm thầm như các Kitô hữu thời đế quốc Roma, trong các hang toại đạo. Tất nhiên, không có giáo sĩ, không có Kinh Thánh, không có người hướng dẫn cầu nguyện. Tìm cách để không bị phát hiện khi cầu nguyện chung, nhưng nếu bị phát hiện họ rất can đảm, không chối bỏ Chúa và kiên trung cầu nguyện.

https://www.vaticannews.va/vi/world/news/2024-11/kito-huu-trieu-tien-giong-de-quoc-roma.html

Thứ Sáu, 29 tháng 11, 2024

PRAYER TO BL. CARLO ACUTIS FOR A MIRACLE

 

Prayer to Bl. Carlo Acutis for a miracle

 

 


mady70 | Shutterstock

 

Philip Kosloski - published on 10/12/21


The official prayer to Bl. Carlo Acutis, asking for his miraculous intercession.

Ever since his beatification in 2020, Catholics around the world have begun to seek the "computer geek" saint's heavenly intercession.

Here is the official prayer for his cause for canonization, that can be used to pray for a miracle from God.

O God our Father,
we thank you for giving us Carlo,
a model of life for young people,
and a message of love for all.
You made him fall in love with your son Jesus,
making the Eucharist his “highway to heaven.”
You gave him Mary as a beloved mother,
and you made him, through the Rosary,
a cantor of her tenderness.
Receive his prayer for us.
Look above all upon the poor, whom he loved and assisted.
Grant me too, through his intercession, the grace
that I need (mention your intention).
And make our joy full, raising Carlo among
the saints of your Church,
so that his smile shines again for us
to the glory of your name. Amen.

 

https://aleteia.org/2021/10/12/prayer-to-bl-carlo-acutis-for-a-miracle

LỜI CẦU NGUYỆN CÙNG CHÂN PHƯỚC ACUTIS SẮP ĐƯỢC PHONG THÁNH

 

Lời cầu nguyện cùng Chân Phước Acutis sắp được phong thánh

Đặng Tự Do  28/Nov/2024

 


Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã công bố rằng Chân phước Carlo Acutis và Chân phước Pier Giorgio Frassati, hai người Công Giáo trẻ được yêu mến vì đức tin mạnh mẽ và chứng tá về sự thánh thiện, sẽ được tuyên thánh trong hai lễ kỷ niệm lớn dành riêng cho giới trẻ.

Thông báo bất ngờ được đưa ra vào lúc kết thúc buổi tiếp kiến chung hàng tuần của Giáo hoàng tại Quảng trường Thánh Phêrô khi Đức Phanxicô kỷ niệm Ngày Thiếu nhi Thế giới.

Theo Giáo phận Assisi, lễ tuyên thánh cho Acutis dự kiến sẽ diễn ra vào Chúa Nhật, ngày 27 tháng 4, lúc 10:30 sáng giờ địa phương tại Quảng trường Thánh Phêrô.

Dưới đây là lời cầu nguyện chính thức cùng Chân Phước Acutis sắp được phong thánh của giáo phận Assisi.

Lạy Chúa là Cha chúng con,

chúng con cảm tạ Chúa đã ban Carlo cho chúng con,

một hình mẫu sống cho những người trẻ tuổi,

và thông điệp yêu thương gửi đến tất cả mọi người.

Chúa đã khiến anh ấy yêu Chúa Giêsu, con Chúa,

biến Bí tích Thánh Thể thành “con đường lên thiên đàng”.

Chúa đã ban cho Carlo Đức Mẹ Maria làm người mẹ yêu dấu,

và Chúa đã đào tạo anh ấy, thông qua Kinh Mân Côi, trở thành

một ca sĩ thể hiện sự dịu dàng của Đức Mẹ.

Xin Chúa thương nhận lời cầu nguyện của ngài cầu bầu cho chúng con.

Trước hết, xin Chúa nhìn đến những người nghèo, những người mà ngài yêu thương và giúp đỡ.

Xin Chúa cũng ban cho con nữa, qua lời chuyển cầu của ngài, ân sủng

mà con cần (nêu ý định của bạn).

Và để cho niềm vui của chúng con được trọn vẹn, xin nâng Carlo lên hàng các thánh trong Giáo Hội của Chúa,

để nụ cười của anh ấy lại tỏa sáng cho chúng con biết tôn vinh danh Chúa. Amen.


Source:AleteiaPrayer to Bl. Carlo Acutis for a miracle

 

https://vietcatholic.net/News/Html/293059.htm

THE NEW WORLD AND THANKSGIVING

 

The New World and Thanksgiving

Stephen P. White

Thursday, November 28, 2024

Thanksgiving is the quintessential American holiday. No other holiday captures so well the history, temperament, and aspirations of this nation. The distinctive traditions of Christmas, for example – the tree, the carols, Santa Claus – are decidedly, and charmingly, Old World traditions.

The Fourth of July is a riot of fireworks and barbecues and captures well the rebellious spirit that has always marked the American character. But most countries celebrate a national day, and many follow our precedent by having it coincide with the anniversary of their own national independence. We Americans have turned Halloween into a commercial juggernaut (very American, that) but the celebration of All Hallows Eve is another European hand-me-down.

There is some dispute as to which band of Protestant emigres celebrated the first Thanksgiving. The passengers of the ship Margaret landed in what is now Virginia in late 1619 and promptly offered solemn thanks to God for their safe passage. That’s all meet and just, but for a proper Thanksgiving setting, give me autumn in New England over December in the Virginia Tidewater.

For most of us, Thanksgiving began with the 1621 celebration of a good harvest by the Pilgrims and their Native neighbors near Plymouth, Massachusetts. Presumably, they ate roast turkey, with sage and apple stuffing, mashed potatoes and gravy, green bean casserole, sweet potatoes (no marshmallows, thank you), and cranberry sauce out of a can, just as God intended. Dinner was served at about four in the afternoon, just after the Lions game. The turkey, according to historians, was dry.

If food is the matter of the Thanksgiving holiday, then gratitude is its form. This is not always obvious, despite the holiday’s rather unambiguous name. I celebrated Thanksgiving in London once, many years ago, and learned a few things from the experience. One was that it was surprisingly difficult to find canned pumpkin in London for the requisite pie.

Another thing I learned was that many non-Americans (at least the ones I knew) genuinely thought the day was intended as a celebration of gluttony and excess, as though the day had been named ironically and we Americans were just rubbing our bounty in everyone else’s faces by stuffing our own.

A third thing I learned was that Americans can be somewhat naive about how our own earnestness is perceived abroad.

My London friends were set straight in the end, I’m happy to say. Another American and I prepared a traditional Thanksgiving feast with all the sides and fixings. We even found the pumpkin we needed for the pie. The story of the Pilgrims’ gratitude was recounted, to the surprise and pleasure of our fellow diners, and by the end of the meal everyone agreed that Thanksgiving was a delightful holiday and not at all what they had expected.

The turkey was, I’m sorry to report, a bit dry.

 


Thanksgiving by Doris Lee, 1935 [Art Institute of Chicago]

Gratitude, as I said, is the form of the holiday. And gratitude is best demonstrated when the cause of our gratitude is shared widely. This is another thing our Thanksgiving gets right. We don’t just thank God for his blessings, we pass them around the biggest table we can find. The significance of sharing our blessings as an expression of gratitude comes home most poignantly when times are hardest.

(I will be celebrating Thanksgiving this year with my in-laws; the first Thanksgiving since my father-in-law died this spring. His absence will be felt all the more acutely for it being Thanksgiving. There will be some tears, no doubt. But I am also sure that this year, both despite our loss and because of it, our celebration will bring an unusually abundant harvest of gratitude.)

Thanksgiving was proclaimed a national holiday, to be celebrated on the last Thursday of November, by Abraham Lincoln in 1863, in the midst of the Civil War. Amidst unprecedented bloodshed and a fractured Union, Lincoln exhorted all Americans to offer thanks to God for the countless, unmerited blessings he had bestowed upon the people of this nation.

His words are worth recalling today:

No human counsel hath devised nor hath any mortal hand worked out these great things. They are the gracious gifts of the Most High God, who, while dealing with us in anger for our sins, hath nevertheless remembered mercy. It has seemed to me fit and proper that they should be solemnly, reverently and gratefully acknowledged as with one heart and one voice by the whole American People. . . .And I recommend to them that while offering up the ascriptions justly due to Him for such singular deliverances and blessings, they do also, with humble penitence for our national perverseness and disobedience, commend to His tender care all those who have become widows, orphans, mourners or sufferers in the lamentable civil strife in which we are unavoidably engaged, and fervently implore the interposition of the Almighty Hand to heal the wounds of the nation and to restore it as soon as may be consistent with the Divine purposes to the full enjoyment of peace, harmony, tranquility, and Union.

Lincoln’s own particular religious beliefs are somewhat obscure, but he clearly understood the importance of gratitude. He understood how necessary it is that thanks be given to God even by, especially by, a suffering and disobedient people.

So it was then and so it is now.

Americans will take to the tables today to share the bounty of God’s blessings with one another. This stubborn, striving, suffering, and disobedient people has so much to be grateful for. We are at our best when we are grateful. Maybe that’s true of every nation; surely in some sense, it is. But gratitude is particularly becoming in a country as great as ours. Gratitude is a perfection worthy of pursuit in this imperfect nation. We undertake that pursuit today by giving thanks to the Almighty.

Have a happy and blessed Thanksgiving!

https://www.thecatholicthing.org/2024/11/28/the-new-world-and-thanksgiving/

TÂN THẾ GIỚI VÀ LỄ TẠ ƠN

 

Tân Thế giới và Lễ Tạ ơn

Vũ Văn An  28/Nov/2024

 

Stephen P. White, trên tạp chí The Catholic Thing, Thứ năm, ngày 28 tháng 11 năm 2024, nhận định rằng: Lễ Tạ ơn là ngày lễ tinh túy của người Mỹ. Không có ngày lễ nào khác nắm bắt được lịch sử, tính khí và nguyện vọng của quốc gia này tốt như vậy. Ví dụ, các truyền thống đặc biệt của Giáng sinh - cây thông, bài hát mừng, Ông già Noel - chắc chắn là truyền thống của Thế giới cũ một cách quyến rũ.

Ngày 4 tháng 7 là ngày lễ bắn pháo bông và tiệc thịt nướng, thể hiện rõ tinh thần nổi loạn luôn là đặc điểm của người Mỹ. Nhưng hầu hết các quốc gia đều kỷ niệm một ngày quốc khánh và nhiều quốc gia noi theo tiền lệ của chúng ta bằng cách trùng với ngày kỷ niệm độc lập của quốc gia họ. Người Mỹ chúng ta đã biến Halloween thành một cơn sốt thương mại (rất Mỹ, đúng vậy) nhưng lễ kỷ niệm All Hallows Eve lại là một lễ hội truyền thống khác của người châu Âu.

Có một số tranh cãi về việc nhóm người Thệ phản di cư nào đã kỷ niệm Lễ Tạ ơn đầu tiên. Những hành khách trên con tàu Margaret đã cập bến nơi hiện là Virginia vào cuối năm 1619 và nhanh chóng cảm tạ Chúa vì chuyến đi an toàn của họ. Tất cả đều đúng và công bằng, nhưng để có một Lễ Tạ ơn đúng nghĩa, hãy cho tôi mùa thu ở New England vào tháng 12 tại Virginia Tidewater.

Đối với hầu hết chúng ta, Lễ Tạ ơn bắt đầu bằng lễ kỷ niệm năm 1621 về một vụ thu hoạch bội thu của những người hành hương và những người hàng xóm bản địa của họ gần Plymouth, Massachusetts. Có lẽ, họ đã ăn gà tây quay, nhồi cây xô thơm và táo, khoai tây nghiền và nước sốt, món hầm đậu xanh, khoai lang (không có kẹo dẻo, cảm ơn) và nước sốt nam việt quất đóng hộp, đúng như Chúa đã định. Bữa tối được phục vụ vào khoảng bốn giờ chiều, ngay sau trận đấu của Lions. Theo các nhà sử học, con gà tây đã khô.

Nếu thức ăn là vấn đề của ngày lễ Tạ ơn, thì lòng biết ơn chính là hình thức của nó. Điều này không phải lúc nào cũng rõ ràng, mặc dù tên gọi của ngày lễ khá rõ ràng. Tôi đã từng ăn mừng Lễ Tạ ơn ở London một lần, cách đây nhiều năm và đã học được một vài điều từ trải nghiệm đó. Một điều là rất khó để tìm thấy bí ngô đóng hộp ở London để làm chiếc bánh theo yêu cầu.

Một điều khác tôi học được là nhiều người không phải người Mỹ (ít nhất là những người tôi biết) thực sự nghĩ rằng ngày này được dùng để tôn vinh sự tham ăn và quá mức, như thể ngày này được đặt tên một cách mỉa mai và chúng tôi, những người Mỹ, chỉ đang phô trương sự hào phóng của mình vào mặt người khác bằng cách nhồi nhét của chính mình.

Điều thứ ba tôi học được là người Mỹ có thể hơi ngây thơ về cách người khác nhìn nhận sự chân thành của chúng ta.

Cuối cùng, những người bạn London của tôi đã được giải quyết ổn thỏa, tôi rất vui khi nói như vậy. Một người Mỹ khác và tôi đã chuẩn bị một bữa tiệc Lễ Tạ ơn truyền thống với đầy đủ các món ăn kèm và đồ ăn kèm. Chúng tôi thậm chí còn tìm thấy quả bí ngô mà chúng tôi cần cho chiếc bánh. Câu chuyện về lòng biết ơn của những người hành hương đã được kể lại, khiến những người ăn cùng chúng tôi ngạc nhiên và thích thú, và đến cuối bữa ăn, mọi người đều đồng ý rằng Lễ Tạ ơn là một ngày lễ thú vị và hoàn toàn không phải là những gì họ mong đợi.

Tôi rất tiếc phải báo cáo rằng con gà tây hơi khô.


 

Lễ Tạ ơn của Doris Lee, 1935 [Viện Nghệ thuật Chicago]

Lòng biết ơn, như tôi đã nói, là hình thức của ngày lễ. Và lòng biết ơn được thể hiện rõ nhất khi lý do chúng ta biết ơn được chia sẻ rộng rãi. Đây là một điều khác mà Lễ Tạ ơn của chúng ta làm đúng. Chúng ta không chỉ cảm ơn Chúa vì những phước lành của Người, mà chúng ta còn trao chúng cho những người trên chiếc bàn lớn nhất mà chúng ta có thể tìm thấy. Ý nghĩa của việc chia sẻ những phước lành của chúng ta như một cách thể hiện lòng biết ơn trở nên sâu sắc nhất khi có những lúc khó khăn nhất.

(Năm nay, tôi sẽ ăn mừng Lễ Tạ ơn với gia đình chồng; Lễ Tạ ơn đầu tiên kể từ khi bố chồng tôi mất vào mùa xuân năm nay. Sự vắng mặt của ông sẽ được cảm nhận sâu sắc hơn vì đó là Lễ Tạ ơn. Chắc chắn sẽ có một số giọt nước mắt. Nhưng tôi cũng chắc chắn rằng năm nay, mặc dù mất mát và vì mất mát, lễ kỷ niệm của chúng tôi sẽ mang lại một vụ mùa biết ơn dồi dào khác thường.)

Lễ Tạ ơn đã được Abraham Lincoln tuyên bố là một ngày lễ quốc gia, được tổ chức vào thứ Năm cuối cùng của tháng 11, vào năm 1863, giữa Nội chiến. Giữa cảnh đổ máu chưa từng có và một Liên bang tan vỡ, Lincoln đã khuyên nhủ tất cả người Mỹ hãy tạ ơn Chúa vì vô số phước lành vô giá mà Người đã ban cho người dân đất nước này.

Những lời của ông đáng được ghi nhớ ngày nay:

Không có cố vấn nào của con người nghĩ ra cũng như không có bàn tay phàm trần nào tạo ra những điều vĩ đại này. Đó là những món quà nhân từ của Chúa Tối Cao, Đấng đã đối xử với chúng ta trong cơn giận dữ vì tội lỗi của chúng ta, nhưng vẫn nhớ đến lòng thương xót. Đối với tôi, điều phù hợp và đúng đắn là chúng nên được toàn thể Người dân Hoa Kỳ long trọng, cung kính và biết ơn thừa nhận như với một trái tim và một tiếng nói.... Và tôi khuyên họ rằng trong khi dâng lên những lời ca ngợi công bằng dành cho Người vì những sự giải thoát và phước lành đặc biệt như vậy, họ cũng khiêm nhường ăn năn về sự đồi trụy và bất tuân của quốc gia chúng ta, hãy phó thác cho Người chăm sóc dịu dàng tất cả những người đã trở thành góa phụ, trẻ mồ côi, người than khóc hoặc người đau khổ trong cuộc xung đột dân sự đáng thương mà chúng ta đang trải qua không thể tránh khỏi, và tha thiết cầu xin sự can thiệp của Bàn tay Toàn năng để chữa lành vết thương của quốc gia và khôi phục quốc gia sớm nhất có thể phù hợp với mục đích của Thiên Chúa để tận hưởng trọn vẹn hòa bình, hòa hợp, yên bình và Liên minh.

Niềm tin tôn giáo riêng của Lincoln có phần mơ hồ, nhưng ông hiểu rõ tầm quan trọng của lòng biết ơn. Ông hiểu rằng việc tạ ơn Chúa là điều cần thiết ngay cả bởi, đặc biệt là bởi, một dân tộc đau khổ và bất tuân.

Ngày xưa cũng vậy và bây giờ cũng vậy.

Người Mỹ sẽ ngồi vào bàn để chia sẻ sự ban phước dồi dào của Chúa với nhau. Dân tộc bướng bỉnh, phấn đấu, đau khổ và bất tuân này có rất nhiều điều để biết ơn. Chúng ta ở trạng thái tốt nhất khi biết ơn. Có lẽ điều đó đúng với mọi quốc gia; chắc chắn theo một nghĩa nào đó, nó đúng. Nhưng lòng biết ơn đặc biệt trở nên phù hợp ở một quốc gia vĩ đại như đất nước chúng ta. Lòng biết ơn là sự hoàn hảo đáng theo đuổi ở quốc gia không hoàn hảo này. Chúng ta thực hiện sự theo đuổi đó ngày hôm nay bằng cách tạ ơn Đấng Toàn năng.

 

Chúc mừng Lễ Tạ ơn vui vẻ và hạnh phúc!

 

https://vietcatholic.net/News/Html/293054.htm

THE EUCHARIST'S CONNECTION TO THURSDAY AND THANKSGIVING

 

The Eucharist’s connection to Thursdays … and Thanksgiving

Dr. Annabelle Moseley, T.O.Carm. - published on 11/28/24

 


We give to God all that we are and hope to be, we give Him our petitions, praise, love, and gratitude; and He gives to us His Real Presence ...

Did you know ... Thanksgiving is always celebrated on a Thursday? In 1863, President Lincoln declared the last Thursday in November to be the norm for this holiday, which had been celebrated since 1621’s first Thanksgiving. In December 1941, Congress passed a law stating that Thanksgiving would always be on the fourth Thursday of November ... and so it remains to this day.

When you think about it, this has astounding implications for Catholics! Because Thursday is also the day of the week in the Catholic Church devoted to the Holy Eucharist. And, “Eucharist,” means “Thanksgiving,” and the Institution of the Eucharist occurred on a Thursday … Holy Thursday, to be exact. 

There is a deep connection between the hospitality we give and receive this Thanksgiving, and our love of the Eucharist.

We must remember, as practicing Catholics, that in the Eucharist there is a “give and take.” We give to God all that we are and hope to be, we give Him our petitions, praise, love, and gratitude; and He gives to us His Real Presence: Body, Blood, Soul, and Divinity. Then we take of His gift in Holy Communion and He takes all our offerings unto Himself.

Think of the joy of welcoming those we love into our homes for Thanksgiving … or attending this wonderful feast at the house of someone we love. It is an unforgettable exchange of hospitality and happiness as we experience a deep sense of belonging. 

How much more is this joy complete when we welcome our Lord.

This Thanksgiving Thursday let us invite Him to be our guest in each of our hearts.

“Lord, I am not worthy that you should enter under my roof. But only say the word and my soul shall be healed.” We are welcoming our Lord under the roof of our hearts, to be given our Thanksgiving hospitality … every time.

How do we prepare our souls for our beloved invited Guest, Jesus? One beautiful way is to pray a prayer of loving preparation before receiving Communion such as this one, and to pray a prayer of thanksgiving after Communion such as this one by St. Thomas Aquinas, or the deeply meaningful and easy to memorize Anima Christi. We can sign up here to receive a free Eucharist-themed guided Holy Hour.

Scripture shows how seldom Jesus was loved and served, but how much Jesus values hospitality when it is shown to Him. Consider this sad verse the next time you prepare to receive the Eucharist: “Foxes have dens and birds of the air have nests, but the Son of Man has nowhere to rest His head.” Let us offer Jesus a place to rest His head: within our hearts each time we receive and adore Him.  

“At the name of Jesus every knee should bend” (Phil 2:6-11). That is simply at His Name. How much more should we lavish Him with love when we are before His Presence in the Eucharist? How can we receive Him with ever more humility, love, and thanksgiving? We cannot do enough for Him.

This Thanksgiving, let us lovingly welcome our Eucharistic Lord … and in every Eucharistic Thanksgiving we celebrate, year-round ... for the rest of our lives. 

Let us be sure we pray grace before meals this Thanksgiving, and always. And when we are counting our blessings this year, let us count the Eucharist as the greatest.

 

https://aleteia.org/2024/11/28/the-eucharists-connection-to-thursdays-and-thanksgiving

MỐI LIÊN HỆ CỦA BÍ TÍCH THÁNH THỂ VỚI THỨ NĂM VÀ LỄ TẠ ƠN

 

Mối liên hệ của Bí tích Thánh Thể với Thứ Năm… và Lễ Tạ ơn

Vũ Văn An  28/Nov/2024

 


Romolo Tavani | Shutterstock

Tiến sĩ Annabelle Moseley, T.O.Carm. trên tạp chí Aleteia, xuất bản ngày 28/11/24, viết rằng: Chúng ta dâng lên Chúa tất cả những gì chúng ta là và hy vọng sẽ là, chúng ta dâng lên Người những lời cầu xin, lời ngợi khen, tình yêu và lòng biết ơn; và Người ban cho chúng ta Sự hiện diện thực sự của Người...

Bạn có biết... Lễ Tạ ơn luôn được tổ chức vào Thứ Năm không? Năm 1863, Tổng thống Lincoln tuyên bố Thứ Năm cuối cùng của tháng 11 là ngày lễ chuẩn mực cho ngày lễ này, vốn đã được tổ chức từ Lễ Tạ ơn đầu tiên vào năm 1621. Vào tháng 12 năm 1941, Quốc hội đã thông qua một đạo luật nêu rõ Lễ Tạ ơn sẽ luôn diễn ra vào Thứ Năm thứ tư của tháng 11... và vẫn như vậy cho đến ngày nay.

Khi bạn nghĩ về điều đó, điều này có ý nghĩa đáng kinh ngạc đối với người Công Giáo! Bởi vì Thứ Năm cũng là ngày trong tuần trong Giáo Hội Công Giáo dành riêng cho Bí tích Thánh Thể. Và, “Eucharist” có nghĩa là “Lễ Tạ ơn”, và việc thiết lập Bí tích Thánh Thể diễn ra vào thứ Năm… Thứ Năm Tuần Thánh, chính xác là như vậy.

Có một mối liên hệ sâu sắc giữa lòng hiếu khách mà chúng ta dành cho và nhận được trong Lễ Tạ ơn này, và tình yêu của chúng ta dành cho Bí tích Thánh Thể.

Là những người Công Giáo thực hành, chúng ta phải nhớ rằng trong Bí tích Thánh Thể có sự “cho và nhận”. Chúng ta trao cho Chúa tất cả những gì chúng ta là và hy vọng sẽ là, chúng ta dâng lên Người những lời cầu xin, lời ngợi khen, tình yêu và lòng biết ơn; và Người ban cho chúng ta Sự hiện diện thực sự của Người: Thân thể, Máu, Linh hồn và Thiên tính. Sau đó, chúng ta nhận món quà của Người trong Bí tích Thánh Thể và Người nhận tất cả lễ vật của chúng ta cho chính Người.

Hãy nghĩ đến niềm vui khi chào đón những người chúng ta yêu thương vào nhà mình trong Lễ Tạ ơn… hoặc tham dự bữa tiệc tuyệt vời này tại nhà của một người mà chúng ta yêu thương. Đó là sự trao đổi lòng hiếu khách và hạnh phúc khó quên khi chúng ta trải nghiệm cảm giác thân thuộc sâu sắc.

Niềm vui này trọn vẹn hơn biết bao khi chúng ta chào đón Chúa của mình.

Vào Thứ Năm Lễ Tạ ơn này, chúng ta hãy mời Người làm khách trong trái tim của mỗi người chúng ta.

“Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con. Nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ được lành mạnh.” Chúng ta đang chào đón Chúa dưới mái nhà của trái tim mình, để được đón tiếp lòng hiếu khách Tạ ơn… mọi lúc.

Làm thế nào để chúng ta chuẩn bị tâm hồn mình cho Vị Khách được mời yêu dấu của chúng ta, Chúa Giêsu? Một cách tuyệt vời là cầu nguyện một lời cầu nguyện chuẩn bị đầy yêu thương trước khi Rước lễ như lời cầu nguyện này, và cầu nguyện một lời cầu nguyện tạ ơn sau khi Rước lễ như lời cầu nguyện này của Thánh Thomas Aquinas, hoặc lời cầu nguyện Anima Christi [lạy linh hồn Chúa Ki-tô] có ý nghĩa sâu sắc và dễ nhớ. Chúng ta có thể đăng ký tại đây để nhận Giờ Thánh có hướng dẫn miễn phí theo chủ đề Thánh Thể.

Kinh thánh cho thấy Chúa Giêsu hiếm khi được yêu thương và phục vụ, nhưng Chúa Giêsu coi trọng lòng hiếu khách biết bao khi lòng hiếu khách được thể hiện với Người. Hãy cân nhắc câu thơ buồn này vào lần tới khi bạn chuẩn bị rước lễ: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có nơi nào gối đầu.” Chúng ta hãy dâng cho Chúa Giêsu một nơi để Người gối đầu: trong trái tim chúng ta mỗi khi chúng ta đón nhận và tôn thờ Người.

“Khi nghe danh Chúa Giêsu, mọi đầu gối phải quỳ xuống” (Phl 2:6-11). Chỉ đơn giản là khi nghe danh Người. Chúng ta càng phải yêu mến Người hơn bao nhiêu khi chúng ta ở trước Sự Hiện Diện của Người trong Bí tích Thánh Thể? Làm sao chúng ta có thể đón nhận Người với lòng khiêm nhường, yêu thương và tạ ơn nhiều hơn? Chúng ta không thể làm đủ cho Người.

Lễ Tạ Ơn này, chúng ta hãy yêu thương chào đón Chúa Thánh Thể của chúng ta… và trong mỗi Lễ Tạ Ơn Thánh Thể mà chúng ta cử hành, quanh năm… cho đến hết cuộc đời.

Chúng ta hãy chắc chắn rằng chúng ta cầu nguyện trước bữa ăn trong Lễ Tạ Ơn này và luôn luôn như vậy. Và khi chúng ta đếm những phước lành của mình trong năm nay, chúng ta hãy coi Bí tích Thánh Thể là điều vĩ đại nhất.

 

https://vietcatholic.net/News/Html/293053.htm

POPE CONFIRMS PLANS TO VISIT TURKEY FOR HISTORIC NICAEA COUNCIL ANNIVERSARY

 

Pope Francis confirms plans to visit Turkey for historic Nicaea council anniversary

 


Pope Francis speaks to members of the International Theological Commission at the Vatican on Thursday, Nov. 28, 2024. | Vatican Media

 

By Hannah Brockhaus

Rome Newsroom, Nov 28, 2024 / 06:30 am

 

Pope Francis told a group of theologians on Thursday he plans to visit Turkey for the 1,700th anniversary of the Council of Nicaea in 2025.

Bartholomew I, the Eastern Orthodox Patriarch of Constantinople, anticipated that Francis would be making the trip in comments to reporters in May. In September, he confirmed that the joint trip is expected to happen at the end of May 2025.

The Council of Nicaea took place in the ancient city of Nicaea in 325 A.D. in the former Roman Empire, which is now the present-day city of İznik, in northwestern Turkey, about 70 miles from Istanbul.

“I plan to go there,” Pope Francis told members of the International Theological Commission on Nov. 28.

The Council of Nicaea, he said, “constitutes a milestone in the journey of the Church and also of all humanity, because faith in Jesus, the Son of God made flesh for us and for our salvation, was formulated and professed as a light that illuminates the meaning of reality and the destiny of all history.”

Pope Francis met with the International Theological Commission during their plenary gathering at the Vatican. He noted it is important that the commission’s meeting includes drafting a document about “the current meaning of the faith professed at Nicaea.”

“Such a document may be valuable, in the course of the Jubilee year, to nourish and deepen the faith of believers and, starting from the figure of Jesus, also offer insights and reflections useful for a new cultural and social paradigm, inspired precisely by the humanity of Christ,” the pope said.

The Council of Nicaea was the first ecumenical council in the Church. It is accepted by the Catholic Church, the Eastern Orthodox Church, the Oriental Orthodox Church, and other Christian communities that accept the validity of early church councils.

It predates the Chalcedonian Schism — which separated the Oriental Orthodox communion from Rome — by more than 100 years and predates the Great Schism — which separated the Eastern Orthodox Church from Rome — by more than 700 years.

During the council, the bishops condemned the heresy of Arianism, which asserted that the Son was created by the Father. Arius, a priest who faced excommunication for propagating the heresy, did not accept that the Son was coeternal with the Father.

Pope Francis said during a meeting with a delegation of the Ecumenical Patriarchate of Constantinople in June that he wished “wholeheartedly” to make the journey to Nicaea to mark the important anniversary with Bartholomew I.

If he travels to Turkey, a trip that has yet to be confirmed by the Vatican, it will take place amid a busy Jubilee Year for the pontiff.

“The Council of Nicaea, in affirming that the Son is of the same substance as the Father, highlights something essential: in Jesus we can know the face of God and, at the same time, also the face of man, discovering ourselves sons in the Son and brothers among ourselves,” Francis said on Thursday. “A fraternity, one rooted in Christ, that becomes a fundamental ethical task for us.”

“Today, in fact, in a complex and often polarized world, tragically marked by conflict and violence, the love of God that is revealed in Christ and given to us in the Spirit becomes an appeal to everyone to learn to walk in fraternity and to be builders of justice and peace,” he added.

In his speech to the theologians of the international commission, the pope also emphasized the importance of synodality.

“I would say that the time has come to take a courageous step: to develop a theology of synodality, a theological reflection that helps, encourages, and accompanies the synodal process, for a new, more creative and bold missionary stage that is inspired by the kerygma and involves all components of the Church,” he said.

https://www.catholicnewsagency.com/news/260757/pope-francis-to-join-orthodox-patriarch-in-turkey-for-nicaea-council-anniversary

ĐỨC GIÁO HOÀNG XÁC NHẬN KẾ HOẠCH THĂM THỔ NHĨ KỲ ĐỂ KỶ NIỆM CÔNG ĐỒNG NI-XÊ-A LỊCH SỬ

 

Đức Giáo Hoàng Phanxicô xác nhận kế hoạch thăm Thổ Nhĩ Kỳ để kỷ niệm công đồng Ni-xê-a lịch sử

Vũ Văn An  28/Nov/2024

 


Đức Giáo Hoàng Phanxicô phát biểu với các thành viên của Ủy ban Thần học Quốc tế tại Vatican vào thứ năm, ngày 28 tháng 11 năm 2024. | Vatican Media

 

Brockhaus của CNA, ngày 28 tháng 11 năm, loan tin: Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói với một nhóm các nhà thần học vào thứ năm rằng ngài có kế hoạch thăm Thổ Nhĩ Kỳ để kỷ niệm 1.700 năm Công đồng Ni-xê-a vào năm 2025.

Bartholomew I, Thượng phụ Chính thống giáo Đông phương của Constantinople, đã dự đoán rằng Đức Phanxicô sẽ thực hiện chuyến đi trong các bình luận với các phóng viên vào tháng 5. Vào tháng 9, ngài xác nhận rằng chuyến đi chung dự kiến sẽ diễn ra vào cuối tháng 5 năm 2025.

Công đồng Ni-xê-a diễn ra tại thành phố cổ Ni-xê-a vào năm 325 sau Công nguyên thuộc Đế quốc La Mã cũ, hiện là thành phố İznik ngày nay, ở phía tây bắc Thổ Nhĩ Kỳ, cách Istanbul khoảng 70 dặm.

“Tôi dự định sẽ đến đó”, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói với các thành viên của Ủy ban Thần học Quốc tế vào ngày 28 tháng 11.

Ngài nói rằng Công đồng Ni-xê-a “là một cột mốc trong hành trình của Giáo hội và của toàn thể nhân loại, bởi vì đức tin vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã nhập thể vì chúng ta và vì sự cứu rỗi của chúng ta, đã được hình thành và tuyên xưng như một ngọn đèn soi sáng ý nghĩa của thực tại và vận mệnh của toàn bộ lịch sử”.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã gặp Ủy ban Thần học Quốc tế trong cuộc họp toàn thể của họ tại Vatican. Ngài lưu ý rằng điều quan trọng là cuộc họp của ủy ban bao gồm việc soạn thảo một tài liệu về “ý nghĩa hiện tại của đức tin được tuyên xưng tại Ni-xê-a”.

“Một tài liệu như vậy có thể có giá trị, trong suốt năm Thánh, để nuôi dưỡng và đào sâu đức tin của các tín hữu và, bắt đầu từ hình ảnh Chúa Giêsu, cũng cung cấp những hiểu biết sâu sắc và suy gẫm hữu ích cho một mô hình văn hóa và xã hội mới, được truyền cảm hứng chính xác từ nhân tính của Chúa Kitô,” Đức Giáo Hoàng nói.

Công đồng Ni-xê-a là công đồng đại kết đầu tiên trong Giáo hội. Công đồng này được Giáo Hội Công Giáo, Giáo hội Chính thống giáo Đông phương, và các cộng đồng Kitô giáo khác chấp nhận tính hợp lệ của các công đồng của giáo hội sơ khai.

Nó có trước Ly giáo Can-xê-đoan — đã tách hiệp thông Chính thống giáo Đông phương khỏi Rome — hơn 100 năm và trước Đại ly giáo — đã tách Giáo hội Chính thống giáo Đông phương khỏi Rome — hơn 700 năm.

Trong công đồng, các giám mục đã lên án tà giáo Ariô, là tà giáo cho rằng Chúa Con được Chúa Cha tạo ra. Ariô, một linh mục sẽ bị vạ tuyệt thông vì truyền bá tà giáo, đã không chấp nhận rằng Chúa Con đồng hằng hữu với Chúa Cha.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói trong một cuộc họp với phái đoàn của Tòa Thượng phụ Đại kết Constantinople vào tháng 6 rằng ngài "hết lòng" muốn thực hiện chuyến đi đến Ni-xê-a để kỷ niệm ngày kỷ niệm quan trọng với Đức Bartholomew I.

Nếu ngài đến Thổ Nhĩ Kỳ, một chuyến đi vẫn chưa được Vatican xác nhận, thì chuyến đi sẽ diễn ra trong bối cảnh Năm Thánh bận rộn của Đức Giáo Hoàng.

“Công đồng Ni-xê-a, khi khẳng định rằng Chúa Con có cùng bản chất với Chúa Cha, đã nhấn mạnh một điều cốt yếu: trong Chúa Giêsu, chúng ta có thể biết được khuôn mặt của Thiên Chúa và đồng thời, cũng biết được khuôn mặt của con người, khám phá ra chính mình là con cái trong Chúa Con và là anh em giữa chúng ta,” Đức Phanxicô phát biểu vào thứ năm. “Một tình huynh đệ, một tình huynh đệ bắt nguồn từ Chúa Kitô, trở thành một nhiệm vụ đạo đức cơ bản đối với chúng ta.”

“Thực thế, ngày nay, trong một thế giới phức tạp và thường xuyên phân cực, bị đánh dấu một cách bi thảm bởi xung đột và bạo lực, tình yêu của Thiên Chúa được mặc khải trong Chúa Kitô và được ban cho chúng ta trong Chúa Thánh Thần trở thành lời kêu gọi mọi người học cách bước đi trong tình huynh đệ và trở thành những người xây dựng công lý và hòa bình,” ngài nói thêm.

Trong bài phát biểu trước các nhà thần học của ủy ban thần học quốc tế, Đức Giáo Hoàng cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của tính đồng nghị.

“Tôi muốn nói rằng đã đến lúc phải thực hiện một bước đi dũng cảm: phát triển một nền thần học về tính đồng nghị, một sự suy tư thần học giúp đỡ, khuyến khích và đồng hành với tiến trình thượng hội đồng, hướng đến một giai đoạn truyền giáo mới, sáng tạo hơn và táo bạo hơn, lấy cảm hứng từ kerygma [giáo lý sơ truyền] và liên quan đến mọi thành phần của Giáo hội,” ngài nói.

 

https://vietcatholic.net/News/Html/293055.htm

Thứ Năm, 28 tháng 11, 2024

POPE: CHURCH NEEDS THEOLOGICAL REFLECTION ON SYNODALITY CENTERED ON CHRIST

 


Pope Francis with members of the Pontifical Theological Commission  (VATICAN MEDIA Divisione Foto)

 

Pope: Church needs theological reflection on synodality centered on Christ

Pope Francis meets with the plenary assembly of the Pontifical Theological Commission, and invites Catholic theologians to develop a theology of synodality that puts Christ at the center.

By Devin Watkins

As the Pontifical Theological Commission holds its Plenary Session, Pope Francis praised its work on a document to shed light on the profession of faith of the Council of Nicaea.

The 2025 Jubilee marks the 1,700th anniversary of the first Ecumenical Council, which developed the Nicene Creed stating that the Son is consubstantial with the Father.

“A document of this sort could prove invaluable, in the course of the Jubilee Year, to nourish and deepen the faith of believers and, based on the figure of Jesus, to offer insights and reflections useful for a new cultural and social paradigm inspired by the humanity of Christ,” he said during the audience with participants on Thursday.

Theology done ‘close to heart of Jesus’

In this same vein, Pope Francis invited all theologians to always put Christ at the center of their studies, while also developing a theology of synodality.

The Holy Year, he said, offers an opportunity to rediscover the face of Christ, saying theologians need to place their head “close to the heart of Jesus,” as did the Apostle John at the Last Supper.

“By remaining close to the heart of the Lord, your theology will draw from the source and bear fruit in the Church and in the world,” he said.

The Pope noted that theology should seek to foster an encounter with Christ for all the faithful, even those who have not undertaken higher studies.

“In Jesus,” he said, “we come to know the face of God and, at the same time, the face of humanity, and thus realize that we are sons and daughters in the Son and brothers and sisters of one another.”

This fraternity, he added, should guide Christians to foster peace and justice, especially in our world marred by conflict.

Missionary Church with a sense of humour

Pope Francis went on to urge theologians to explore the implications of synodality, recalling the recent Synod’s call for continuing research.

He invited them to consider the ecclesiological dimension of synodality, with a special focus on the Church’s missionary purpose.

“The time has come,” he said, “to take a courageous step forward and to develop a theology of synodality, a theological reflection that can help, encourage and accompany the synodal process, for a new, more creative and daring missionary phase, inspired by the kerygma and involving every component of the Church’s life.”

In conclusion, Pope Francis reminded theologians not to lose their sense of humour, even amid the important study they undertake each day.

“The Holy Spirit is the one who helps us in this dimension of joy and of good humour.”

https://www.vaticannews.va/en/pope/news/2024-11/pope-francis-plenary-pontifical-theological-commission.html

ĐỨC THÁNH CHA: CẦN PHÁT TRIỂN MỘT NỀN THẦN HỌC VỀ HIỆP HÀNH

 


Đức Thánh Cha: Cần phát triển một nền thần học về hiệp hành

Trong buổi tiếp kiến các tham dự viên Khoá họp Toàn thể của Uỷ ban Thần học Quốc tế, sáng thứ Năm ngày 28/11, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến sự cần thiết đưa Chúa Kitô trở lại trung tâm, và phát triển một nền thần học về hiệp hành.

Vatican News

Trước hết, đưa Chúa Kitô trở lại trung tâm, Đức Thánh Cha nói Năm Thánh sắp đến mời gọi chúng ta tái khám phá khuôn mặt Chúa Kitô và “tái tập trung” vào Người. Năm Thánh này cũng là dịp cử hành 1700 năm Công đồng Đại kết Nicea, một cột mốc lịch sử của Giáo hội và toàn thể nhân loại. Đức tin vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể “vì loài người chúng ta và vì ơn cứu độ chúng ta”, đã được định nghĩa và tuyên xưng như ánh sáng chiếu soi ý nghĩa thực tại và vận mệnh của toàn bộ lịch sử.

Đức Thánh Cha nói: “Anh chị em được kêu gọi nuôi dưỡng một cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô và đạt đến một sự hiểu biết sâu sắc hơn về mầu nhiệm của Người, để chúng ta có thể ‘thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Chúa Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết’ (Ep 3, 18-19)”.

Ngài nhấn mạnh thêm, đặt Chúa Kitô trở lại trung tâm có nghĩa là thắp lại hy vọng về một thế giới trong đó mọi người sống tình huynh đệ, trở thành nghệ nhân của hoà bình. Và đây chính là những gì thần học được kêu gọi thực hiện, với sự kiên trì, khôn ngoan và tầm nhìn xa, và trong cuộc đối thoại với tất cả các lĩnh vực kiến thức khác.

Đức Thánh Cha đi đến điểm thứ hai: phát triển một thần học về tính hiệp hành. Ngài nhắc lại văn kiện chung kết của Thượng Hội đồng Giám mục đã mời gọi các tổ chức thần học tiếp tục nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ và đào sâu ý nghĩa của tính hiệp hành (số 67). Thực vậy, đã đến lúc phải thực hiện một bước can đảm về phía trước và phát triển một nền thần học về tính hiệp hành, một suy tư thần học có thể giúp, khuyến khích và đồng hành với tiến trình thượng hiệp hành, cho một giai đoạn truyền giáo mới, sáng tạo và táo bạo hơn, được truyền cảm hứng bởi Kerygma và liên quan đến mọi thành phần của đời sống Giáo hội.

Đức Thánh Cha kết thúc bài nói chuyện, đưa ra hình ảnh Thánh Gioan Tông đồ nghiêng đầu vào ngực Chúa trong bữa Tiệc ly, và trích số 31 của Tông huấn Dilexit nos nhằm nhấn mạnh rằng “bằng cách ở gần Thánh Tâm Chúa, nền thần học của anh chị em sẽ được kín múc suối nguồn và sinh hoa trái trong Giáo hội và thế giới”.

https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2024-11/dtc-can-phat-trien-than-hoc-hiep-hanh.html

 

Thứ Tư, 27 tháng 11, 2024

CHA PHAN-XI-CÔ XA-VI-E TRƯƠNG BỬU DIỆP SẼ ĐƯỢC PHONG CHÂN PHƯỚC

 

Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp sẽ được phong chân phước

Ngày 25/11, trong cuộc tiếp kiến dành cho Đức Hồng Y Marcello Semeraro, Tổng trưởng Bộ Phong thánh, Đức Thánh Cha đã cho phép Bộ ban hành sắc lệnh liên quan đến tiến trình phong chân phước cho cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp, và các sắc lệnh liên quan đến tiến trình phong thánh và chân phước cho năm nhân chứng đức tin khác.

Vatican News



Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp

Sinh ngày 01/01/1897 tại Tân Đức, tỉnh An Giang, Việt Nam, nhưng trong lãnh thổ của hạt đại diện Tông toà Phnom Penh, phó tế Trương Bửu Diệp được chịu chức linh mục vào năm 1924.

Lúc đầu cha là cộng tác viên mục vụ trong cộng đồng người Việt ở Campuchia, tiếp đến cha được gọi về Việt Nam làm giáo sư tại Đại chủng viện, và sau đó được gửi đến tỉnh Bạc Liêu. Tại đây cha Diệp thành lập sáu cộng đoàn mới và dấn thân chăm sóc ơn gọi.

Vào cuối Thế chiến thứ hai, nhiều khu vực trên đất nước Việt Nam bị cướp bóc bởi những địa chủ giàu có với sự hỗ trợ của các băng nhóm vũ trang bạo lực. Ngay cả lãnh thổ giáo xứ của vị Tôi tớ Chúa cũng bị cướp bóc và dân chúng bị đe dọa. Mặc dù được khuyên nên ẩn náu ở một nơi an toàn, nhưng vì muốn bảo vệ quyền của người dân, không muốn từ bỏ cộng đoàn, nên vào ngày 12/3/1946, cha Diệp bị một nhóm dân quân cùng với những người khác bắt làm tù binh. Cha bị nhốt trong kho gạo, đưa đi thẩm vấn, vài ngày sau người ta phát hiện thi thể của cha, đã bị giết và biến dạng dưới mương.

Sau khi cha qua đời, rất nhiều tín hữu đã bắt đầu đến kính viếng mộ cha, xin cha chuyển cầu và nhận được nhiều phép lạ.

Với việc nhìn nhận sự tự đạo, bị giết vì thù ghét đức tin vào ngày 12/03/1946 tại Tắc Sậy, cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp sẽ được tôn phong chân phước trong thời gian sẽ được ấn định.

Các sắc lệnh khác

Cũng trong buổi tiếp kiến Đức Hồng Y Tổng trưởng, Đức Thánh Cha đã cho phép Bộ Phong thánh ban hành các sắc lệnh liên quan đến:

Phép lạ được cho là nhờ sự chuyển cầu của Chân phước Maria Troncatti (1883-1969), nữ tu người Ý, thuộc Hội dòng Con Đức Mẹ Phù hộ các Kitô hữu, từng là thừa sai phục vụ các dân tộc bản địa ở Ecuador.

Phép lạ được cho là nhờ sự chuyển cầu của Chân phước Pier Giorgio Frassati (1901-1925), sinh viên trẻ đến từ Torino của Ý, thuộc Dòng Ba Đa Minh và là thành viên của Dòng Vinh Sơn, Fuci và Công giáo Tiến hành. Ngài là một trong những chân phước nổi tiếng nhất trong số các thế hệ tín hữu Công giáo mới, được coi là một trong những vị thánh “xã hội” người Ý. Là thành viên của một gia đình giàu có, chuyên tâm cầu nguyện và giúp đỡ những người dễ bị tổn thương, ngài cũng là một vận động viên giỏi. Đức Gioan Phaolô II đã gọi ngài là “một vận động viên leo núi… vĩ đại” và đã phong chân phước cho “cậu bé trong Tám Mối Phúc Thật” này vào năm 1990. 

Kế đến là sự tử đạo của Tôi tớ Chúa Floribert Bwana Chui Bin Kositi (1981-2007), giáo dân người Congo, luật sư và là thành viên của Cộng đoàn Thánh Egidio. Vị chân phước tương lai làm việc với tư cách là ủy viên cho một cơ quan hải quan kiểm soát nguồn cung cấp thực phẩm nhập vào đất nước, một vai trò trong đó ngài phản đối một số hành vi tham nhũng. Vì điều này, ngài đã bị bắt cóc, tra tấn và giết chết vào tháng 7/2007.

Nhân đức anh hùng của Tôi tớ Chúa, Giuseppe Lang (1857-1924), người Croatia, Giám mục hiệu toà của Alabanda và Giám mục phụ tá của Zagreb. Ngài được biết đến với việc phục vụ người nghèo và đào tạo chủng sinh.

Xác nhận việc tôn kính

Cuối cùng, Đức Thánh Cha cho phép Bộ Phong thánh ban hành sắc lệnh xác nhận việc tôn kính Tôi tớ Chúa Gioan Thánh Giá (1481-1534), thuộc Dòng Ba Phanxicô, viện mẫu của Tu viện “Đức Maria Thánh Giá” ở Cubas Madrid.

https://www.vaticannews.va/vi/vatican-city/news/2024-11/cha-phanxico-xavie-truong-buu-diep-phong-chan-phuoc.html

SAINTS

 

Saints



Introduction

All Christians are called to be saints. Saints are persons in heaven (officially canonized or not), who lived heroically virtuous lives, offered their life for others, or were martyred for the faith, and who are worthy of imitation.

In official Church procedures there are three steps to sainthood: a candidate becomes "Venerable," then "Blessed" and then "Saint." Venerable is the title given to a deceased person recognized formally by the pope as having lived a heroically virtuous life or offered their life.  To be beatified and recognized as a Blessed, one miracle acquired through the candidate's intercession is required in addition to recognition of heroic virtue or offering of life. Canonization requires a second miracle after beatification.  The pope may waive these requirements. A miracle is not required prior to a martyr's beatification, but one is required before canonization.

Key Terms

Beatification -- the second stage in the process of proclaiming a person a saint; occurs after a diocese or eparchy and the Congregation for the Causes of Saints has conducted a rigorous investigation into the person's life and writings to determine whether he or she demonstrates a heroic level of virtue, offered their life or suffered martyrdom. A miracle attributed to the person's intercession must be proved.

Blessed -- title bestowed on a person who has been beatified and accorded limited liturgical veneration.

Canonization – the formal process by which the Church declares a person to be a saint and worthy of universal veneration.

Congregation for the Causes of Saints – a department of the Roman Curia, established originally as the Congregation of Rites by Pope Sixtus V in 1588. Reorganized and renamed in 1969 by Pope Paul VI, and again in 1983 by Pope John Paul II. Some of the responsibilities of the Congregation include making recommendations to the pope on beatifications and canonizations, and the authentication and preservation of sacred relics.

Miracle –something that has occurred by the grace of God through the intercession of a Venerable, or Blessed which is scientifically inexplicable.

Petitioner – party initiating an action in canon law. In the case of a sainthood cause, the petitioner is one who asks the diocesan bishop to begin the investigation which could ultimately lead to canonization. (A bishop may also begin a cause on his own initiative, in which case he is the petitioner.)

Positio – a comprehensive summary of all documentation; in this context, there are two: the one summarizing the investigation of a candidate's life and heroic virtues or offering of life, or martyrdom and a second for any alleged miracles. The Positio is prepared during the Roman phase by the postulator with the assistance of someone from the Congregation for the Causes of Saints.

Postulator -- person appointed to guide and oversee the cause. One oversees the cause at the diocesan or eparchial level (Phase I); the Roman postulator, oversees all aspects of Phases II and III.

Prefect -- the head of any of the Roman curial congregations, usually a cardinal.

Relator – person appointed by the Congregation for the Causes of Saints to assemble the historic documentation of the candidate for canonization.

Saint – the title given to someone who has been formally canonized by the Church as sharing eternal life with God, and therefore offered for public veneration and imitation.

Servant of God -- the title given to a candidate for sainthood whose cause is still under investigation, prior to being declared Venerable.

Venerable – the title given to a candidate for sainthood whose cause has not yet reached the beatification stage but whose heroic virtue has been declared by the pope.

History

In the first five centuries of the Church, the process for recognizing a saint was based on public acclaim or the vox populi, vox Dei (voice of the people, voice of God). There was no formal canonical process as understood by today's standards. Beginning in the sixth century and continuing into the twelfth century, the intervention of the local bishop was required before someone could be canonized. The intervention of the local bishop usually began with a request from the local community for the bishop to recognize someone a saint. Upon studying the request and a written biography, if he found it favorable, the bishop would typically issue a decree, legitimatize the liturgical cult and thereby canonize the person.

Starting in the tenth century, a cause proceeded with the usual steps, i.e. the person's reputation would spread, a request to the local bishop from the people to declare the person a saint occurred, and a biography would be written for the bishop's review. Now however, the bishop would collect eyewitness testimony of those who knew the person and who had witnessed miracles, and he would provide a summary of the case to the Pope for his approval.  The Pope then reviewed the cause, and if he approved it, he issued a decree declaring the person a canonized saint. The first documented case of papal invention is by Pope John XV on January 31, 993 for the canonization of St. Ulric.  When Pope Sixtus V reorganized the Roman Curia in 1588 he established the Congregation for Sacred Rites.  One of its functions was to assist the Pope with reviewing causes. Except for a few canonical developments, from 1588 the process of canonization remained the same until 1917 when a universal Code of Canon Law was promulgated.

The 1917 code contained 145 canons (cc. 1999- 2144) on causes of canonization, and mandated that an episcopal process and an apostolic process be conducted. The episcopal process consisted of the local bishop verifying the reputation of the person, ensuring that a biography existed, collecting eye witness testimony and the person's written works. All of this was then forwarded to the Congregation for Sacred Rites.  The apostolic process consisted of reviewing the evidence submitted, collecting more evidence, studying the cause, investigating any alleged miracles and ultimately forwarding the cause to the Pope for his approval.  This process remained in effect until 1983 with the promulgation of the 1983 Code of Canon Law and new norms for causes of canonization: Divinus Perfectionis Magister, Normae Servandae in Inquisitionibus ab Episcopis Faciendis in Causis Sanctorum and Sanctorum Mater (2007). This revised process for causes of canonization is still in force and is detailed below. 

No precise count exists of those who have been proclaimed saints since the first centuries. However, in 1988, to mark its 4th centenary, the Congregation for the Causes of Saints published the first "Index ac Status Causarum." This book and its subsequent supplements, written entirely in Latin, are considered the definitive index of all causes that have been presented to the Congregation since its institution.

American Saints, Blesseds and Venerables

The American Church has been blessed with numerous Saints, Blesseds and Venerables, all of whom in their own unique way witness to Christ's love through their martyrdom or virtuous lives within our American culture.  Currently, there are eleven American Saints:
St. Frances Xavier Cabrini, St. Marianne Cope, St. Katharine Drexel, St. Rose Philippine Duchesne, St. Mother Théodore Guérin, St. Isaac Jogues and the North American Martyrs, St. John Neumann, St. Elizabeth Ann Seton, St. Father Junípero Serra, O.F.M , St. Kateri Tekakwitha, and St. Damien de Veuster (canonized as Damien of Molokaʻi). There are four American Blesseds: Blessed Father Solanus Casey, O.F.M. Cap., Blessed Father Stanley Francis Rother, Blessed Father Francis Xavier Seelos, C.Ss.R.,., and Blessed Sister Miriam Teresa, S.C. (Teresa Demjanovich). There are  thirteen American Venerables: Venerable Father Nelson Baker, Venerable Bishop Frederic Baraga, Venerable Mother Mary Magdalen Bentivoglio, O.S.C., Venerable Cornelia Connelly, S.H.C.J., Venerable Henriette Delille, S.S.F., Venerable Mother Mary Theresa Dudzik, O.S.F., Venerable Bishop Alphonse Gallegos, O.A.R., Venerable Mother Maria Kaupas, S.S.C., Venerable Mother Mary Angeline Teresa McCrory, O. Carm., Venerable Father Michael McGivney, Venerable Archbishop Fulton Sheen, Venerable Pierre Toussaint, and Venerable Father Felix Varela

Stage I – Examining the Life of a Candidate for Sainthood

Phase 1: Diocesan or Eparchial Level

Five years must pass from the time of a candidate's death before a cause may begin. This is to allow greater balance and objectivity in evaluating the case and to let the emotions of the moment dissipate. The pope can dispense from this waiting period.

The bishop of the diocese or eparchy in which the person died is responsible for beginning the investigation.  The petitioner (who for example can be the diocese/eparchy, bishop, religious order or association of the faithful) asks the bishop through a person known as the postulator to open the investigation.

The bishop then begins a series of consultations with the episcopal conference, the faithful of his diocese or eparchy and the Holy See.  Once these consultations are done and he has received the 'nihil obstat' of the Holy See, he forms a diocesan or eparchial tribunal.  The tribunal will investigate the martyrdom or how the candidate lived a life of heroic virtues, that is, the theological virtues of faith, hope and charity, and the cardinal virtues of prudence, justice, temperance and fortitude, and others specific to his or her state in life.  Witnesses will be called and documents written by and about the candidate must be gathered and examined.

Phase II: Congregation for the Causes of Saints

Once the diocesan or eparchial investigation is finished, the documentation is sent to the Congregation for the Causes of Saints.  The postulator for this phase, residing in Rome, under the direction of a member of the Congregation's staff called a relator prepares the 'Positio,' or summary of the documentary evidence from the diocesan or eparchial phase  in order to  prove the heroic exercise of virtue or the martyrdom.

The 'Positio' undergoes an examination by nine theologians who vote on whether or not the candidate lived a heroic life or suffered martyrdom. If the majority of the theologians are in favor, the cause is passed on for examination by cardinals and bishops who are members of the Congregation. If their judgment is favorable, the prefect of the Congregation presents the results of the entire course of the cause to the pope, who gives his approval and authorizes the Congregation to draft a decree declaring one Venerable if they have lived a virtuous life or a Blessed if they have been martyred.

Stage II – Beatification

For the beatification of a Venerable, a miracle attributed to his intercession, verified after his death, is necessary. The required miracle must be proven through the appropriate canonical investigation, following a procedure analogous to that for heroic virtues. This investigation too is concluded with the appropriate decree. Once the decree on the miracle is promulgated the pope grants the beatification, which is the concession of limited public veneration – usually only in the diocese, eparchy, region, or religious community in which the Blessed lived. With beatification the candidate receives the titled of Blessed. For a martyr, no miracle is required. Thus when the pope approves the positio declaring that the person was a martyred for the faith, the title Blessed is granted to the martyr at that time.   

Stage III – Canonization

For canonization another miracle is needed for both Blessed martyrs and Blesseds who lived a virtuous life, attributed to the intercession of the Blessed and having occurred after his or her beatification. The methods for affirming the miracle are the same as those followed for beatification. Canonization allows for the public veneration of the Saint by the Universal Church. With canonization, the Blessed acquires the title of Saint.

Contact for more information:

Msgr. Robert Sarno
Congregation for the Causes of Saints
Vatican City
011-39-6-6988-4247
011-39-6-6988-1935 fax

Sources:

Adapted from "Canonical procedure for causes of saints," Vatican Information Service, Sept. 12, 1997; and from "Saints in the

Catholic Church," Vatican Information Service, July 29, 1997.

Other sources include:

Bunson, Matthew; Bunson, Margaret; and Bunson, Stephen, eds., Our Sunday Visitor's Encyclopedia of Saints (Huntington, IN:

Our Sunday Visitor Publishing Division, 1998.)

Congregation for the Causes of Saints. Instruction Sanctorum Mater, promulgated on May 17, 2007.

John Paul II. Apostolic Constitution Divinus Perfectionis Magister, promulgated on January 25, 1983.

McBrien, Richard P., ed., HarperCollins Encyclopedia of Catholicism (San Francisco: HarperSanFrancisco, 1995.)

Sacred Congregation for the Causes of Saints. Normae Servandae in Inquisitionibus ab

Episcopis Faciendis in Causis Sanctorum, promulgated February 7, 1983.

Vatican Information Service reports from May 18, 1999; July 30, 1999; and January 28, 2000, July 31, 2000.

 

https://www.usccb.org/offices/public-affairs/saints