Trang

Chủ Nhật, 17 tháng 11, 2024

TÀI LIỆU SAU CÙNG CỦA PHIÊN HỌP THƯỜNG LỆ LẦN THỨ 16 CỦA THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC - PHẦN I

Tài Liệu Sau Cùng Của Phiên Họp Thường Lệ Lần Thứ 16 Của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Phần I

Vũ Văn An  16/Nov/2024

 


TÀI LIỆU SAU CÙNG CỦA PHIÊN HỌP THƯỜNG LỆ LẦN THỨ 16 CỦA THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC


Cho một Giáo hội đồng nghị: hiệp thông, tham gia, sứ mệnh

Phần I – Tâm điểm của tính đồng nghị

Được Chúa Thánh Thần kêu gọi hoán cải

Vào ngày đầu tuần, Ma-ri-a Ma-đa-lê-na đi ra mộ vào buổi sáng, khi trời vẫn còn tối và bà thấy tảng đá đã được dời khỏi mộ. Bà chạy và đi gặp Simon Phêrô và người môn đệ kia, người được Chúa Giêsu yêu thương (Ga 20,1-2).

13. Vào buổi sáng Phục Sinh, chúng ta gặp ba môn đệ: Maria Mađalêna, Simon Phêrô, Người môn đệ được Chúa Giêsu yêu thương. Mỗi người tìm kiếm Chúa theo cách riêng của mình; mỗi người đều có vai trò riêng của họ trong buổi bình minh của hy vọng. Maria Mađalêna được tình yêu đầu tiên của bà dẫn dắt đến ngôi mộ. Được bà loan báo, Phêrô và Người Môn Đệ Chúa Yêu đi ra mộ; Môn đệ yêu dấu chạy bằng sức tuổi trẻ, tìm kiếm bằng ánh mắt của những người cảm thức trước, nhưng biết nhường đường cho người lớn tuổi đã được giao nhiệm vụ điều khiển; Phêrô, lòng nặng trĩu vì đã chối bỏ Chúa, đang chờ đợi cuộc hẹn gặp lòng thương xót, lòng thương xót mà ông sẽ phục vụ trong Giáo Hội. Maria ở lại trong vườn, nghe gọi tên mình, nhận ra Chúa sai bà đi loan báo sự phục sinh của Người cho cộng đoàn môn đệ. Vì lý do này Giáo Hội công nhận bà như Tông đồ của các Tông đồ. Sự phụ thuộc lẫn nhau của họ hiện thân tâm điểm của tính đồng nghị.

14. Giáo hội hiện hữu để làm chứng cho thế giới về biến cố quyết định của lịch sử: biến cố phục sinh của Chúa Giêsu. Đấng Phục Sinh mang lại hòa bình cho thế giới và ban cho chúng ta hồng ân Thánh Thần của Người. Chúa Kitô hằng sống là nguồn tự do đích thực, là nền tảng của niềm hy vọng không làm thất vọng, là sự mặc khải về khuôn mặt thật của Thiên Chúa và số phận cuối cùng của con người. Tin Mừng cho chúng ta biết rằng để bước vào đức tin Phục Sinh và trở thành chứng nhân của đức tin này, cần phải thừa nhận sự trống rỗng nội tâm của chính mình, bóng tối của sợ hãi, nghi ngờ, tội lỗi. Nhưng những người trong bóng tối có can đảm ra ngoài và tìm kiếm, phát hiện thực sự rằng họ đang được tìm kiếm, được gọi bằng tên, được tha thứ và được sai đi cùng với các anh chị em mình.

Giáo Hội như dân Chúa, bí tích hiệp nhất

15. Từ Bí tích Rửa tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần phát sinh căn tính Dân Thiên Chúa. Nó được thực thi như một lời kêu gọi nên thánh và sai đi làm sứ mệnh mời gọi mọi dân nước đón nhận hồng ân cứu độ (xem Mt 28:18-19). Do đó, chính từ Phép rửa, trong đó Chúa Kitô mặc chính Người cho chúng ta (xem Gl 3:27) và làm cho chúng ta được tái sinh trong Chúa Thánh Thần (xem Ga 3: 5-6) với tư cách là con cái Thiên Chúa, mà Giáo hội đồng nghị truyền giáo đã ra đời. Tất cả đời sống Kitô hữu đều có nguồn mạch và chân trời của nó trong mầu nhiệm Ba Ngôi, mầu nhiệm khơi dậy trong chúng ta tính năng động của đức tin, đức cậy và đức ái.

16. «Thiên Chúa vui lòng thánh hóa và cứu độ con người không như những cá nhân riêng rẽ không chút liên đới với nhau, nhưng Người muốn làm cho họ thành một dân tộc để họ nhận biết Người trong chân lý và phụng sự Người trong thánh thiện” (LG 9). Dân Thiên Chúa trên hành trình của họ tiến tới Nước Trời liên tục được nuôi dưỡng bởi Bí tích Thánh Thể, nguồn mạch của sự hiệp thông và hiệp nhất: «Vì chỉ có một bánh duy nhất, chúng ta tuy nhiều nhưng chúng ta là một thân thể: thực ra tất cả chúng ta đều cùng chia sẻ một tấm bánh duy nhất” (1Cr 10:17). Giáo hội, được nuôi dưỡng bằng bí tích Mình Thánh Chúa, được thiết lập như Thân Mình của Người (xem LG 7): “Anh em là Thân Thể Chúa Kitô và mỗi người là chi thể của nó” (1Cr 12:27). Được ân sủng làm sống động, Giáo hội là Đền Thờ Chúa Thánh Thần (xem LG 17): thực thế, chính Người là Đấng sinh động Giáo hội và Người xây dựng Giáo Hội, biến tất cả chúng ta thành những viên đá sống động của một tòa nhà thiêng liêng (xem 1Pr 2:5; LG 6).

17. Diễn trình đồng nghị cho chúng ta trải nghiệm “hương vị thiêng liêng” (EG 268) của việc trở thành một Dân tộc của Thiên Chúa, được quy tụ từ mọi bộ tộc, ngôn ngữ, dân tộc và quốc gia, sống trong những bối cảnh và nền văn hóa khác nhau. Dân Thiên Chúa không bao giờ là tổng số đơn giản của những người được rửa tội, mà là chủ thể cộng đồng và lịch sử của tính đồng nghị và truyền giáo, trong khi vẫn còn lữ hành theo thời gian và đã hiệp thông với Giáo hội trên trời. Bên trong những bối cảnh khác nhau nơi các Giáo hội địa phương bám rễ, dân Chúa loan báo và làm chứng cho Tin Mừng cứu độ; sống trong thế giới và cho thế giới, họ cùng bước đi với tất cả các dân tộc trên trái đất, đối thoại với các tôn giáo và nền văn hóa của họ, nhận ra nơi họ những hạt giống Lời Chúa, tiến về Nước Trời. Được kết hợp vào Dân tộc này nhờ đức tin và Phép Rửa, chúng ta được sự nâng đỡ và đồng hành của Đức Trinh Nữ Maria, «dấu chỉ của niềm hy vọng và niềm an ủi chắc chắn" (LG 68), của các Tông Đồ, của những người đã làm chứng đức tin của họ đến mức hiến mạng sống, của các vị thánh ở mọi thời và mọi nơi.

18. Trong Dân thánh của Thiên Chúa, vốn là Giáo hội, sự hiệp thông của các tín hữu (communio Fidelium) đồng thời là sự hiệp thông của các Giáo hội (communio Ecclesiarum), vốn được biểu lộ trong sự hiệp thông của các Giám mục (communio Episcoporum), vì nguyên tắc rất cổ xưa vốn cho rằng “Giáo hội ở trong Giám mục và Giám mục ở trong Giáo hội” (Thánh Cypriano, Epistle 66, 8). Để phục vụ sự hiệp thông nhiều mặt này, Chúa đã đặt Tông đồ Phêrô (x. Mt 16:18) và những người kế vị ngài. Nhờ thừa tác vụ Phêrô, Giám mục Rôma là “người nguồn và nền tảng vĩnh viễn và hữu hình” (LG 23) của sự hiệp nhất trong Giáo hội.

19. “Trong trái tim Thiên Chúa luôn dành chỗ ưu tiên cho người nghèo” (EG 197), những người bị gạt ra ngoài lề xã hội và những người bị loại trừ, và do đó cũng có trong trái tim Giáo hội. Nơi họ, cộng đồng Kitô hữu gặp được bộ mặt và thân xác của Chúa Kitô, Đấng tuy vốn giàu có, đã trở nên nghèo khó vì chúng ta, để chúng ta trở nên giàu có nhờ sự nghèo khó của Người (xem 2 Cr 8:9). Ưu tiên chọn người nghèo vốn ngụ hàm trong đức tin Kitô giáo. Người nghèo có sự hiểu biết trực tiếp về Chúa Kitô đau khổ (xem EG 198) khiến họ trở thành những người loan báo ơn cứu độ được đón nhận như một hồng ân và là những chứng nhân của Niềm vui Tin Mừng. Giáo hội được mời gọi nghèo với người nghèo, thường là thành phần đa số các Tín hữu và lắng nghe họ, cùng nhau học cách nhận ra những đặc sủng mà họ nhận được từ Chúa Thánh Thần, và coi họ là chủ thể của việc truyền giáo.

20. “Ánh sáng của các dân tộc là Chúa Kitô” (LG 1) và ánh sáng này chiếu trên khuôn mặt Giáo hội, mặc dù được đánh dấu bởi sự mong manh của thân phận con người và sự mù mờ của tội lỗi. Giáo hội nhận từ Chúa Kitô hồng ân và trách nhiệm trở thành men hữu hiệu của các mối dây, các mối liên hệ và tình huynh đệ của gia đình nhân loại (xem AG 2-4), làm chứng trên thế giới về ý nghĩa và mục tiêu của cuộc hành trình của mình (xem GS 3 và 42). Ngày nay, Giáo hội đảm nhận trách nhiệm này trong một thời đại bị chi phối bởi cuộc khủng hoảng tham gia - nghĩa là cảm thấy mình là một phần và là người tham gia vào một vận mệnh chung - và bởi một quan niệm duy cá nhân về hạnh phúc và sự cứu rỗi. Ơn kêu gọi và việc phục vụ có tính tiên tri của nó (xem LG 12) cốt ở việc làm chứng cho kế hoạch của Thiên Chúa nhằm hiệp nhất toàn thể nhân loại với chính Người trong tự do và hiệp thông. Giáo Hội, vốn là Vương quốc của Chúa Kitô đã đang hiện diện một cách huyền nhiệm” (LG 3) và “là hạt giống và khởi đầu của Vương quốc này trên trái đất” (LG 5), do đó, cùng bước đi với toàn thể nhân loại, cam kết hết sức mình vì nhân phẩm, ích chung, công lý và hòa bình, và “mong mỏi Vương quốc hoàn hảo” (LG 5), khi Thiên Chúa sẽ là “tất cả trong tất cả” (1Cr 15:28).

Những cội rễ bí tích của Dân Thiên Chúa

21. Con đường đồng nghị của Giáo hội đã khiến chúng tôi tái khám phá ra rằng sự đa dạng của các ơn gọi, đặc sủng và thừa tác vụ đều có nguồn gốc: «tất cả chúng ta đều đã được rửa tội trong cùng một Thánh Thần để trở thành một thân thể” (1 Cr 12:13). Bí tích Rửa tội là nền tảng của đời sống Kitô hữu bởi vì nó dẫn nhập mọi người vào hồng phúc lớn nhất: trở thành con cái Thiên Chúa, nghĩa là tham gia vào mối liên hệ của Chúa Giêsu với Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần. Không có gì cao hơn phẩm giá này, được trao cho mọi người một cách bình đẳng, làm chúng ta mặc lấy Chúa Kitô và được tháp nhập vào Người như cành vào cây nho. Trong tên “Kitô hữu” mà chúng ta vinh dự được mang chứa đựng ân sủng vốn là nền tảng của cuộc sống chúng ta và điều đó làm chúng ta bước đi cùng nhau như anh chị em.

22. Nhờ Bí tích Rửa tội «Dân thánh của Thiên Chúa cũng tham gia vào chức vụ tiên tri của Chúa Kitô, làm chứng sống động cho Người trước hết bằng đời sống đức tin và bác ái” (LG 12). Nhờ việc xức dầu của Chúa Thánh Thần nhận được lúc lãnh nhận Bí tích Rửa tội (x. 1Ga 2,20.27), mọi tín hữu đều có một bản năng hướng về sự thật của Tin Mừng, được gọi là cảm thức đức tin (sensus fidei). Nó bao gồm một tính đồng bản nhiên [connaturality] nào đó với các thực tại thần linh, dựa trên sự kiện là những người được rửa tội “ở trong Chúa Thánh Thần đã thông phần vào bản tính thần linh” (DV 2). Từ sự tham gia này xuất hiện khả năng nắm bắt bằng trực giác những gì phù hợp với chân lý của Mặc khải trong hiệp thông Giáo hội. Vì lý do này, Giáo Hội tin chắc rằng Dân thánh của Thiên Chúa không thể nhầm lẫn khi tin, khi toàn bộ những người được rửa tội bày tỏ sự đồng thuận phổ quát của họ về các vấn đề đức tin và luân lý (xem LG 12). Việc thực thi cảm thức đức tin không được nhầm lẫn với dư luận quần chúng. Nó luôn gắn liền với sự phân định của các mục tử ở các bình diện khác nhau của đời sống Giáo hội, như việc ăn khớp trong các giai đoạn của tiến trình đồng nghị đã chứng tỏ. Cảm thức đức tin nhằm đạt được sự đồng thuận đó của các Tín Hữu (consensus fidelium) vốn tạo thành “một tiêu chuẩn chắc chắn để xác định liệu một học thuyết hoặc một thực hành đặc thù nào đó có thuộc về đức tin tông truyền hay không” (ITC, Cảm thức đức tin trong đời sống Giáo hội, 2014, số 3).

23. Qua Bí tích Rửa tội, mọi Kitô hữu đều tham gia vào cảm thức đức tin. Vì thế, ngoài việc là một nguyên tắc của tính đồng nghị, nó cũng tạo nền tảng cho phong trào đại kết. «Con đường của tính đồng nghị, mà Giáo Hội Công Giáo đang theo đuổi, là và phải là đại kết, hệt như con đường đại kết mang tính đồng nghị vậy" (Đức Thánh Cha Phanxicô, Diễn văn với Giáo hoàng Mar Awa III, 19 tháng 11 năm 2022). Phong trào đại kết trước hết và trên hết là vấn đề canh tân thiêng liêng. Nó đòi hỏi các diễn trình ăn năn và chữa lành ký ức khỏi những vết thương trong quá khứ, cho tới mức có can đảm sửa lỗi anh em trong tinh thần bác ái của Tin Mừng. Phiên Họp đầy các chứng từ sâu sắc của các Kitô hữu thuộc các truyền thống giáo hội khác nhau, những người chia sẻ tình bạn, lời cầu nguyện, chia sẻ cuộc sống và cam kết phục vụ người nghèo và chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta. Ở nhiều vùng trên thế giới, trên hết có sự đại kết bằng máu: các Kitô hữu của nhiều thống thuộc khác nhau cùng nhau cống hiến đời mình cho đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Chứng từ tử đạo của họ hùng hồn hơn bất cứ lời nói nào: sự hiệp nhất đến từ Thập Giá của Chúa.

24. Không thể hiểu đầy đủ Bí tích Rửa tội ngoại trừ bên trong bốii cảnh khai tâm Kitô giáo, tức là hành trình qua đó Chúa, qua thừa tác vụ của Giáo Hội và hồng ân Chúa Thánh Thần, dẫn nhập chúng ta vào đức tin Vượt Qua và đưa chúng ta vào Sự hiệp thông Ba Ngôi và Giáo Hội. Hành trình này có nhiều hình thức có ý nghĩa khác nhau, tùy thuộc vào độ tuổi lúc nó được thực hiện, vào sự nhấn mạnh khác nhau của truyền thống Đông phương và Tây phương, và những nét đặc trưng của mỗi Giáo hội địa phương. Việc khai tâm đặt chúng ta tiếp xúc với nhiều ơn gọi và thừa tác vụ khác nhau trong giáo hội. Trong chúng, khuôn mặt thương xót của Giáo hội được phát biểu nhằm dạy dỗ con cái mình bước đi bằng cách bước đi với chúng. Giáo hội lắng nghe chúng và khi trả lời những nghi ngờ và câu hỏi của chúng, Giáo hội được phong phú thêm bởi sự mới lạ mà mỗi người mang trong mình, với lịch sử và văn hóa của mình. Trong việc thực hành hoạt động mục vụ này, cộng đồng Kitô hữu cảm nghiệm được hình thức đầu tiên của tính đồng nghị, thường không ý thức được đầy đủ.

25. Trong hành trình khai tâm Kitô giáo, Bí tích Thêm sức làm phong phú đời sống của các tín hữu bằng việc đổ tràn Chúa Thánh Thần một cách đặc biệt nhằm để làm chứng. Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu đã được tràn đầy (xem Lc 4:1), đã thánh hiến Người với việc xức dầu và sai đi loan báo Tin Mừng (xem Lc 4:18), chính cùng một Chúa Thánh Thần đó đã được đổ trên các tín hữu như một ấn tín thuộc về Thiên Chúa và như một việc xức dầu thánh hóa. Vì lý do này, Bí tích Thêm sức, vốn làm cho ân sủng của Lễ Ngũ Tuần hiện diện trong đời sống của người đã được rửa tội và của cộng đồng, là một hồng ân có giá trị lớn lao để đổi mới phép lạ của một Giáo hội được thúc đẩy bởi ngọn lửa truyền giáo, vốn có can đảm đi vào phố phường của thế giới và có khả năng làm mình được mọi dân tộc và mọi nền văn hóa hiểu thấu. Mọi tín hữu đều được kêu gọi đóng góp vào động lực này, chào đón các đặc sủng được Chúa Thánh Thần phân phát dồi dào cho mỗi người và cam kết đưa chúng vào việc phục vụ Nước Trời với lòng khiêm tốn và khả năng tháo vát sáng tạo.

26. Việc cử hành Bí tích Thánh Thể, đặc biệt vào các Chúa nhật, là hình thức đầu tiên và cơ bản mà với nó, Dân Thánh của Thiên Chúa tụ tập và gặp gỡ nhau. Trong việc cử hành Thánh Thể, “sự hiệp nhất của Giáo hội vừa được biểu thị vừa được tạo ra” (UR 2). Trong việc “tham gia đầy đủ, có ý thức và tích cực” (SC 14) của tất cả các Tín hữu, trước sự chứng kiến của các thừa tác vụ khác nhau và dưới sự chủ trì của Giám mục hoặc Linh mục, cộng đồng Kitô hữu trở nên hữu hình, trong đó, việc đồng trách nhiệm dị biệt hóa của tất cả mọi người đối với sứ mệnh được hiện thực hóa. Vì lý do này, Giáo Hội, Thân thể Chúa Kitô, học hỏi từ Bí tích Thánh Thể cách khớp nối sự hiệp nhất và tính đa dạng: sự hiệp nhất của Giáo hội và sự đa dạng của các cộng đoàn Thánh Thể; sự thống nhất của mầu nhiệm bí tích và sự đa dạng của truyền thống phụng vụ; sự hiệp nhất trong việc cử hành và sự đa dạng của ơn gọi, đặc sủng và các thừa tác vụ. Không có gì cho thấy rõ ràng hơn Bí tích Thánh Thể rằng sự hòa hợp do Chúa Thánh Thần tạo ra không phải là sự độc dạng và mọi hồng ân của Giáo hội đều nhằm mục đích xây dựng chung. Mỗi cuộc cử hành Bí tích Thánh Thể cũng là một cách phát biểu ước muốn và lời kêu gọi sự hiệp nhất của tất cả những người đã được Rửa tội, chưa hoàn toàn hiển thị. Nơi nào không thể cử hành Bí tích Thánh Thể Chúa Nhật, cộng đồng, trong khi mong muốn việc này, quy tụ lại quanh việc cử hành Lời Chúa, trong đó Chúa Kitô thực sự hiện diện.

27. Có một mối liên kết chặt chẽ giữa synaxis [cộng đồng phụng tự] và synodos [công nghị], giữa cộng đoàn Thánh Thể và cộng đoàn thượng hội đồng. Mặc dù dưới những hình thức khác nhau, nhưng trong cả hai, lời hứa Chúa Giêsu hiện diện nơi có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Người (xem Mt 18:20) đã ứng nghiệm. Các Phiên họp thượng hội đồng là những biến cố cử hành sự kết hợp của Chúa Kitô với Giáo hội của Người qua tác động của Chúa Thánh Thần. Chính Người là Đấng bảo đảm sự hiệp nhất của Thân Mình Chúa Kitô trong cộng đoàn Thánh Thể cũng như trong cộng đoàn thượng hội đồng. Phụng vụ là việc lắng nghe Lời Chúa và đáp lại sáng kiến giao ước của Người.

Phiên họp thượng hội đồng cũng là việc lắng nghe cùng một Lời, vốn vang dội cả trong các dấu chỉ thời đại lẫn trong trái tim các tín hữu, và sự đáp ứng của phiên họp nhằm biện phân ý muốn của Thiên Chúa để đưa nó vào thực hành. Việc đào sâu mối liên kết giữa phụng vụ và tính đồng nghị sẽ giúp mọi cộng đồng Kitô giáo, trong tính đa dạng của các nền văn hóa và truyền thống của họ, tiếp nhận các phong cách cử hành biểu lộ bộ mặt của một Giáo hội đồng nghị. Để đạt được mục đích này, chúng tôi kêu gọi thành lập một Nhóm Nghiên cứu chuyên biệt, mà chúng ta sẽ giao cho nhiệm vụ suy nghĩ cách làm cho các cuộc cử hành phụng vụ diễn tả được tính đồng nghị nhiều hơn; nó cũng có thể bàn tới việc thuyết giảng bên trong các cử hành phụng vụ và khai triển một nền giáo lý về tính đồng nghị trong những điều then chốt có tính dẫn nhập vào mầu nhiệm [mystagogical].

Ý nghĩa và chiều kích của tính đồng nghị

28. Các thuật ngữ “tính đồng nghị” và “đồng nghị” bắt nguồn từ thực hành lâu đời và liên tục của giáo hội về việc tụ tập trong Thượng Hội đồng. Trong truyền thống của các Giáo hội Đông phương và Tây phương, từ “thượng hội đồng” đề cập đến các tổ chức và biến cố đã diễn ra dưới các hình thức khác nhau theo thời gian, liên quan đến nhiều chủ đề. Trong sự đa dạng của chúng, tất cả các hình thức này đều có chung việc tập hợp với nhau để đối thoại, phân định và quyết định. Nhờ kinh nghiệm những năm gần đây, ý nghĩa của các thuật ngữ này đã được hiểu rõ hơn và được trải nghiệm nhiều hơn. Càng ngày, chúng càng gắn liền với mong muốn có một Giáo hội gần gũi hơn với mọi người và có tính liên hệ hơn, một Giáo hội trở thành nhà và gia đình của Thiên Chúa. Trong tiến trình Thượng Hội đồng, một sự hội tụ đã phát triển về ý nghĩa của tính đồng nghị làm cơ sở cho Tài liệu này: tính đồng nghị là việc cùng nhau bước đi của các Kitô hữu với Chúa Kitô và hướng về Nước Thiên Chúa, trong sự kết hợp với tòan thể nhân loại; hướng về việc truyền giáo, nó bao gồm việc tụ họp trong phiên họp ở các bình diện khác nhau của đời sống giáo hội, lắng nghe lẫn nhau, đối thoại, phân định cộng đồng, hình thành sự đồng thuận như một biểu thức nói lên sự hiện diện của Chúa Kitô sống động trong Chúa Thánh Thần và việc đảm đương quyết định trong tinh thần đồng trách nhiệm dị biệt hóa. Dọc theo những dòng này, chúng tôi hiểu rõ hơn việc tính đồng nghị là một chiều kích cấu thành của Giáo hội có nghĩa là gì (xem CTI, số 1). Nói một cách đơn giản và tổng hợp, có thể nói rằng tính đồng nghị là một con đường đổi mới tinh thần và cải cách cơ cấu để làm cho Giáo hội có tính tham gia và truyền giáo nhiều hơn, nghĩa là làm cho Giáo hội có nhiều khả năng hơn bước đi với mọi người nam nữ đang chiếu tỏa ánh sáng của Chúa Kitô.

29. Nơi Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Chúa Kitô, Mẹ Giáo hội và nhân loại, chúng ta thấy những nét đặc trưng của một Giáo hội đồng nghị, truyền giáo và có lòng thương xót được tỏa sáng trọn vẹn. Ngài thực sự là hình ảnh Giáo hội lắng nghe, cầu nguyện, suy niệm, đối thoại, đồng hành, phân định, quyết định và hành động. Nơi Mẹ chúng ta học được nghệ thuật lắng nghe, chú ý đến thánh ý Thiên Chúa, vâng phục Lời Người, khả năng hiểu được nhu cầu của người nghèo, lòng can đảm lên đường, tình yêu giúp đỡ, bài ca ngợi khen và niềm hân hoan trong Chúa Thánh Thần. Vì lý do này, như đã được Thánh Phaolô VI khẳng định, “hành động của Giáo hội trên thế giới giống như một sự mở rộng mối quan tâm của Đức Maria” (Marialis Cultus 28).

30. Chi tiết hơn, tính đồng nghị chỉ rõ ba khía cạnh riêng biệt của đời sống Giáo hội:

a).trước hết, nó đề cập đến “phong cách đặc thù vốn lên đặc điểm cho đời sống và sứ mệnh của Giáo hội, nói lên bản chất của Giáo hội là cùng nhau bước đi và tụ họp nhau trong phiên họp của Dân Thiên Chúa được Chúa Giêsu triệu tập trong quyền năng Chúa Thánh Thần để loan báo Tin Mừng. Nó phải được phát biểu trong cách sống và hoạt động thông thường của Giáo hội. Phương thức sống và hành động này đạt được thông qua việc cộng đồng lắng nghe Lời Chúa và việc cử hành Thánh Thể, tình huynh đệ hiệp thông, đồng trách nhiệm và tham gia của toàn thể Dân Thiên Chúa, ở các bình diện khác nhau và sự phân biệt giữa các thừa tác vụ và vai trò trong cuộc sống và sứ mệnh của nó” (ITC, số 70a);

b). thứ hai, “lúc đó, theo nghĩa cụ thể và xác định hơn của thần học và giáo luật, tính đồng nghị chỉ những cơ cấu và tiến trình giáo hội trong đó bản chất đồng nghị của Giáo hội được phát biểu ở bình diện định chế, theo cách tương tự, trên nhiều phương diện khác nhau trong việc hiện thực hóa nó: địa phương, khu vực, phổ quát. Những cơ cấu và tiến trình này nhằm phục vụ sự phân định có thẩm quyền của Giáo hội, được mời gọi nhận diện phương hướng phải tuân theo trong khi lắng nghe Chúa Thánh Thần” (ITC, số 70b);

c). thứ ba, tính đồng nghị chỉ “việc xuất hiện đúng lúc của các biến cố đồng nghị trong đó Giáo Hội được triệu tập bởi cơ quan có thẩm quyền và theo những thủ tục chuyên biệt được xác định bởi kỷ luật giáo hội, liên quan, cách khác nhau ở bình diện địa phương, khu vực và hoàn cầu, đến tất cả dân Chúa dưới sự chủ trì của các Giám mục hiệp thông hợp đoàn và có phẩm trật với Giám Mục Rôma, để nhận định con đường và các vấn đề đặc thù và đưa ra các quyết định cũng như hướng dẫn nhằm chu toàn sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội” (ITC, số 70c).

31. Trong bối cảnh giáo hội học của Công đồng về Dân Thiên Chúa, khái niệm hiệp thông diễn tả bản thể sâu xa của mầu nhiệm và sứ mệnh của Giáo Hội, vốn có nguồn gốc và tột đỉnh của nó trong việc cử hành Bí tích Thánh Thể, vốn là sự kết hợp với Thiên Chúa Ba Ngôi và sự hiệp nhất giữa con người với nhau, vốn được hiện thực hóa nơi Chúa Kitô nhờ Chúa Thánh Thần. Trong bối cảnh này, tính đồng nghị «cho thấy cách sống và hoạt động chuyên biệt của Giáo hội, Dân Thiên Chúa, biểu lộ và hiện thực hóa một cách cụ thể tính hiệp thông của nó trong việc “cùng nhau bước đi”, trong việc tụ họp thành phiên họp và trong sự tham gia tích cực của tất cả các thành viên vào sứ mệnh truyền giáo của nó” (ITC, số 6).

32. Tính đồng nghị tự nó không phải là mục đích, nhưng nhằm vào sứ mệnh mà Chúa Kitô đã giao phó cho Giáo Hội trong Chúa Thánh Thần. Truyền giáo là “sứ mệnh thiết yếu của Giáo hội […] đó là ân sủng và ơn gọi riêng của Giáo hội, căn tính sâu xa của Giáo hội" (EN 14). Bằng cách gần gũi với mọi người, không có sự khác biệt về con người, bắng cách rao giảng và giảng dạy, rửa tội, cử hành Bí tích Thánh Thể và bí tích Hoà Giải, tất cả các Giáo Hội địa phương và toàn thể Giáo Hội đáp ứng cụ thể mệnh lệnh của Chúa là loan báo Tin Mừng cho mọi dân tộc (xem Mt 28:19-20; Mc 16:15-16). Bằng cách đề cao tất cả các đặc sủng và thừa tác vụ, tính đồng nghị cho phép dân Chúa loan báo và làm chứng cho Tin Mừng cho mọi người nam nữ ở khắp mọi nơi và mọi thời đại, trở thành “bí tích hữu hình” (LG 9) của tình huynh đệ và sự hiệp nhất trong Chúa Kitô được Thiên Chúa mong muốn. Tính đồng nghị và sứ mệnh được liên kết mật thiết với nhau: sứ mệnh chiếu sáng tính đồng nghị và tính đồng nghị thúc đẩy hướng về sứ mệnh.

33. Thẩm quyền của các Mục tử “là một hồng ân chuyên biệt của Thánh Thần Chúa Kitô là Đầu để xây dựng toàn bộ Thân Thể” (ITC, số 67). Hồng ân này được liên kết với bí tích Truyền chức thánh vốn lên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô là Đầu, Mục Tử và Tôi Tớ và đặt những ai tiếp nhận nó vào việc phục vụ Dân Thánh Chúa để bảo vệ tính tông truyền của việc loan báo và phát huy hiệp thông giáo hội ở mọi bình diện. Tính đồng nghị cung cấp “khuôn khổ giải thích thỏa đáng nhất cho việc hiểu chính thừa tác vụ phẩm trật" (Đức Phanxicô, Diễn văn kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng Hội đồng Giám mục, 17 tháng 10 năm 2015) và cung cấp bối cảnh chính xác cho việc hiểu mệnh lệnh mà Chúa Kitô ủy thác, trong Chúa Thánh Thần, cho các Mục Tử. Vì thế nó mời toàn thể Giáo Hội, kể cả những người thực thi quyền bính, hoán cải và cải cách.

Hiệp nhất như hòa hợp

34. «Tạo vật nhân bản, có bản chất thiêng liêng, được thành toàn trong các mối liên hệ liên bản vị. Họ càng trải nghiệm chúng một cách chân thực thì bản sắc bản vị của họ càng trưởng thành hơn.
Con người đánh giá cao bản thân mình không phải bằng cách cô lập bản thân mà bằng cách đặt mình vào mối liên hệ với người khác và với Thiên Chúa. Vì thế tầm quan trọng của những mối liên hệ như vậy trở thành nền tảng” (CV 53). Một Giáo hội đồng nghị được đặc trưng như một không gian trong đó các mối liên hệ có thể phát triển nhờ vào tình yêu thương lẫn nhau vốn là điều răn mới mà Chúa Giêsu đã để lại cho các môn đệ của Người (xem Gioan 13: 34-35). Trong các nền văn hóa và xã hội ngày càng mang tính cá nhân chủ nghĩa, Giáo hội là “một dân tộc tập hợp trong sự hiệp nhất của Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (LG 4), có thể làm chứng cho sức mạnh của những mối liên hệ được thiết lập trong Chúa Ba Ngôi. Sự khác biệt về nghề nghiệp, độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp, điều kiện và thống thuộc xã hội, hiện diện trong mọi cộng đồng Kitô giáo, cống hiến cuộc gặp gỡ đó với sự khác biệt không thể thiếu đối với sự phát triển và trưởng thành bản thân.

35. Trước hết ở trong gia đình, có thể gọi như Công đồng là “Giáo hội tại gia” (LG 11), nơi trải nghiệm sự phong phú của các mối liên hệ giữa những người hiệp nhất trong sự đa dạng về tính cách, tuổi tác và vai trò. Vì lý do này, gia đình đại diện cho một nơi ưu tuyển để học hỏi và trải nghiệm những thực hành thiết yếu của một Giáo hội đồng nghị. Dù có những gãy đổ và nỗi đau mà các gia đình trải qua chúng vẫn là nơi chúng ta học cách trao đổi Hồng phúc tình yêu, sự tin tưởng, sự tha thứ, sự hòa giải và sự hiểu biết. Chính ở trong gia đình mà chúng ta biết rằng chúng ta có cùng phẩm giá, rằng chúng ta được tạo dựng để có đi có lại, rằng chúng ta cần được lắng nghe và chúng ta có khả năng lắng nghe, biện phân và quyết định với nhau, chấp nhận và thực thi quyền bính được bác ái linh hứng, đồng trách nhiệm và giải trình hành động của chúng ta. «Gia đình nhân bản hóa con người thông qua các mối liên hệ của “chúng ta” và đồng thời thúc đẩy những khác biệt chính đáng của mỗi người” (Đức Phanxicô, Bài phát biểu với những người tham gia Phiên họp toàn thể của Học viện Giáo hoàng về Khoa học Xã hội, 29 tháng 4 năm 2022).

36. Diễn trình đồng nghị nhấn mạnh rằng Chúa Thánh Thần không ngừng khơi dậy trong dân Chúa rất nhiều đặc sủng và thừa tác vụ khác nhau. «Ngay cả trong việc xây dựng Cơ thể của Đấng Kitô có nhiều chi thể và chức năng khác nhau. Chỉ có một Đấng duy nhất là Thánh Thần phân phát nhiều hồng ân khác nhau vì lợi ích của Giáo hội, tùy theo mức độ giàu có của Giáo hội và nhu cầu của các thừa tác vụ (xem 1Cr 12:11)" (LG 7). Tương tự, khát vọng mở rộng các khả thể tham gia và thực thi tính đồng trách nhiệm dị biệt hóa của tất cả mọi người đã được rửa tội, nam và nữ, cũng đã xuất hiện. Tuy nhiên, về phương diện này, nỗi buồn gây ra bởi thiếu sự tham gia của nhiều thành phần dân Chúa vào hành trình đổi mới giáo hội này và bởi sự khó khăn lan rộng trong việc sống trọn vẹn mối liên hệ lành mạnh giữa nam và nữ, giữa các thế hệ và giữa những người và các nhóm có bản sắc văn hóa và điều kiện xã hội khác nhau, đặc biệt là người nghèo và người bị loại trừ, đã được phát biểu.

37. Hơn nữa, tiến trình đồng nghị nêu bật di sản tinh thần của các Giáo hội địa phương, trong đó và từ đó Giáo Hội Công Giáo hiện hữu, và sự cần thiết phải khớp nối những trải nghiệm của họ. Do tính Công Giáo, “các bộ phận riêng rẽ dâng tặng các hồng phúc của mình cho người khác và cho toàn thể Giáo hội”, sao cho toàn bộ và các bộ phận riêng rẽ được hưởng lợi từ sự giao tiếp lẫn nhau của mọi người và nỗ lực hiệp nhất hướng tới sự viên mãn” (LG 13). Sứ vụ của người kế vị Thánh Phêrô «bảo đảm sự đa dạng hợp pháp và đồng thời bảo đảm để điều đặc thù không những không gây hại cho hiệp nhất, nhưng đúng hơn, phục vụ nó” (ibid.; cf. AG 22).

38. Toàn thể Giáo hội luôn là một tập hợp đa dạng các dân tộc và ngôn ngữ, các Giáo hội với các nghi lễ, kỷ luật và di sản thần học và linh đạo đặc biệt, ơn gọi, đặc sủng và thừa tác vụ của họ để phục vụ ích chung. Sự thống nhất của tính đa dạng này đạt được nhờ Chúa Kitô, viên đá góc, và nhờ Chúa Thánh Thần, bậc thầy của sự hòa hợp. Sự thống nhất trong đa dạng này được chỉ danh chính bởi tính Công Giáo của Giáo hội. Tính đa nguyên của các Giáo hội tự trị (sui iuris), mà sự phong phú của họ đã được tiến trình đồng nghị làm nổi bật, là một dấu hiệu của điều này. Phiên Họp yêu cầu chúng ta tiếp tục con đường gặp gỡ, hiểu biết lẫn nhau và trao đổi những hồng ân vốn nuôi dưỡng sự hiệp thông của một Giáo hội trong các Giáo Hội.

39. Việc canh tân đồng nghị cổ vũ việc tôn giá các bối cảnh như những nơi trong đó lời kêu gọi phổ quát của Thiên Chúa để trở thành một phần của Dân Người, của Vương quốc đó của Thiên Chúa, vốn là “công lý, bình an và vui mừng trong Chúa Thánh Thần” (Rm 14,17) đã được làm cho hiện diện và hiện thực hóa. Bằng cách này, các nền văn hóa khác nhau có thể nắm bắt được sự thống nhất làm nền tảng cho tính đa dạng của họ và mở ra cho họ cơ hội trao đổi các hồng ân. «Sự hiệp nhất của Giáo Hội không phải là sự độc dạng, mà là sự tích nhập hữu cơ các đa dạng hợp pháp" (NMI 46). Tính đa dạng của các biểu thức trong thông điệp cứu độ tránh giản lược nó thành một sự hiểu biết đơn nhất về đời sống Giáo Hội và các hình thức thần học, phụng vụ, mục vụ và kỷ luật trong đó nó được phát biểu.

40. Việc tôn giá các bối cảnh, các nền văn hóa và các tính đa dạng cũng như mối liên hệ giữa chúng, là chìa khóa để phát triển như một Giáo hội đồng nghị truyền giáo và tiến bước, dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, hướng tới sự hiệp nhất hữu hình của các Kitô hữu. Chúng tôi nhắc lại cam kết của Giáo Hội Công Giáo tiếp tục và tăng cường hành trình đại kết với các Kitô hữu khác, do Bí tích Rửa tội chung và để đáp lại lời kêu gọi chung sống sự hiệp thông và hiệp nhất giữa các môn đệ mà Chúa Kitô đã cầu nguyện cho trong Bữa Tiệc Ly (xem Ga 17:20-26). Phiên Họp chào mừng một cách hân hoan và biết ơn sự tiến bộ trong liên hệ đại kết trong sáu mươi năm qua, các văn kiện đối thoại và các tuyên bố nói lên đức tin chung. Sự tham gia của Các đại biểu huynh đệ đã làm phong phú thêm diễn biến của Phiên Họp và chúng tôi mong chờ những bước tiếp theo trên con đường hướng tới sự hiệp thông trọn vẹn nhờ việc đón nhận hoa trái của con đường đại kết trong các thực hành của Giáo Hội.

41. Ở mọi nơi trên trái đất, người Kitô hữu sống cạnh những người không rửa tội và phục vụ Thiên Chúa bằng cách thực hành một tôn giáo khác. Chúng ta long trọng cầu nguyện cho họ trong phụng vụ Thứ Sáu Tuần Thánh, chúng ta cộng tác với họ và đấu tranh để xây dựng một thế giới tốt hơn, và cùng với họ, chúng ta cầu xin Thiên Chúa duy nhất giải thoát thế giới khỏi những sự dữ đang giáng xuống nó. Đối thoại, gặp gỡ và trao đổi hồng ân là điển hình của một Giáo hội đồng nghị được mời gọi mở rộng mối liên hệ với các truyền thống tôn giáo khác, nhằm mục đích “thiết lập hữu nghị, hòa bình, hòa hợp và chia sẻ những giá trị, kinh nghiệm đạo đức, thiêng liêng trong tinh thần sự thật và tình yêu” (Hội nghị Giám mục Công Giáo Ấn Độ, Phản hồi của Giáo hội tại Ấn Độ trước những thách thức ngày nay, ngày 9 tháng 3 năm 2016, được trích dẫn trong FT 271). Ở một số vùng, các Ki-tô hữu, những người cam kết xây dựng mối liên hệ huynh đệ với những người thuộc các tôn giáo khác, đang bị bách hại. Phiên Họp khuyến khích họ kiên trì trong cam kết của họ với niềm hy vọng.

42. Tính đa nguyên của các tôn giáo và nền văn hóa, tính đa dạng của các truyền thống tâm linh và thần học, sự đa dạng của các hồng ân Chúa Thánh Thần và các nhiệm vụ trong cộng đồng, cũng như sự đa dạng về tuổi tác, giới tính và mối liên hệ xã hội trong Giáo hội là một lời mời gọi mọi người hãy thừa nhận và đảm đương tính hoàn cảnh đặc thù của mình, chống đối cơn cám dỗ muốn đặt mình vào trung tâm và cởi mở đón nhận những quan điểm khác. Mỗi người đều có sự đóng góp riêng và cần thiết để hoàn thành công việc chung. Có thể nói Giáo Hội Đồng nghị giống như hình ảnh dàn nhạc đại hòa tấu: sự đa dạng của các loại nhạc cụ là cần thiết để mang lại sức sống cho vẻ đẹp và sự hài hòa của âm nhạc, trong đó âm thanh của mỗi nhạc cụ vẫn giữ được nét riêng khác biệt của nó trong việc phục vụ sứ mệnh chung. Đây là cách thể hiện sự hài hòa được Chúa Thánh Thần tạo ra trong Giáo Hội, Người là Đấng đích thân vốn là sự hòa hợp (xem Thánh Basil, Về Thánh Vịnh 29.1; Về Chúa Thánh Thần XVI, 38).

Linh đạo đồng nghị

43. Tính đồng nghị trước hết là một khuynh hướng thiêng liêng thấm nhập vào cuộc sống hàng ngày của những người đã được rửa tội và mọi khía cạnh của sứ mệnh Giáo hội. Một linh đạo đồng nghị xuất hiện bởi tác động của Chúa Thánh Thần và đòi hỏi phải lắng nghe Lời Chúa, chiêm niệm, thinh lặng và hoán cải tâm hồn. Như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã phát biểu trong diễn từ của ngài khi khai mạc Phiên họp thứ hai này, «Chúa Thánh Thần là người hướng dẫn chắc chắn và nhiệm vụ đầu tiên của chúng ta là học cách phân biệt giọng nói của Người, bởi vì Người nói trong mọi người và trong mọi sự” (Diễn văn tại phiên họp toàn thể của Kỳ họp thứ hai của Thượng hội đồng về tính Đồng nghị, 2 Tháng Mười 2024). Một linh đạo đồng nghị cũng đòi hỏi sự khổ hạnh, khiêm tốn, kiên nhẫn và sẵn sàng tha thứ và được tha thứ. Nó đón nhận với lòng biết ơn và khiêm tốn những hồng ân và nhiệm vụ khác nhau được Chúa Thánh Thần phân phát để phục vụ một Chúa duy nhất (xem 1Cr 12:4-5). Nó làm điều đó mà không có tham vọng hay ghen tị, khao khát thống trị hoặc kiểm soát, vun trồng những cảm xúc giống như Chúa Giêsu Kitô, Đấng «tự làm trống rỗng bản thân mang lấy thân phận tôi tớ” (Pl 2:7). Chúng ta nhận ra hoa trái của nó khi Đời sống hằng ngày của Giáo Hội được đánh dấu bằng sự hiệp nhất và hài hòa trong tính đa dạng. Không ai có thể một mình tiến bước trên con đường tâm linh đích thực. Chúng ta cần phải đồng hành và hỗ trợ, kể cả đào tạo và linh hướng, với tư cách cá nhân và như một nhóm và cộng đồng.

44. Việc đổi mới cộng đồng Kitô giáo chỉ có thể thực hiện được khi nhìn nhận tính ưu việt của ơn sủng. Nếu thiếu chiều sâu tinh thần bản thân và cộng đồng, tính đồng nghị sẽ bị giảm xuống chỉ còn hữu ích về mặt tổ chức. Chúng ta được kêu gọi không những để diễn dịch thành quả của một trải nghiệm tâm linh bản thân thành các diễn trình cộng đồng, nhưng sâu sắc hơn, để trải nghiệm việc thực hành Điều răn mới về tình yêu thương nhau là nơi chốn và hình thức gặp gỡ Thiên Chúa ra sao. Theo nghĩa này, trong khi dựa trên di sản tinh thần phong phú của Truyền thống, quan điểm đồng nghị góp phần đổi mới các hình thức của nó: một lời cầu nguyện mở ra cho sự tham gia, một sự phân định sống với nhau, một năng lực truyền giáo nảy sinh từ việc chia sẻ và tỏa sáng như một việc phục vụ.

45. Cuộc đàm luận trong Chúa Thánh Thần là một công cụ, mặc dù có những hạn chế, nhưng vẫn hữu hiệu mang lại hiệu quả cho phép việc lắng nghe và phân định “những gì Chúa Thánh Thần nói với các Giáo hội” (Kh 2:7). Việc thực hành nó đã khơi dậy niềm vui, sự ngạc nhiên và lòng biết ơn và được trải nghiệm như một cuộc hành trình của sự đổi mới nhằm biến đổi các cá nhân, các nhóm và Giáo hội. Chữ “đàm luận” diễn đạt một điều gì đó hơn cả cuộc đối thoại đơn giản: nó đan xen một cách hài hòa giữa suy nghĩ và cảm xúc và tạo ra một thế giới sống chung. Vì lý do này, người ta có thể nói rằng việc hoán cải gặp thuận lợi trong cuộc đàm luận. Đây là một sự kiện nhân học được tìm thấy ở các dân tộc và nền văn hóa khác nhau, thống nhất bằng thói quen tập hợp lại trong tình liên đới để thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng cho cộng đồng. Ân sủng đem trải nghiệm nhân bản này đến chỗ hoàn thành: đàm luận “trong Chúa Thánh Thần” có nghĩa là sống kinh nghiệm chia sẻ dưới ánh sáng đức tin và tìm kiếm ý chí của Thiên Chúa, trong một bầu không khí Tin Mừng trong đó Chúa Thánh Thần có thể làm cho tiếng nói của Người được lắng nghe không thể nhầm lẫn được.

46. Trong mọi giai đoạn của tiến trình đồng nghị, nhu cầu hàn gắn và hòa giải đều vang dội và xây dựng lại niềm tin trong Giáo hội, đặc biệt sau quá nhiều vụ tai tiếng liên quan đến các loại lạm dụng khác nhau và vang vọng trong xã hội. Giáo Hội được kêu gọi đặt vào trung tâm của đời sống và hành động của chính chúng ta sự kiện chúng ta được giao phó cho nhau trong Chúa Kitô, qua Bí tích Rửa tội. Việc thừa nhận thực tại sâu sắc này trở thành một nghĩa vụ thiêng liêng, cho phép chúng ta nhận ra sai lầm và xây dựng lại niềm tin. Tiếp nhận con đường này là một hành động công lý và sự dấn thân truyền giáo của dân Chúa trong thế giới chúng ta và một hồng ân chúng ta phải kêu cầu từ trên cao. Mong muốn tiếp tục bước đi trên con đường này là một thành quả của việc canh tân đồng nghị.

Tính đồng nghị như lời tiên tri xã hội

47. Được thực hành với lòng khiêm tốn, phong cách đồng nghị có thể làm cho Giáo hội trở thành tiếng nói tiên tri trong thế giới ngày nay. «Giáo Hội Đồng Nghị giống như một lá cờ được giương cao giữa các quốc gia (so sánh Is 11:12)" (Đức Phanxicô, Diễn văn nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng Hội đồng Giám mục, ngày 17 tháng 10 năm 2015). Chúng ta đang sống trong một thời đại được đánh dấu bằng các bất bình đẳng liên tục gia tăng, bằng sự vỡ mộng ngày càng tăng đối với các mô hình chính phủ truyền thống, bằng sự vỡ mộng với hoạt động của nền dân chủ, bằng xu hướng chuyên quyền và độc tài ngày càng tăng, bằng sự thống trị của mô hình thị trường mà không quan tâm đến tính dễ bị tổn thương của con người và tạo thế, và bằng sự cám dỗ giải quyết xung đột bằng vũ lực thay vì bằng cuộc đối thoại. Những thực hành đích thực của tính đồng nghị cho phép các Kitô hữu phát triển một nền văn hóa có khả năng tiên tri quan trọng đối với tư tưởng thống trị và do đó mang lại sự đóng góp đặc biệt cho việc tìm kiếm câu trả lời cho nhiều thách thức mà xã hội đương thời phải đối diện và việc xây dựng lợi ích chung.

48. Cách thức sống các mối liên hệ đồng nghị là một chứng tá xã hội đáp lại nhu cầu của con người cần được chào đón và cảm thấy được công nhận trong một cộng đồng cụ thể. Nó là một thách thức đối với sự cô lập ngày càng tăng của con người và chủ nghĩa cá nhân văn hóa, những điều mà Giáo hội thường xuyên tiếp thu, và nó kêu gọi chúng ta quan tâm lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau và đồng trách nhiệm vì lợi ích chung. Tương tự như vậy, nó thách thức chủ nghĩa cộng đồng xã hội cường điệu hóa đến mức bóp nghẹt con người và không cho phép họ trở thành đối tượng cho sự phát triển của chính họ. Sự sẵn lòng lắng nghe mọi người, đặc biệt người nghèo, hoàn toàn trái ngược với một thế giới trong đó việc tập trung quyền lực cắt bỏ người nghèo, người bị gạt ra ngoài lề xã hội và người thiểu số và trái đất, ngôi nhà chung của chúng ta. Tính đồng nghị và sinh thái toàn diện đều mang quan điểm của các mối liên hệ và nhấn mạnh vào sự cần thiết phải quan tâm đến các mối ràng buộc: vì lý do này, chúng tương ứng và tích hợp vào lối sống sứ mệnh của Giáo hội trong thế giới đương thời.

 

(còn tiếp) 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét