07/01/2016
Thứ Năm Sau Lễ Hiển Linh
Bài Ðọc I: 1 Ga 4, 19 - 5, 4
"Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải thương yêu anh em mình
nữa".
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa, vì Người đã
thương yêu chúng ta trước. Nếu ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh
em mình, thì là người nói dối. Vì người anh em mình xem thấy mà không thương
yêu họ được, thì làm sao yêu mến Thiên Chúa là Ðấng mình không thấy được? Ðây
là giới răn chúng ta lãnh nhận nơi Thiên Chúa: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng
phải thương yêu anh em mình nữa.
Hễ ai tin Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, thì đã được sinh ra bởi Thiên
Chúa. Vì hễ ai yêu mến Chúa là Ðấng đã sinh thành, thì cũng yêu mến những kẻ bởi
Người mà sinh ra. Do điều này mà chúng ta biết mình yêu thương con cái Thiên
Chúa, là hễ chúng ta yêu mến Thiên Chúa, thì chúng ta phải thực hành giới răn
Người. Tình yêu Thiên Chúa là thế này: là chúng ta giữ các giới răn Người, và
giới răn Người chẳng có nặng nề đâu. Hễ sự gì bởi Thiên Chúa mà sinh ra, thì thắng
được thế gian, và đây là sự chiến thắng thế gian: đó là đức tin của chúng ta.
Ai chiến thắng thế gian, nếu không phải kẻ tin Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa?
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 71, 2. 14 và 15bc. 17
Ðáp: Lạy Chúa, muôn dân khắp mặt đất sẽ thờ lạy Chúa (x. c.
11).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức
vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công
minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. - Ðáp.
2) Người sẽ cứu tâm hồn họ khỏi bất công và đàn áp, giá máu của
họ đáng kể trước mặt người. Họ sẽ cầu nguyện cho người luôn và sẽ chúc phúc người
mãi mãi. - Ðáp.
3) Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người tồn tại lâu dài
như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ
ca ngợi người. - Ðáp.
Alleluia: Lc 7, 16
Alleluia, alleluia! - Một Tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa
chúng ta và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 4, 14-22a
"Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh này".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về Galilêa trong quyền năng của Thánh Thần
và danh tiếng Người đồn khắp miền xung quanh. Người giảng dạy trong các hội đường
của họ, và ai nấy đều ca tụng Người. Người đến Nadarét là nơi Người sinh trưởng,
và theo thói quen của Người, Người vào hội đường ngày Sabbat, và đứng dậy đọc
sách. Người ta trao cho Người cuốn sách Tiên tri Isaia. Người mở sách và gặp chỗ
có chép rằng: "Thánh Thần Chúa ở trên tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi, sai
tôi đi rao giảng tin mừng cho người nghèo khó, chữa lành những người sầu khổ
trong tâm hồn, loan tin giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy,
giải thoát người bị áp chế, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa".
Người xếp sách lại, trao cho viên phụ trách, đoạn ngồi xuống. Mọi
người trong hội đường đều đưa mắt chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ
rằng: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai các ngươi vừa nghe".
Và ai nấy đều công nhận lời Người và ngạc nhiên vì những lời hấp dẫn thốt ra từ
miệng Người.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Chúa Giêsu viếng Nazaret.
Tuy chỉ diễn ra ở Hội đường Nazaret, nhưng việc Chúa Giêsu xuất
hiện lần này nêu bật tư cách và sứ mệnh Mêsia của Ngài. Đồng thời tạo ra một
khúc ngoặt trong lịch sự cứu rỗi, vì nó đánh dấu thời điểm mọi lời tiên báo của
Cựu ước được thành tựu.
“Hôm nay đã ứng nghiệm lời kinh thánh tai các ngươi vừa nghe”.
Biết bao thế hệ Cựu ước đã nôn nao chờ đợi hai tiếng “hôm nay” ấy. Đây là giờ
phút vui mừng tột độ đối với những ai thật lòng chờ đó ngày Yavê. Dĩ nhiên, thời
cứu rỗi sẽ ngày càng tốt đẹp do những can thiệp sẽ đến của Thiên Chúa,
nhưng tất cả đều tuỳ thuộc ở giây phút này, giây phút Chúa Giêsu tỏ mình là Đấng
mà tất cả Cựu ước đều hướng về.
Đây thật là một cuộc “hiển linh”, nhưng khác với ngờ tưởng của
con người, vì là cuộc tỏ mình một cách êm ả, trong khung cảnh phụng vụ quen thuộc:
Ngài đến hội đường ngày hưu lễ, cầu nguyện chung với mọi người, nghe đọc và
nghe giải thích lời Chúa. Đấng Mêsia gặp gỡ Thiên Chúa, tìm hiểu, lắng nghe và
nhận ra thánh ý Thiên Chúa nơi cơ chế phụng tự quen thuộc và nơi Kinh thánh, và
rồi Ngài cũng sẽ thực hiện chương trình cứu rỗi bằng chính đời sống lao nhọc vì
tha nhân, bằng chính thái độ tận tình đối với tha nhân, để “kẻ nghèo được nghe
Tin mừng, người sầu khổ được chữa lành, kẻ bị giam cầm được giải thoát…”.
Chớ gì mỗi khi họp nhau nghe Lời Chúa chúng ta cũng nhận ra được
thánh ý cứu độ của Ngài để rồi cùng với Chúa Kitô chúng ta thực hiện thánh ý ấy
trong cuộc sống. Điều đó đòi hỏi nơi chúng ta một tấm lòng rộng mở và biết lắng
nghe, một con tim quảng đại biết quên mình để dấn thân phục vụ.
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm sau Lễ Hiển Linh
Bài đọc: I Jn 4:19-5:4; Lk
4:14-22.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Yêu Chúa là thi hành
thánh ý của Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh vấn đề: phải bày tỏ tình yêu đối
với Thiên Chúa bằng các hành động cụ thể. Trong Bài Đọc I, Thánh Gioan dạy: Vì
Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước, nên chúng ta phải bày tỏ tình yêu với
Thiên Chúa bằng tình yêu chúng ta dành cho tha nhân. Ai nói mình mến Chúa mà
không yêu anh em là kẻ nói dối. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công
khai rao giảng của Ngài trong các hội đường để người ta biết đến Ngài. Khi trở
về Nazareth, nơi Người sinh trưởng, Ngài cũng vào hội đường và đọc Sách
Tiên-tri Isaiah, chương 61, nói về Năm Hồng Ân. Ngài nói cho mọi người trong hội
đường biết, Ngài chính là Người mà Tiên-tri nói tới. Ngài đến để thi hành thánh
ý Thiên Chúa và giải thóat nhân lọai khỏi mù lòa và xiềng xích của tội lỗi.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Yêu Chúa là giữ các giới răn của Ngài.
Hai tư tưởng chính của Thư Gioan I là: (1) tin Đức Kitô đến từ
Chúa Cha; và (2) giữ điều răn yêu thương. Chúng ta đã nói tới 2 tư tưởng này
trong các bài chia sẻ trước. Hôm nay, chúng ta chỉ để ý tới những khía cạnh mới
lạ của 2 tư tưởng chính này.
1.1/ Yêu Thiên Chúa là yêu Đức Kitô: Thánh Gioan cắt nghĩa: “Phàm ai tin rằng
Đức Giêsu là Đấng Kitô, kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra. Và ai yêu mến Đấng
sinh thành, thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra.” Trong Phúc Âm, Thánh
Gioan nói rõ hơn: “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người,
thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Jn 1:12). Người tín hữu trở nên
con Thiên Chúa bằng niềm tin vào Đức Kitô là Con Thiên Chúa. Nếu họ yêu mến
Cha, Đấng Sinh Thành, họ cũng phải yêu mến Con là Đức Kitô, Người được Đấng ấy
sinh ra. Điều mới lạ ở đây là Gioan đi từ “tin” đến “yêu” Đức Kitô.
1.2/ Yêu Thiên Chúa là giữ các giới răn Ngài truyền: “Căn cứ vào điều này,
chúng ta biết được mình yêu thương con cái Thiên Chúa: đó là chúng ta yêu mến
Thiên Chúa và thi hành các điều răn của Người. Quả thật, yêu mến Thiên Chúa là
tuân giữ các điều răn của Người.”
(1) Yêu mến Chúa là phải yêu thương anh em: “Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình.” Như đã nói ở trên, khi một người tin vào Đức Kitô là người đó cũng yêu Đức Kitô. Tình yêu của người đó dành cho Đức Kitô sẽ thúc đẩy người đó giữ các điều răn Đức Kitô truyền, như Ngài nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, hãy giữ những điều Thầy truyền” (Jn 14:15). Mà điều quan trọng nhất Đức Kitô truyền là: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu mến anh em” (Jn 13:34).
(1) Yêu mến Chúa là phải yêu thương anh em: “Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình.” Như đã nói ở trên, khi một người tin vào Đức Kitô là người đó cũng yêu Đức Kitô. Tình yêu của người đó dành cho Đức Kitô sẽ thúc đẩy người đó giữ các điều răn Đức Kitô truyền, như Ngài nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, hãy giữ những điều Thầy truyền” (Jn 14:15). Mà điều quan trọng nhất Đức Kitô truyền là: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu mến anh em” (Jn 13:34).
(2) Yêu mến Chúa mà ghét anh em là kẻ nói dối: “Nếu ai nói:
"Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói
dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến
Thiên Chúa mà họ không trông thấy.” Câu này là phản đề của câu trên: Yêu mến
Thiên Chúa là có tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa trong mình. Khi có tình yêu
Thiên Chúa là phải giữ điều răn yêu thương. Vì thế, nếu một người nói mình yêu
mến Thiên Chúa, mà không giữ điều răn yêu thương (ghét anh em mình), người đó
là kẻ nói dối; vì không có tình yêu Thiên Chúa trong mình mà dám nói có. Nói
tóm lại: Phải có tình yêu Chúa mới có thể yêu anh em; và yêu anh em là bằng chứng
mình có tình yêu Chúa.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu chu tòan sứ vụ Chúa Cha trao phó.
2.1/ Chúa Giêsu giảng dạy trong các hội đường: Trình thuật của Luca
hôm nay ngay sau biến cố Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong sa mạc, và bắt đầu sứ vụ
công khai rao giảng của Ngài. Chúa Giêsu chọn Galilee là địa điểm để bắt đầu sứ
vụ rao giảng vì Galilee là vùng rất đông dân cư, và dân chúng mở lòng cho những
dạy dỗ mới, chứ không bảo thủ như ở vùng Judah. Người Do-Thái chỉ có một Đền Thờ
duy nhất tại Jerusalem, nhưng hội đường mới là các trung tâm tôn giáo của dân địa
phương. Theo Lề Luật, chỗ nào có từ 10 gia đình trở lên, chỗ đó phải có một hội
đường. Vì thế, hầu như mỗi làng mạc hay thành phố, đều có ít nhất một hội đường
cho dân học hỏi và làm việc thờ phượng. Phụng vụ của người Do-Thái gồm 3 phần
chính:
(1) Phần phụng vụ của các lời cầu nguyện;
(2) Phần đọc Kinh Thánh: Có tất cả 7 người trong cộng đòan đọc.
Họ đọc bằng tiếng Do-Thái, nhưng được phiên dịch ra tiếng Aramaic hay Hy-Lạp,
vì thời của Chúa Giêsu, ít người hiểu tiếng Do-Thái. Nếu là Sách Luật, họ đọc một
câu một lần; nếu là Sách Tiên-tri, họ đọc 3 câu một lần.
(3) Phần dạy dỗ: Không có nhất định một Rabbi. Người trưởng hội
đường có thể mời bất cứ một người nào có thế giá trong dân để chia sẻ, và để điều
khiển cuộc đối thọai sau đó. Đây là lý do tại sao Chúa Giêsu có cơ hội giảng dạy
để người ta biết tới và tôn vinh.
2.2/ Chúa Giêsu giảng dạy tại Nazareth, nơi Ngài lớn lên: Người vào hội đường như
Người vẫn quen làm trong ngày Sabbath, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho
Người Sách ngôn sứ Isaiah. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: “Thánh Thần Chúa ngự
trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ
nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho
người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một
năm hồng ân của Chúa.” Đây là đọan văn trong Chương 61 của Isaiah, nói về Năm Hồng
Ân, xảy ra mỗi 50 năm một lần. Trong năm này, tất cả nợ nần được tha, tất cả đất
đai đã bán được trả về cho chủ cũ, tù nhân được phóng thích hay giảm án. Nói
tóm, mọi người đếu có cơ hội làm lại cuộc đời (Lev 25).
Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi
ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với
họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." Mọi người
đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người. Chúa
Giêsu nói với dân chúng Người chính là Đấng mà Tiên-tri Isaiah đã loan báo.
Ngài đã được Thánh Thần ngự xuống và tấn phong khi chịu Phép Rửa tại sông
Jordan bởi Gioan Tẩy Giả, và hôm nay Người bắt đầu sứ vụ đã được trao phó. Chắc
chắn Chúa Giêsu không quan tâm đến việc giải phóng người nghèo phần xác cho bằng
người nghèo về tâm linh: bị mù lòa và bị xiềng xích bởi tội lỗi, và năm hồng ân
của Chúa chính là ơn cứu độ Ngài mang tới cho con người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Nếu chúng ta yêu Thiên Chúa, chúng ta phải thực hành những gì
Chúa truyền, vì những giới răn này giúp chúng ta ở lại trong Chúa, và không lạc
xa tình yêu của Ngài.
- Yêu Thiên Chúa là biết lo chung với những lo âu của Thiên
Chúa: Làm sao cho mọi người nhận biết và yêu mến Thiên Chúa để tất cả đều được
hưởng hồng ân cứu độ của Ngài.
- Mỗi người chúng ta đều có bổn phận cùng chung với Giáo-Hội lo
việc truyền giáo: làm sao cho càng ngày càng tăng số người nhận biết và tin vào
Thiên Chúa.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
07/01/16 THỨ NĂM ĐẦU THÁNG SAU LỄ HIỂN LINH
Thánh Rây-mun-đô, linh mục
Lc 4,14-22a
Thánh Rây-mun-đô, linh mục
Lc 4,14-22a
Suy niệm: Năm
Toàn Xá (Năm Thánh) được sách Lê-vi (ch. 25) qui định như sau: dân Ít-ra-en
phải cử hành Năm Thánh cứ mỗi 50 năm, để thiết lập sự hòa giải giữa con người
với nhau và với Thiên Chúa. Trong Năm Thánh ấy, nô lệ được phóng thích, đất đai
thế chấp được trả về chủ cũ, nợ nần được tha. Qua dòng lịch sử, Dân Chúa cũng
duy trì niềm hy vọng sẽ có một Năm Thánh mà Thiên Chúa sẽ cử hành. Được quyền
năng Thần Khí thúc đẩy, “hôm nay” Đức Giêsu đã khai mở Năm hồng ân đó: Ngài
hiện diện và thi thố lòng thương xót cho kẻ nghèo hèn, kẻ bị giam
cầm, người mù, người bị áp bức, đưa con người bước vào mối
tương quan cá vị với Thiên Chúa, được tham dự vào đời sống Thiên Chúa, gọi
Người là Cha.
Mời bạn: Năm
Thánh Lòng Thương Xót đã bắt đầu. Ước gì khi hòa nhịp vào biến cố này với Giáo
Hội, bạn cảm nghiệm được rằng: “Thương xót là nhịp cầu nối Thiên Chúa và con người, mở trái tim
chúng ta cho niềm hy vọng rằng chúng ta được Thiên Chúa yêu thương đến muôn
đời, bất chấp tội lỗi của chúng ta” (Tông sắc Dung Mạo Lòng Thương Xót,
số 2).
Sống Lời Chúa: Hai
việc cần làm trong Năm Thánh này: Lãnh nhận lòng thương xót Chúa và thực thi
lòng thương xót với người lân cận.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin sai Thần Khí Chúa đến xức dầu thánh hiến mỗi người chúng
con; để Hội Thánh Chúa, với lòng hăng say mới, có thể mang Tin Mừng đến cho
người nghèo, công bố sự tự do cho các tù nhân và những người bị áp bức, trả lại
ánh sáng cho kẻ mù lòa. Amen. (Kinh
Năm Thánh).
Trả lại tự do
Vẫn luôn có những
người tự nhốt mình trong nhà tù của thành kiến, thói quen... Xin được ơn tự do
để thoát khỏi sự chi phối của cái tôi ích kỷ.
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu tỏ
mình.
Ngài không tỏ mình cho một đám đông trong
hoang địa,
nhưng tỏ mình cho người dân làng Nadarét,
tại hội đường của họ.
Thánh Luca đã muốn chọn Nadarét thay vì
Caphácnaum
làm nơi Đức Giêsu bày tỏ con người và
chương trình hành động của Ngài.
Nadarét là một ngôi làng nhỏ, chẳng có gì
nổi bật (x.Ga 1, 46),
nhưng ở đây, Con Thiên Chúa làm người đã
sống hơn chín phần mười đời mình
như một người thợ (Mc 6, 3), con của một
ông thợ khác (Mt 13, 55).
Ở đây, Đức Giêsu đã lớn lên từ từ về mọi
mặt (Lc 2, 40).
Bé Giêsu, cậu Giêsu, chú Giêsu rồi ông
Giêsu.
Ngài sống như một người bình thường, không
có hào quang trên đầu,
cũng không làm nhiều phép lạ như các sách
ngụy thư đã kể.
Hôm nay, Đức Giêsu trở lại làng xưa, nơi có
biết bao kỷ niệm.
Vì là ngày sabát, theo thói tục, Ngài
đến hội đường.
Ông trưởng hội đường đã mời Ngài đọc sách
thánh và diễn giải.
Hãy ngắm nhìn cử chỉ đĩnh đạc của Đức
Giêsu.
Ngài đứng lên, nhận cuộn sách, mở ra;
sau khi đọc, Ngài cuộn sách, trả lại và
ngồi xuống.
Đức Giêsu đã cố ý chọn đoạn sách Isaia 61,
1-2
Ngài thấy đoạn sách thánh đó nói về mình,
về sứ vụ tương lai:
“Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai
quý vị vừa nghe.”
Như thế chính Ngài nhận mình là Đấng
có Thần Khí Chúa ngự trên,
nhận mình là Mêsia, Đấng được xức dầu để
thi hành một sứ mạng.
Sứ mạng của Đức Giêsu chủ yếu là loan báo
và công bố ( Lc 4, 18-19).
Sứ mạng ấy nhắm đến những người bất hạnh
trong xã hội:
người nghèo, người bị giam cầm, người bị mù
lòa, bị áp bức.
Đức Giêsu như đến để mở một Năm Thánh đặc
biệt, Năm hồng ân.
Ơn nổi bật là ơn trả lại tự do cho tù nhân
và cho người bị áp bức (aphesis).
Vẫn luôn có những người tự nhốt mình trong
nhà tù của thành kiến, thói quen…
Xin được ơn tự do để thoát khỏi sự chi phối
của cái tôi ích kỷ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
ai trong chúng con cũng thích tự do,
nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô
lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo
ra.
Xin giúp chúng con được tự do thực sự:
tự do trước những đòi hỏi của thân xác,
tự do trước đam mê của trái tim,
tự do trước những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích
kỷ,
để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của
Chúa,
để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh
em.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,
khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi
và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm
đe,
khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái
chết,
vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu
hiến dâng,
để chúng con được tự do bay cao.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
7 THÁNG GIÊNG
Hành Trình Trực Chỉ Giê-ru-sa-lem
Các nhà thông thái phương Đông là những người ngoại giáo đầu
tiên đón nhận mạc khải đức tin vào Chúa Kitô. Họ là những người đầu tiên tiếp cận
mầu nhiệm thừa tự mà Thiên Chúa đã mở ra cho mọi người nơi Đức Giêsu Kitô: cuộc
Nhập Thể của Con đời đời của Thiên Chúa.
Mầu nhiệm ấy, nhờ Chúa Thánh Thần vén mở, đã được các nhà thông
thái tiếp cận ngay cả trước khi nó được mạc khải cho các tông đồ – và ngay cả
trước khi Tin Mừng được nhận biết như là con đường dẫn tới đức tin. Nơi các nhà
thông thái này, chúng ta tìm thấy một hình mẫu của công cuộc tiền-Phúc-Âm hóa.
Chúng ta thấy rõ linh hồn họ đã được Thiên Chúa chuẩn bị để đón nhận ơn cứu độ.
Đây cũng là một công trình của Chúa Thánh Thần, Đấng mạc khải ý nghĩa của ánh
sao mà các nhà thông thái đã dõi bước theo trên hành trình trực chỉ
Giê-ru-sa-lem. Aùnh sao ấy biểu trưng ý nghĩa rằng ơn cứu độ của họ vẫn còn ở
xa xa, réo gọi.
Trong ngày Lễ Hiển Linh, phụng vụ của Giáo Hội cũng muốn dẫn dắt
chúng ta trên hành trình của mình tiến về Giê-ru-sa-lem. Chúng ta hướng lòng về
thành Thánh, “thành đô của Đại Vương”. Cho dẫu cư dân Giê-ru-sa-lem không hề
hay biết rằng vị Vua Vinh Quang đã được sinh ra giữa họ, thì phần mình, chúng
ta vẫn vui mừng hoan hỉ hướng về thành Thánh. Bởi đó là ‘thành đô của Đại
Vương’.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 07/01
Thứ năm sau lễ Hiển Linh
1Ga 3, 22-24; Mt 4, 12-17.23-25.
Lời Suy Niệm: “Từ
lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói rằng: Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời
đã đến gần”.
Với Gioan Tảy Giả khi kêu gọi dân chúng sám hối: “Anh em hãy sám
hối, vì Nước Trời đã đến gần” kèm theo những cảnh báo có tính cách xét xử và kết
án: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt
đi và quăng vào lửa (Mt 3,10) hay là “Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa
trong sân: thóc mẫy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt
mà đốt đi.” (Mt 3,12). Gây nên sự lo sợ cho con người. Còn đối với Chúa Giêsu:
“Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Để được sống trong tình yêu
thương tha thứ của Thiên Chúa, và được chữa lành, để sống và sống dồi dào.
Lạy Chúa Giêsu. Chúa muốn chúng con luôn sám hối với những sai
phạm chúng con trong cuộc sống hằng ngày, để cải thiện đời sống của chúng con.
Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn biết sám hối để được sống
trong tình yêu thương tha thứ của Chúa, để chúng con được Chúa chữa lành cả hồn
lẫn xác.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 07-01: THÁNH RAYMUNDO PENYAFORT
Linh Mục (1175-1275)
Thánh Raymudô chào đời năm 1175 trong một gia đình hiệp sĩ tại
lâu đài Penyafort ở California. Không chiều theo cuộc sống dễ dãi, Ngài đã dành
trọn nỗ lực tuổi trẻ vào việc học hành và thực tập các nhân đức. Mới 20 tuổi,
Ngài đã giữ ghế triết tại đại học Barcelona. Nhưng vì tinh thần hiếu học và muốn
giúp ích cho Giáo hội đắc lực hơn, năm 30 tuổi, Ngài qua Italia để tiếp tục học
luật tại Bologna. Tại đây Ngài đã tốt nghiệp tiến sĩ và thành công trong nghề
luật sư, lại còn giảng dạy tại chính đại học Bologna trong ba năm. Nhiều nhà
quí phái và bậc thứ giả tìm đến với Ngài. Tận tụy hướng dẫn họ, Ngài chỉ mong
cho họ tiến bộ. Nếu có bị ép để nhận một ít thù lao nào, Ngài cũng đem phân
phát cho người nghèo.
Năm 1249, Đức giám mục địa phận Bacelona mời Ngài về giúp việc địa
phận. Nhưng lúc 48 tuổi, thánh nhân đã trốn mọi danh vọng và xin gia nhập dòng
Daminh, Ngài chỉ ao ước được trao phó cho những công việc thấp hèn nhất. Nếu được
tán thưởng, Ngài liền xin bề trên cho được làm việc đền tội. Tuy nhiên việc đền
tội Ngài không mong mỏi chút nào, là việc nhà dòng trao cho Ngài trách nhiệm viết
một tác phẩm về các vấn đề lương tâm để hướng dẫn các cha giải tội. Tác phẩm
này cho tới ngày nay vẫn còn danh tiếng.
Năm 1230, Đức giáo hoàng Gregoriô IX cảm kích những thành quả do
thánh Raymundô mang lại, đã mời làm cha giải tội cho mình, đồng thời chọn Ngài
làm tổng giám mục thành Tarragona. Nhưng danh dự này đã khiến thánh nhân, khi
nghe tin, lên cơn sốt liền trong vòng ba ngày, Ngài đã xin các đức hồng y can
thiệp cho mình khỏi lãnh nhận danh dự và gánh nặng này. Cuối cùng Đức giáo
hoàng đành chấp thuận. Năm năm làm việc tại giáo triều, đức giáo hoàng đã ủy
thác cho thánh nhân thu thập các sắc lệnh của các đức giáo hoàng và các công đồng
thánh nhân đã gom góp vào năm cuốn sách và được phê chuẩn năm 1234. Ngoài việc
chu toàn các nghĩa vụ được trao phó, Ngài còn theo đuổi một nếp sống nhiệm nhặt,
khiến Ngài lâm trọng bệnh. Thánh nhân liền khẩn nài cho mình được trở về với nếp
sống tu sĩ bình thường.
Từ khứơc mọi đặc ân thánh nhân rời khỏi Roma trở về Barcelona.
Trên chuyến tàu Ngài gặp một người lâm bệnh nặng không còn nói năng gì được. Cầu
nguyện và xin mọi người cầu nguyện cho ông, thánh nhân hỏi ông có muốn xưng tội
không ? Bệnh nhân bỗng nói được. Ông ta đã xưng tội rồi tắt thở.
Tại Barcelon, thánh nhân trở lại đời sống sám hối rất gương mẫu.
Hàng ngày Ngài vẫn xưng tội rước khi dâng lễ. Ngài nói: - "Những ngày bị
ngăn trở không xưng tội được, đối với tôi là những tang chế u sầu".
Năm 1238, Ngài được bầu làm bề trên tổng quyền thứ ba của dòng
Daminh. Suốt hai năm làm bề trên, Ngài đã đi bộ đến thăm viếng mỗi tỉnh dòng để
hun nóng lòng nhiêt thành của các tu sĩ. Hai năm sau Ngài xin từ chức vì tuổi
già sức yếu.
Tuy nhiên trong tuổi già yếu, Ngài vẫn góp phần xây dựng cho tổ
quốc. Ngài đã viết thư yêu cầu thánh Tôma viết một bộ sách để chống lại bọn lạc
giáo, như vua Giacôbê yêu cầu. Thánh Tôma đã nhận lời và viết bộ sách
"Summa Contra Ghentiles" Dù được nhà vua quí mến chiều chuộng, nhưng
thánh nhân không ngại cảnh cáo ông ta. Một lần kia, trong cuộc chinh phục đảo
Maiorqua. Vua mời thánh nhân cùng đi. Thánh nhân nhận lời với ước vọng giảng
thuyết để phá đổ những sai lầm tại đó. Nhưng tới nơi, Ngài khám phá ra rằng nhà
vua đang phá hoại tổ chức bằng cuộc sống tội lỗi của mình. Ngài can ngăn nhưng
nhà vua không giữ lời hứa.
Thánh nhân liền tuyên cáo: - Vì Ngài không bỏ đường tội lỗi nên
tôi sẽ bỏ đi.
Hoảng hốt, nhà vua cấm mọi tàu thuyền không được phép chở Ngài.
Tương truyên rằng: thánh nhân đã nói với một tu sĩ đi theo Ngài rằng: - Một
vua trần thế cản đường, thì vua trên trời sẽ mở lối cho chúng ta đi.
Nói rồi, Ngài cởi áo ngoài trải ra trên mặt biển, cắm cây gậy
làm cột và cuốn một góc làm buồm. Ngài mời thầy dòng lên "Tàu" nhưng
ông không dám. Thế là một mình Ngài đáp "tàu" hồi hương. Vài giờ sau
thánh nhân tới bến và Ngài vội vàng cuốn áo thẳng về nhà dòng để tránh tiếng
hoan hô của dân chúng. Phép lạ này đã trở thành sức mạnh cải hóa nhà vua, đưa
ông trở lại với lương tâm và quê hương mình.
Về già, thánh Raymundô đã chịu nhiều cơn đau yếu, nhưng lòng nhiệt
thành của Ngài vẫn bốc cháy không ngừng. Ngày 6 tháng giêng năm 1275 Ngài đã từ
giã cõi thế là nơi mà Ngài đã hiến trọn đời phụng vụ Chúa.
(daminhvn.net)
07 Tháng Giêng
33 Năm Sau
Với tựa đề "33 năm sau", đó là một câu chuyện thuật lại
như sau: "Những gì đã xảy ra cho đứa bé năm nào?". Một trong ba vua
đã đi triều bái vua Do Thái mới sinh tự hỏi. Suốt cuộc đời mình, nhà vua không
thể nào quên được cuộc hành trình cách đây khoảng 33 năm, một cuộc hành trình
dõi theo ánh sáng sao lạ dẫn ông đến hang đá Bêlem.
Câu hỏi: "Liệu đứa bé ấy có trị vì dân Israel được
không?". Làm cho nhà vua bồn chồn đứng ngồi không yên. Rồi chẳng dừng được,
một lần nữa nhà Vua quyết định lên đường đi đến Palestine. Tại Giêrusalem, những
bậc bô lão còn nhớ đến những vì sao lạ, nhưng không ai biết gì đến đứa bé được
sinh ra dưới điềm lạ ấy. Còn tại Bêlem mọi người được hỏi đều lắc đầu, ngoại trừ
một cụ già cho nhà Vua biết: Làm gì có ông Giêsu Bêlem, chỉ có ông Giêsu
Nagiarét, một người nói phạm thượng tự xưng mình là Con Thiên Chúa, nên cách
đây mấy tuần đã bị xử "tử hình thập giá".
Thất vọng ê trề, nhà Vua thẫn thờ nhập vào đoàn những người hành
hương trở lại Giêrusalem, vào đúng ngày Lễ Ngũ Tuần. Chen lấn vào đoàn lũ đang
mừng lễ Tạ Ơn Sau Mùa Gặt, nhà Vua chú ý đến một đám đông đang bu quanh một
nhóm người. Tò mò ông lấn qua đám đông để đến gần và nghe có kẻ nói: "Tưởng
gì chứ lại gặp mấy tên say rượu nói tầm xàm".
Nhưng tai nhà Vua lại nghe một người trong nhóm nói tiếng nước
mình và rõ ràng ông ta nói về ông Giêsu Nagiarét, người đã bị đóng đinh, nhưng
đã được Thiên Chúa cho sống lại từ cõi chết. Như bị một sức mạnh vô hình thúc đẩy,
nhà Vua chen vào đám đông cất tiếng hỏi: "Vậy bây giờ ông Giêsu đó ở
đâu?". Ðại diện nhóm người đứng ở giữa đám đông là Simon Phêrô trả lời:
"Ngài đang ở giữa chúng tôi. Ngài đang ở trong chúng tôi. Chúng tôi là môi
miệng, là tai mắt, là đôi tay, là đôi chân của Ngài".
Trong lúc Pphêrô đang nói, bỗng có một luồng gió thổi mạnh và
hình lưỡi lửa một lần nữa thổi tràn xuống mọi người. Nhà Vua bỗng lại thấy ánh
sao Bêlem, nhưng lần này ánh sao ấy chia ra nhiều ánh sao khác rơi xuống mọi
người. Trong tâm hồn, nhà Vua chợt hiểu: Mỗi người phải trở nên máng cỏ nơi Ðức
Giêsu sinh ra và mỗi người phải mang Ngài đến cho mọi người xung quanh.
Câu chuyện trên nối liền ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh, mừng biến cố
Ngôi Lời nhập thể với Lễ Tưởng Niệm Biến Cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Ðồng thời
câu chuyện cũng nêu nổi bật bổn phận của mọi người Kitô, là những kẻ phải trở
nên tai mắt, trở nên môi miệng và chân tay của Ðức Kitô để mang Tin Mừng của
Ngài đến cho mọi người chúng ta gặp gỡ và cộng tác hằng ngày.
(Lẽ Sống)
SỐNG LỜI CHÚA MỖI NGÀY NĂM THÁNH LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
Thứ Năm, 7 tháng 1 – Thánh
Raimunđô Penyafort
1
Gio-an 4,19-5,4 ·
Thánh Vịnh 71,1-2.13b-14.15bc.17 ·
Lu-ca 4,14-22a
Yêu Chúa, Yêu Tha Nhân
Đây là điều răn mà
chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh
em mình. 1 Gio-an 4,21
Ai là
người khó ưa nhất đối với tôi? Làm thế nào để tôi thay đổi thái độ đối với người
đó? Thứ của thánh Gioan nhắc nhở chúng ta rằng yêu Chúa và yêu tha nhân có liên
quan chặt chẽ với nhau, Chúa có thể giúp tôi tôi yêu thương người khác vì tôi
biết rằng Ngài yêu thương tôi hết mực. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu loan
báo về lời hứa mà Thiên Chúa đã thực hiện: giải phóng khỏi sự áp bức, cứu chữa
những ai mù lòa và nâng đỡ những kẻ nghèo đói. Vì thế, tại sao tôi không thử
nhìn lại bản thân xem liệu có sự mù lòa, nghèo nàn hay lo âu nào trong tôi đang
ngăn trở tôi thực hiện việc yêu thương? Thư của thánh Gioan hướng tôi đến các
giới răn của Thiên Chúa như ngọn đuốc soi rọi bản thân, nhờ đó tôi đạt được những
kết quả đáng kinh ngạc.
Khi
chiêm ngắm cách thức Chúa Kitô yêu thương nhân loại, tôi học biết cách yêu tha
nhân hơn. Khi tôi nhận ra mình đã thất bại khi yêu thương ai đó, thì đó là lúc
tôi hiểu rõ bản thân mình hơn, không bị che khuất bởi sự bực bội và thiếu sót của
mình, và ý thức hơn về nhu cầu cần được yêu thương của người đó. Để rồi tôi có
thể tiến thêm một bước nữa, có thể chưa được hoàn hảo nhưng để trở nên một người
dễ mến.
Mary Marrocco
HỌC HỎI NĂM THÁNH
Hỏi 61 : Qua câu chuyện
này, Đức Thánh Cha mong ước điều gì về Năm Thánh?
Đáp 61 : Đức Thánh Cha mong ước các Kitô hữu, trong Năm
Thánh, làm cho sứ mạng của Chúa Giêsu được mô tả trong lời của Ngôn sứ Isaia,
trở nên hữu hình và phong phú, nhờ đáp trả đức tin mà họ thực hiện qua chứng tá
của mình (x.số 16).
CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa tình yêu, xin
dạy chúng con biết yêu thương nhau như Thầy Giêsu đã yêu thương chúng con.
Quyết tâm : Loại bỏ những thái độ hay lời
nói gây tổn thương cho người khác.
(nguồn trích Sống Lời Chúa số 1 –
Mùa Vọng và Giáng Sinh của Tgp. Sài Gòn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét