13/01/2016
Thứ Tư tuần 1 thường niên.
Bài Ðọc I: (năm
II) Sm 3, 1-10.
19-20
"Lạy
Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe".
Trích sách
Samuel quyển thứ nhất.
Trong những
ngày ấy, trẻ Samuel phục vụ trước mặt Hêli. Thời ấy, ít khi Chúa phán và hiện
ra. Ngày nọ, Hêli đang nằm tại chỗ mình, mắt ông đã loà và không còn thấy được:
Ðèn chầu chưa tắt, Samuel ngủ trong đền thờ Chúa, nơi đặt hòm bia Thiên Chúa.
Chúa đã gọi Samuel; cậu trả lời: "Này con đây", rồi chạy đến Hêli và
nói: "Này con đây, vì thầy gọi con". Hêli trả lời: "Ta đâu có gọi,
hãy trở về ngủ đi". Samuel đi ngủ lại. Nhưng Chúa gọi Samuel lần nữa, và
Samuel chỗi dậy, chạy đến Hêli và nói: "Này con đây, vì thầy gọi
con". Hêli trả lời: "Này con, ta đâu có gọi, hãy trở về ngủ đi".
Samuel chưa nhận ra Chúa, và lời Chúa chưa mạc khải cho cậu. Chúa lại gọi
Samuel lần thứ ba. Cậu chỗi dậy, chạy đến Hêli và nói: "Này con đây, vì thầy
gọi con". Hêli biết Chúa đã gọi Samuel, nên nói với Samuel: "Hãy đi
ngủ, và nếu Người còn gọi con, thì con nói rằng: "Lạy Chúa, xin hãy nói,
vì tôi tớ Chúa đang nghe". Samuel trở về chỗ mình và ngủ lại. Chúa đến gần
và gọi Samuel như những lần trước: "Samuel! Samuel!" Và Samuel thưa:
"Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe".
Phần Samuel
ngày càng lớn lên. Chúa hằng ở cùng cậu, và cậu không để rơi mất lời nào của
Chúa. Toàn dân Israel, từ Ðan tới Bersabê, đều nhận biết Samuel là tiên tri
trung thực của Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv
39, 2 và 5. 7-8a. 8b-9. 10
Ðáp: Lạy Chúa, này con xin đến để thực
thi ý Chúa (c. 8a và 9a).
Xướng: 1) Con
đã cậy trông, con đã cậy trông ở Chúa, Ngài đã nghiêng mình về bên con, và Ngài
đã nghe tiếng con kêu cầu. Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa, không
theo kẻ thờ thần tượng, không hướng về chuyện gian tà. - Ðáp.
2) Hy sinh và lễ
vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở rộng tai con. Chúa không đòi hỏi hy lễ
toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến". -
Ðáp.
3) Như trong
quyển vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật
của Chúa ghi tận đáy lòng con. - Ðáp.
4) Con đã loan
truyền đức công minh Chúa trong đại hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa,
Chúa biết rồi. - Ðáp.
Alleluia: Tv
94, 8ab
Alleluia,
alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc
1, 29-39
"Ngài
chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau".
Tin Mừng Chúa
Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy Chúa
Giêsu ra khỏi hội đường. Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê.
Lúc ấy bà nhạc gia của Simon cảm sốt nằm trên giường, lập tức người ta nói cho
Người biết bệnh tình của bà. Tiến lại gần, Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà
liền khỏi cảm sốt và đi tiếp đãi các Ngài.
Chiều đến, lúc
mặt trời đã lặn, người ta dẫn đến Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những
người bị quỷ ám; và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm
những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng
biết Người. Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi
thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Simon và các bạn chạy đi tìm Người. Khi tìm được
Người, các ông nói cùng Người rằng: "Mọi người đều đi tìm Thầy".
Nhưng Người đáp: "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để
Ta cũng rao giảng ở đó nữa". Và Người đi rao giảng trong các hội đường,
trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Ðộng lực của việc tông đồ
Tin Mừng rất
nhiều lần nhắc đến Chúa Giêsu cầu nguyện với Cha Ngài, đó là những giây phút gặp
gỡ thân tình với Chúa Cha mà Ngài không bao giờ bỏ. Về phương diện thiên tính,
Chúa Giêsu là Chúa Con, đồng bản tính với Chúa Cha, cho nên Ngài luôn kết hiệp
với Chúa Cha. Nhưng như một con người, Chúa Giêsu đã nêu bật thái độ sống của
Ngài, đó là sống mối tương quan thân tình với Chúa Cha qua lời cầu nguyện.
Trong Tin Mừng
hôm nay, thánh Marcô ghi nhận: "Sáng sớm, lúc trời còn tối, Chúa Giêsu đã
chỗi dậy, đi đến một nơi vắng vẻ để cầu nguyện". Mặc dù bận rộn với rất
nhiều công việc trong ngày, Chúa Giêsu vẫn không quên cầu nguyện. Nhưng đây
không phải là lần duy nhất, Tin Mừng còn cho thấy rất nhiều lần Chúa Giêsu cầu
nguyện với Chúa Cha, và chính Ngài đã dạy các Tông đồ cầu nguyện bằng Kinh Lạy
Cha. Ngài lấy hình ảnh cây nho và cành nho để nói lên tầm quan trọng của cầu
nguyện: "Thầy là cây nho, các con là cành nho; ai lưu lại trong Thầy và Thầy
trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con
không thể làm được gì".
Chúng ta hãy
noi gương Chúa, dành thời giờ để tiếp xúc, đối thoại, chiêm ngưỡng Thiên Chúa,
như Ngài đang hiện diện trước mặt chúng ta. Muốn đạt tới việc cầu nguyện như thế,
chúng ta cần phải có đức tin mạnh mẽ và lòng yêu mến Thiên Chúa như người con đối
với người cha. Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói: "Cầu nguyện là việc tiếp xúc với
Thiên Chúa. Hãy bắt đầu và kết thúc mỗi ngày bằng cầu nguyện. Hãy đến với Chúa
như đứa con đến với cha mình".
Chúng ta hãy cảm
tạ Chúa đã cho chúng ta có những giờ phút thuận lợi để bắt đầu một ngày sống tốt
đẹp hơn. Xin cho chúng ta biết sống kết hiệp mật thiết với Chúa trong cầu nguyện,
nhờ đó chúng ta có thể chu toàn thánh ý Chúa và phục vụ tha nhân một cách hữu
hiệu hơn.
Veritas
Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần I TN2
Bài đọc: I Sam 3:1-10, 19-20; Mk 1:29-39.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu là Thượng-tế nhân-từ và trung-tín.
Tục ngữ Việt
Nam có câu: “Có đau mắt mới biết thương người mù.” Có là cha mẹ mới biết nỗi
khổ của việc cưu mang và dưỡng nuôi con cái. Có trải qua đau khổ và
cám dỗ, một người mới có thể giúp ai trong hoàn cảnh đó. Các Bài đọc hôm
nay xoay quanh vấn nạn tại sao Chúa Giêsu phải nhập thể và trở nên
hoàn toàn giống như con người về mọi phương diện, trừ tội lỗi.
Trong Bài Đọc
I, năm chẵn, thầy cả Eli dùng kinh nghiệm để dạy cho con trẻ Samuel
biết lắng nghe và nhận ra tiếng Thiên Chúa trong đêm trường tỉnh thức và cầu
nguyện. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đồng cảm với số phận con người: Ngài chữa
lành cho mẹ vợ Phêrô và tất cả mọi người trong Thành Capernaum kéo
đến kêu xin. Ngài cũng dạy cho các tông-đồbiết thăng bằng giữa các họat động
tông-đồ với đời sống cầu nguyện.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I
(năm chẵn): "Lạy Đức
Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe."
1.1/ Những đức
tính cần thiết của người ngôn sứ: Để có thể lắng nghe tiếng Thiên Chúa, con người phải
tập để có những đức tính sau:
(1) Tĩnh lặng:
Đền thờ là một trong những nơi Thiên Chúa nói với con người, Samuel ngủ trong
Đền Thờ với Thiên Chúa. Ngoài ra, sa mạc hay đỉnh núi cũng là chỗ Thiên
Chúa tỏ mình cho con người. Khi không có cơ hội, phòng riêng cũng là
nơi tốt để cầu nguyện. Ngược lại, ồn ào làm con người chia trí và tâm
hồn không thể lắng đọng để nghe tiếng Thiên Chúa.
(2) Tỉnh thức:
Chúa Giêsu khuyên các môn đệ luôn phải tỉnh thức và cầu nguyện luôn để có
thể đứng vững. Cậu bé Samuel trong trình thuật hôm nay rất bén nhạy với tiếng
gọi, ba lần cậu giật mình tỉnh thức trong đêm trường. Các thánh có thói quen cầu
nguyện trong đêm tối; vì là thời gian Thiên Chúa tỏ mình cho con người.
Ngôn sứ cần có tỉnh thức đểnhận ra nhu cầu của con người chung quanh trước
khi có thể đáp ứng nhu cầu của họ. Những ai mê ngủ khó có thể nghe
được tiếng Chúa và tiếng kêu cứu của tha nhân.
(3) Mau mắn
vâng lời: Ba lần nghe tiếng gọi trong đêm, ba lần Samuel mau mắn chạy tới với
thầy cả Eli để xem Thầy cần gì. Samuel không nản chí khi Thầy truyền
về ngủ lại cả ba lần. Nếu Samuel nản chí, cậu sẽ không có
cơ hội được Thiên Chúa tỏ mình. Ngôn sứ không chỉ lắng nghe
tiếng gọi của Thiên Chúa, nhưng còn phải mau mắn vâng lời và làm theo ý của
Ngài. Trong trình thuật hôm nay, Thiên Chúa đang thử luyện cậu bé Samuel
trước khi trao sứ vụ ngôn sứ cho cậu. Làm sao Thiên Chúa có thể trao
sứ vụ cho những người ù lỳ không thi hành những gì Ngài mong muốn.
1.2/ Kinh nghiệm của
thầy cả Eli: Con người
cần lắng nghe để học hỏi kinh nghiệm và vâng lời sự chỉ dẫn của
những người hữu trách, vì đó là một trong những cách thức Thiên Chúa dùng để huấn
luyện con người. Một người không chịu lắng nghe và học hỏi kinh nghiệm của những
người đi trước thường sẽ bị trả giá nặng nề. Trong trình thuật
hôm nay, thầy cả Eli truyền kinh nghiệm của mình cho Samuel để cậu có
thể lắng nghe tiếng của Ngài: "Con về ngủ đi, và hễ có
ai gọi con thì con thưa: "Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài
đang lắng nghe."
Sau khi nhận được
cách thức đáp lại tiếng Thiên Chúa của Thầy, Samuel về ngủ ở chỗ của
mình. Đức Chúa đến, đứng đó và gọi như những lần trước: "Samuel!
Samuel!" Samuel thưa: "Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng
nghe."
Kể từ đó,
Thiên Chúa thường xuyên nói chuyện với Samuel. Đức Chúa ở với ông và
ông không để cho một lời nào của Ngài ra vô hiệu. Toàn thể Israel, từ Dan
tới Beer-Sheba, đều biết rằng ông Samuel được Đức Chúa tín nhiệm cho làm ngôn sứ của
Người.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu đồng cảm với con người. Ngài chữa
lành mọi bệnh hoạn, tật nguyền.
2.1/ Chúa Giêsu chữa
bệnh cho bà nhạc của Phêrô: “Vừa
ra khỏi hội đường Capernaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simon và Anrê. Có ông
Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simon đang
lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của
bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các
ngài.”
Trong hành
trình của Chúa trên dương gian, Ngài luôn đồng cảm với con người, nhất là những
bệnh nhân và những người lâm cảnh khốn khó. Ngài luôn chữa lành khi họ kêu
xin; và nhiều khi họ chưa kêu xin nữa.
2.2/ Chúa Giêsu chữa
bệnh cho rất nhiều người trong thành: “Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau
và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa.
Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều
quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.” Sở dĩ họ phải
chờ chiều đến, là Luật Do-Thái không cho chữa bệnh trong ngày Sabbath.
2.3/ Chúa Giêsu cầu
nguyện với Thiên Chúa: “Sáng
sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó.”
(1) Sự cần
thiết của đời sống cầu nguyện: Khi Ngài còn đang cầu nguyện, ông Simon và các bạn
kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: "Mọi người đang tìm Thầy đấy!"
Cả một ngày vất vả dạy dỗ và chữa bệnh, Chúa Giêsu vẫn tìm được
thời gian để cầu nguyện với Thiên Chúa. Ngài muốn dạy các môn đệ: cần phải
thăng bằng giữa đời sống kết hợp với Thiên Chúa để
nuôi dưỡng các
họat động tông-đồ.
(2) Nước Chúa cần
được mở rộng khắp nơi: Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác,
đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì
Thầy ra đi cốt để làm việc đó." Rồi Người đi khắp miền Galilee, rao
giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Người tông-đồ của
Chúa Giêsu phải biết cảm thương với số phận của con người: ngây thơ, yếu
đuối, bệnh tật, đau khổ, và tội lỗi, trước khi có thể giúp đỡ đem họ về cho
Chúa.
- Chúng ta cần
phải giữ thăng bằng cho đời sống: có thời giờ cho các họat động tông
đồ và có thời giờ để cầu nguyện kết hợp với Thiên Chúa.
- Để có thể lắng
nghe tiếng Thiên Chúa, chúng ta cần tìm nơi yên tĩnh để cầu nguyện và
tránh xa mọi chia trí của cuộc sống.
- Chúng ta cần
trưởng thành trong đời sống để tự giúp mình, và để lãnh trách
nhiệm trong việc mở mang Nước Chúa, chứkhông được hoàn toàn sống ỷ lại
vào người khác.
Linh mục
Anthony Đinh Minh Tiên, OP
13/01/16 THỨ TƯ TUẦN 1 TN
Th. Hi-la-ri-ô, giám mục, tiến sĩ HT
Mc 1,29-39
Th. Hi-la-ri-ô, giám mục, tiến sĩ HT
Mc 1,29-39
Suy niệm: Cuộc hội thảo của Hiệp Hội Các Y Bác sĩ Công
Giáo tại Mi-lan, I-ta-li-a, ngày 18/11/2006 đúc kết: “Cầu
nguyện là một phương thuốc thần diệu cho tâm linh và thể xác của con người”.
Trong bài phát biểu bế mạc cuộc hội thảo, các y bác sĩ Công Giáo đã được xác
định “là những người nhiệt tình phục
vụ, và đã biết nhìn sâu vào nhu cầu cần thiết của sức khoẻ tâm linh cũng như
toàn thể sinh hoạt của con người để tìm ra phương dược hữu hiệu nhất giúp trị
liệu các bệnh nhân.” Họ
nhìn lên Đức Ki-tô như mẫu mực của vị bác sĩ siêu phàm, luôn tìm thánh ý Thiên
Chúa trong việc cứu chữa các bệnh nhân, cũng như biết lấy sự cầu nguyện làm
khởi điểm và động lực cho mọi hoạt động.
Mời Bạn: Bạn
có phải là người để cho đủ thứ sự việc trong ngày chiếm đoạt, đến nỗi không có
lấy một chút thời gian định tâm cầu nguyện?
Chia sẻ: Mẹ
Têrêsa Calcutta đã nói: “Cầu
nguyện là việc tiếp xúc với Thiên Chúa. Hãy bắt đầu và kết thúc mỗi ngày bằng
cầu nguyện. Hãy đến với Chúa như đứa con đến với cha mình.” Bạn có thể sắp xếp công việc của bạn để thực
hành như Mẹ đề nghị không?
Sống Lời Chúa: Dành
thời gian mỗi ngày để đọc lời Chúa, cầu nguyện nhờ đó bạn nhìn lại các việc bổn
phận của mình, và chu toàn cách tốt đẹp hơn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin dạy cho con nghệ thuật dùng những lúc nghỉ ngơi đôi
ba phút, trở lại tiếp xúc với lòng mình, lắng nghe tiếng Chúa và từ đó rút ra
nguồn sáng mới, sức mạnh mới và lòng dũng cảm mới. Amen.
Bà
phục vụ các ngài
Xin cho mọi người biết nhìn nhận vai trò quý báu
của người vợ, người mẹ trong nhà, và vai trò của người phụ nữ trong giáo xứ
cũng như ngoài xã hội.
Suy
niệm:
Sau
khi chữa người bị quỷ ám tại hội đường Caphácnaum,
Đức
Giêsu trở về một căn nhà của một gia đình quen biết,
gia
đình của hai anh Simon và Anrê, những người mới bỏ nhà để theo ngài.
Không
may bà mẹ vợ của Simon lại đang lên cơn sốt.
Đức
Giêsu đã lại gần giường bà nằm, cầm lấy tay bà và nâng bà dậy.
Lập
tức cơn sốt lui khỏi bà và bà phục vụ các ngài.
Đây
là phép lạ chữa bệnh đầu tiên của Đức Giêsu
cho
một phụ nữ, tại một ngôi nhà.
Sốt
chẳng phải là một bệnh quá nặng và nguy hiểm,
nhưng
cũng đủ để làm người bệnh không hoạt động được,
gây
cản trở những sinh hoạt bình thường trong gia đình.
Đức
Giêsu đến đem lại sự chữa lành, niềm vui và sức sống.
Khi
người phụ nữ được khỏi bệnh, mọi sự như sống lại.
Bếp
lại có lửa, bàn lại có thức ăn, và người ta ngồi quanh cười nói rôm rả.
Hạnh
phúc gia đình có khi chỉ tùy thuộc vào những điều be bé.
Hạnh
phúc bị sứt mẻ lắm khi chỉ vì những chuyện không đâu.
Hãy
nhìn cách Đức Giêsu chữa bệnh cho người phụ nữ này.
Thật
gần gũi và thân tình, ngài chẳng nói lời nào để đuổi cơn sốt.
Khi
nắm tay người bệnh nặng, ngài chấp nhận nguy cơ bị nhiễm nhơ uế.
Nhưng
Đức Giêsu chẳng hề bị nhiễm gì, trái lại ngài đem đến bình an.
Ngài
đã nâng bà dậy (êgeiren), có nghĩa là ngài làm bà phục sinh.
Sau
khi được phục sinh thì bà đi phục vụ các vị khách.
Phục
vụ hiểu theo nghĩa đơn sơ nhất là đi chuẩn bị bữa ăn.
Các
thiên thần cũng đã phục vụ Đức Giê su
sau
khi ngài thắng các cơn cám dỗ (Mc 1, 13).
Tuy
nhiên có thể hiểu phục vụ theo nghĩa rộng hơn nhiều.
Sau
khi Đức Giêsu chết trên thập giá, chỉ còn các phụ nữ ở lại đến cùng.
“Họ
đã đi theo ngài và phục vụ ngài từ hồi ngài còn ở Galilê
và
họ đã cùng ngài lên Giêrusalem” (Mc 15, 40-41).
Như
vậy không phải chỉ các ông môn đệ mới là người phục vụ (Mc 10,
43).
Các
bà cũng đã trung tín phục vụ đến cùng,
phục
vụ như Thầy Giêsu, Đấng đã đến để phục vụ” (Mc 10, 45).
Xin
cho mọi người biết nhìn nhận
vai
trò quý báu của người vợ, người mẹ trong nhà,
và
vai trò của người phụ nữ trong giáo xứ cũng như ngoài xã hội.
Cầu
nguyện:
Giữa
một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin
dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa
một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin
dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa
một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin
dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa
một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin
dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy
Chúa Ba Ngôi,
Ngài
là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
13 THÁNG
GIÊNG
Những Sứ Giả
Đầu Tiên Của Đức Tin
Gia đình Kitôhữu
không duy chỉ là một cộng đồng nhân loại. Món quà vô giá là sự sống con người cần
phải được tháp nhập vào chính sự sống của Đức Kitô và nhờ đó trở nên phong phú.
Sứ mạng chân chính của gia đình là bảo vệ các giá trị nhân bản, nhưng đồng thời
gia đình cũng phải dồn tâm lực đào sâu các giá trị Kitô giáo.
Nhiều người có
thể bị cám dỗ để nghĩ rằng chỉ các linh mục và tu sĩ mới được ủy trao trách nhiệm
đối với Giáo Hội. Thật là một quan niệm sai lầm. Rõ ràng chính gia đình là môi
trường đầu tiên để các trẻ em học biết thế nào là “thông dự vào lời hứa của Đức
Giêsu Kitô qua Tin Mừng” (Ep 3, 6). Như Công Đồng Vatican II nêu rõ: “Các đôi vợ
chồng Kitô giáo là những người cộng tác với ơn thánh và là nhân chứng đức tin đối
với nhau, cũng như đối với con cái và những phần tử khác trong gia đình của họ.
Chính họ là những người đầu tiên phải rao truyền và giáo dục đức tin cho con
cái mình. Bằng lời nói và gương sáng họ huấn luyện con cái sống đời Kitô giáo
và làm việc tông đồ. Họ thận trọng giúp đỡ con cái trong việc lựa chon ơn kêu gọi,
và nếu thấy chúng có ơn kêu gọi sống đời linh mục hay đời sống thánh hiến, họ tận
tình nuôi dưỡng ơn gọi ấy.” (SL Tông Đồ Giáo Dân 11)
Gia đình Kitôhữu
là mảnh đất đầu tiên để các ơn gọi nẩy mầm và phát triển. Đó là một chủng viện
hay một tập viện cho trẻ em. Chúng ta hãy dứt bỏ quan niệm sai lầm rằng Kitô
giáo chỉ là một cái gì đóng khung bên trong cánh cổng nhà thờ. Bất cứ gì diễn
ra trong phụng vụ cần phải được chuyển hóa vào đời sống hằng ngày. Gia đình phải
là nơi sống phụng vụ. Để rồi, sự sống trong Đức Kitô sẽ lớn lên và trưởng thành
dưới mái nhà của mỗi gia đình. Khi ấy, gia đình mới đích thực là một diễn tả
chính Giáo Hội.
- suy tư 366
ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công
Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT UP YOUR
HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 13/01
1Sm 3,
1-10.19-20; Mc 1, 29-39.
Lời Suy
Niệm: “Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-mon đang lên cơn sốt,
nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. Người lại gần,
cầm tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài”.
Ở đâu có sự hiện
diện của Chúa Giêsu, ở đó có ơn ban của Người, và được chữa lành. Trong câu
chuyện Chúa Giêsu chữa lành cơn sốt của bà mẹ vợ ông Si-mon, cho chúng ta thấy
được, có sự quan tâm của những người chung quanh đến căn bệnh của bà mẹ vợ ông
Simon, kế đến là họ đã giới thiệu bệnh nhân với Chúa Giêsu. Trong tâm tình quan
tâm yêu thương lien đới đó. Chúa đã chữa lành cho bà; khi bà đã được chữa lành
bà đã phục vụ các ngài. Điều này giúp cho mỗi người trong chúng ta cần phải biết
quan tâm đến nhau, đặc biệt trong những hoàn cảnh khó khăn, nguy khốn, biết cầu
nguyện cho nhau với niềm tin, với tình thương, ơn lành sẽ đến trên người anh
em; đối với bản thân khi dược ơn lành là để phục vụ.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa luôn muốn chúng con biết quan tâm đến đời sống của nhau trong cầu nguyện.
Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn câu nguyện cho nhau, cho cả
những người chung quanh chúng con, để tất cả chúng con được Chúa chữa lành, mà
phục vụ nhau vì Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 13-01:
Thánh HILARIÔ
Giám Mục Tiến
Sĩ (khoảng 320-368)
Thánh Hilariô
chào đời tại Poa-tu (Poitou) Ngài là con một nhà quí tộc làm nghị viên và được
giáo dục đầy đủ. Các môn học mà thánh nhân ưa thích là văn chương, thi ca, nhất
là triết lý. Việc học tập của Ngài luôn được đào sâu cho tới cùng là Thiên
Chúa, Ngài nhận định rằng: hạnh phúc thật của con người không phải bị những thú
vui đời này, dù chúng thanh cao đến mấy đi nữa. Trái lại hạnh phúc là được sống
cho chân lý ở một cuộc sống khác với cuộc sống tạm trên trần gian này. Ngài
nói: - "Tôi khóc lên vì vui sướng mỗi khi nghĩ đến thân xác này chỉ được
tiền định để phải chết đi".
Nhưng làm thế
nào mà thánh nhân đã gặp được chân lý, gặp được Thiên Chúa mà các triết gia và
các tôn giáo thường nói tới một cách mù mờ ? Chính thánh nhân kể lại cuộc khám
phá của mình: - "Từ môi trường ngoại giáo, Chúa đã dẫn đưa tôi tới nguồn
sáng chân thực. Giữa bao nhiêu hệ thống triết lý và tư tưởng khác nhau, tôi vẫn
ưu tư tìm đến Chúa bằng con đường ngay thật, chắc chắn hữu thể thần linh vĩnh cửu
phải là đơn thuần và độc nhất, không có gì là không bắt nguồn tự Ngài, vạn vật
đều phải thờ phượng Ngài".
Xác tín rằng phải
có Chúa, Ngài còn suy nghĩ về các phẩm tính thần linh của Chúa.
- "Nếu một
công rình vượt quá trí khôn chúng ta, thì nhà nghệ sĩ thần linh còn trổi vượt
công trình đó thế nào ? Vậy phải nhận biết rằng, Thiên Chúa tuyệt mỹ và chúng
ta chỉ cảm nhận mà chúng ta không thể thấu hiểu nổi".
Trong khi còn
miên man suy nghĩ như vậy. Thánh nhân bỗng gặp được một cuốn kinh thánh. Ngài đọc
được đoạn văn trên Chúa hiện ra với Môsê và tự bày tỏ: "Ta là Đấng hiện hữu".
Ngài sung sướng
với khám phá này: - "Tôi vui thỏa với danh hiệu mà Thiên Chúa đã tỏ ra cho
Môsê. Thánh danh ấy vừa biểu lộ một quan niệm sâu xa về Thiên Chúa, lại vừa tầm
với trí óc con người.
Từ đó thánh
nhân say mê nghiên cứu thánh kinh, nhất là các sách tiên tri với những đoạn
loan báo về Đấng thiên sai. Trong các sách Tin Mừng, Ngài thích nhất tự ngôn của
Tin Mừng theo thánh Gioan. - "Trí tôi học biết và Thiên Chúa vượt quá điều
nó dám ước mong... lòng tôi run rẩy bồn chồn vì vui sướng trước giáo thuyết về
Thiên Chúa Ba Ngôi và trước lời mời gọi tái sinh nhờ đức tin".
Thế là thánh
nhân đã lãnh nhận phép rửa tội và cảm thấy hạnh phúc lạ lùng. Ngài đã lập gia
đình và có được một người con gái. Rồi đây Ngài sẽ đưa cả vợ con về với đức
tin. Khi Ngài muốn trở thành linh mục, vợ Ngài chỉ còn gặp lại Ngài tại bàn
thánh và coi Ngài như một người anh. Nhân đức và trí khôn ngoại hạng còn đưa
Ngài tới chức giám mục cai quản địa phận Pcachie (Poutiers) năm 350.
Lúc ấy lạc giáo
Ariô nổi lên như vũ bão trong Giáo hội. Vua Constantiô ủng hộ lạc giáo và tiếp
tay cho cuộc bách hại. Thánh Athanasiô bị bắt đi lưu đày. Thánh Hilariô đứng
lên lãnh đạo công cuộc bảo vệ đức tin chân chính. Ngài triệu tập một công đồng
để lên án hai giám mục theo lạc giáo. Cộng đồng còn cử Ngài đi thương thuyết với
nhà vua. Nhưng lòng can đảm của Ngài đã bị trừng phạt bằng cuộc lưu đày năm
356, chấp nhận gian khổ, Ngài tuyên bố:
- "Người
ta có thể bắt các giám mục lưu đày, nhưng có thể trục xuất chân lý được không
?"
Cuộc hành trình
tới Phrygia nằm ở cuối miền Tiểu Á thật dài và đầy gian khổ. Nhưng thánh nhân
đã không hề phàn nàn mà vẫn bình thản sống mật thiết kết hợp với Chúa. Đầy dũng
cảm, Ngài vẫn tiếp tục làm rung chuyển thế giới bằng công việc viết lách của
mình.
Ngài nói: -
"Dầu bị lưu đày, chúng tôi vẫn tiếp tục nói bằng sách vở, bởi vì người ta
không thể giam hãm lời Chúa".
Ngài đã viết 12
khảo luận bàn về Chúa Ba Ngôi, và đưa giáo thuyết chân chính của công giáo với
những tư tưởng kinh tế của Hylạp vào thổ ngữ. Ngài tiếp tục điều khiển giáo phận
bằng thư tín. Cũng vào thời này, thánh nhân diụ dàng hướng dẫn Ebra, người con
gái của mình tới đời sống thánh thện. Một bức thư Ngài viết trong buổi lưu đày
còn sót lại có khuyên nhủ nàng tận hiến cho Chúa như sau:
- "Con
thân yêu, con là đứa con duy nhất của cha, cha muốn thấy con đẹp nhất và đẹp nhất
trong các phụ nữ. Người ta nói với cha về một thanh niên có một viên ngọc quí
và một bộ áo quí giá đến nỗi ai mà có được những thứ đó thì sẽ là người giàu có
hơn hết mọi người".
Và thánh nhân kể
lại rằng: phải khó khăn lâu ngày, Ngài mới gặp được người thanh niên này để xin
Người ban viên ngọc và chiếc áo ấy cho Ebra. Bên chiếc áo này, tuyết hết trắng,
không có một vết niơ nào có thể bôi bẩn, không một tai nạn nào có thể xé rách.
Còn viên ngọc, không vật nào chịu nổi vể rực rỡ huy hoàng, chẳng bao giờ tàn sắc,
ai mang được sẽ hết khổ và không phải chết.
Và Ngài tiếp: -
"Đấy là những món trang sức mà cha ước ao, những thứ ban ơn cứu rỗi và hạnh
phúc vĩnh cửu".
Ngài còn gửi
cho cô những khúc thánh thi để cô ca nguyện sớm chiều. Ebra sớm theo ước nguyện
của người cha nhưng cũng sớm lìa trần.
Bốn năm trôi
qua, Hoàng đế cho triệu tập công đồng Sêlêucia. May mắn Ngài cũng được mời dự.
Tại đây Ngài đã dùng hết tài hùng biện và trí thông minh để chống lạc giáo, bảo
vệ đức tin chân chính. Không chịu nổi ảnh hưởng của Ngài. Bọn theo lạc giáo đã
can thiệp để Ngài về quê hương cho rảnh rợ. Thế là năm 360, Đức Giám mục
Hilariô được trở về Poa-chi-ê.
Cuộc hồi hương
của thánh nhân là niềm vui cho toàn dân chứ không riêng gì cho giáo phận
Poa-chi-ê. Thánh Hiêrônumô đã nói: "Toàn dân Gôn (Gaules) ôm hôn vị anh
hùng tay mang ngành vạn tuế trở về".
Trong đoàn người
đông đảo đón mừng người cha già, phải kể đến một người lính trẻ tên là Martinô.
Lúc ấy Martinô đang sống ẩn dật ở Ganlinaria và sau này sẽ làm thánh giám mục.
Ngày về của vị giám mục già cả còn được ghi dấu bằng một phép lạ nhãn tiền. Một
bà mẹ khóc lóc ôm một đứa con mới chết gặp Ngài. Bà tha thiết xin thánh nhân cứu
sống con mình, ít ra để nó được rửa tội. Cảm tưởng nỗi niềm đau đớn của người
thiếu phụ, Ngài quì gối cầu nguyện và da thịt đứa trẻ dần dần đỏ hồng rồi sống
lại.
Tuổi già sức yếu
nhưng thánh nhân vẫn nhiệt thành chỉnh đốn lại những tàn phá do bè rối gây nên.
Lòng nhiệt thành đã đưa Ngài tới tận Milan khiến bọn lạc giáo kinh hoàng và làm
áp lực bắt Ngài phải trở lại Poa-chi-ê. Ngày 13 tháng giêng năm 386 Ngài đã qua
đời. Người ta kể lại rằng: lúc thánh nhân tử trần, một luồng chói chang khắp
phòng.
Ngày 10 tháng
giêng năm 1852, theo lời thỉnh cầu của nhiều vị giám mục. Đức giáo hoàng phong
Ngài lên bậc Tiến sĩ Hội Thánh. Ngài là vị thánh tiến sĩ đầu tiên ở Gôn.
(daminhvn.net)
13 tháng
Giêng
Tiếng Chó Sủa
Những người
có chức vụ và quyền hành trong bất cứ xã hội nào cũng thường bị chỉ trích và chống
đối.
Có một nhà
lãnh đạo quốc gia kia thường bị những người đối lập tấn công và thóa mạ một
cách bất công, nhưng lúc nào ông ta cũng tỏ ra bình thản như không có gì xảy
ra. Một hôm, có người bạn hỏi lý do tại sao ông có thể tỏ ra bình tĩnh được trước
không biết bao nhiêu khiêu khích của người khác, ông đã giải thích như sau:
"Tôi đã
học được bí quyết giữ bình tĩnh ngay từ lúc nhỏ. Chúng tôi sống bên cạnh một
nhà láng giềng có nuôi một con chó khó tính. Cứ mỗi lần trăng tròn, con chó lại
sủa một cách giận dữ vô căn cứ, có khi cơn sủa của nó kéo dài đến cả tiếng đồng
hồ. Tất cả những người xung quanh đều tỏ ra bực bội đối với con vật khó tính ấy,
chỉ trừ có người chủ của nó. Oâng không bao giờ tỏ ra bực bội, bởi vì ông ta là
một người điếc.
Tất cả bí
quyết của tôi nằm ở đó. Trăng sáng, con chó sủa. Một lúc sau, nó lại mỏi mệt và
thôi sủa mặc dù trăng vẫn cứ sáng".
Kiên nhẫn chịu
đựng thường bị xem như một thể hiện của tính thụ động, tiêu cực. Có người còn gọi
đó là nhân đức của người nghèo. Thế nhưng, trong cuộc sống, nhất là trong hoàn
cảnh hiện tại, có lẽ chúng ta cần đến nhân đức này hơn bao giờ hết.
Thiên Chúa là đấng
kiên nhẫn. Kiên nhẫn vẫn là nét đặc thù trong công trình sáng tạo của Ngài.
Chúng ta có biết rằng trái đất của chúng ta có bao nhiêu tuổi chưa? Các nhà địa
chất nói với chúng ta rằng trái đất đã được cấu tạo qua từng thời kỳ kéo dài đến
cả triệu triệu năm. Ðịa chất học quả thực là môn học của sự kiên nhẫn của Thượng
Ðế. Thiên Chúa luôn tỏ ra kiên nhẫn đối với con người. Toàn bộ Cựu Ước là một
quyển ký lục về những nhẫn nhục chịu đựng của Thiên Chúa đối với sự yếu đuối,
khờ dại cũng như hung bạo của con người. Ngài phải chờ đợi đến cả trăm năm để
cho lụt Hồng Thủy trút xuống trên con người. Ngài chờ đợi đến cả mười năm mới
trừng phạt vua Saolô.
Tân Ước lại
càng cho chúng ta cảm nhận được bằng xương thịt. Tình yêu thương nhẫn nhục, chịu
đựng của Thiên Chúa. Chúng ta hãy chiêm ngắm sự nhẫn nhục của Chúa Giêsu đối với
các môn đệ, đối với kẻ thù của Ngài và nhất là đối với đám đông nghèo khổ, lạc
lõng. Nhưng nhất là những đau khổ, bách hại mà chính bản thân mình gánh chịu,
Chúa Giêsu chỉ biết giữ thinh lặng, thinh lặng không phải của căm hờn, oán
trách mà là của yêu mến, tha thứ cho đến cùng.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét