01/01/2017
Chúa Nhật
(Cuối Tuần Bát Nhật Lễ Chúa Giáng Sinh)
Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.
Lễ Trọng.
Ngày thế giới cầu cho hoà bình.
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa: Lễ Mẹ Thiên Chúa, năm A
CHÚA NHẬT LỄ MẸ THIÊN CHÚA
Ds
6,22-27 – Gl 4,4-7 – Lc 6,11-21
YÊU THƯƠNG, BÍ QUYẾT VƯỢT THẮNG MỌI SỰ DỮ
“Maria, Giuse
và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ” (Lc 2,16)
I. CÁC
BẢN VĂN LỜI CHÚA
1. Bài đọc I – Ds 6,22-27
Đây chính là công thức mà Đức Chúa, qua ông Môsê, truyền lệnh cho Aaron và con cháu ông phải sử dụng mỗi khi chúc lành cho dân Israel. Nội dung của những lời chúc lành đều quy về Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel, như nguồn mạch mọi sự thiện hảo và là Đấng ban phát mọi điều thiện hảo.
Có sáu lời chúc lành được đề cập tới trong công thức chúc lành:
- Xin Chúa chúc lành cho anh (em): việc được Chúa chúc lành đồng nghĩa với việc được Thiên Chúa ban cho:
sự thành công, sự thịnh vượng, đông con nhiều cháu, gia súc đầy đàn… ‘Nào lúa thơm rượu mới dầu tươi, nào bò bê cùng với chiên cừu. Lòng thoả thuê như vườn cây tưới nước…’ (Gr 31,12)
- Xin Chúa gìn giữ anh (em): Trong tâm thức của dân Israel, Thiên Chúa luôn là ‘núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con, là núi đá cho con
trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ.’ (Tv 18,3)
- Xin Chúa chiếu giãi nhan thánh Chúa trên anh (em): Trong cái nhìn của đức tin của Do thái giáo, việc được Chúa chiếu giãi nhan thánh chính là nền tảng dẫn tới việc được cứu độ như lời thánh vịnh 79,4: ‘Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời để chúng con được ơn cứu độ.’
- Xin Chúa rủ lòng thương anh (em): động từ ‘Hanal - חָנַן’ dùng trong lời chúc lành này rất thường được dùng để diễn tả tâm tình của một tội nhân kêu xin sự thứ tha tội lỗi của Thiên Chúa, ngay cả khi mình không xứng đáng để được tha thứ như tâm tình được diễn rả trong thánh vịnh 4,2: ‘Xin hãy thương xót tôi, và nghe lời cầu nguyện tôi.’
- Xin Chúa ghé mắt nhìn anh
(em): Lời ước mong này diễn tả nỗi khát khao được Đức Chúa luôn quan tâm để ý tới, luôn chăm sóc giữ gìn như lời thánh vịnh 91,2-4: ‘Chính Chúa gìn giữ bạn khỏi lưới kẻ thù giăng, khỏi tai ương tàn khốc. Chúa phù trì che chở, dưới cánh Người, bạn có chỗ ẩn thân: lòng Chúa tín trung là khiên che thuẫn đỡ.’
- Xin Chúa ban bình an
(Shalom - שָׁלוֹם) cho anh (em): thuật ngữ Shalom
trong tiếng Hypri bao
gồm cả hạnh phúc, sức khỏe, tình bạn, và mọi điều thiện hảo.
2. Bài đọc II – Gl 4,4-7
Bài đọc II được đặt trong bối cảnh của thời cánh chung khi thời gian đã đạt tới mức viên mãn, Thiên Chúa thực hiện công trình cứu chuộc loài người khi cho Ngôi Lời, Con của Ngài, mặc lấy xác phàm và được sinh ra bởi một người phụ nữ, Đức Maria. Công trình ấy đã dẫn đến hai hệ quả chính yếu: 1/ Hệ quả tiêu cực: giải thoát con người khỏi Lề Luật và những hậu quả do Lề Luật gây ra; 2/ Hệ quả tích cực: cho con người được trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa, được đồng thừa tự với Đức Kitô, trong tư cách là Con Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con Ngài vào lòng chúng ta, Đấng kêu lên: Abba,
Cha ơi.
3. Bài Phúc
Âm - Lc 6,11-21
Ba khuôn mặt chính được đề cập tới trong bài Phúc Âm:
- Các mục đồng ngay
sau khi nghe tin báo của thiên sứ về việc Đấng Cứu Thế giáng sinh, họ vội vã đi tới Belem. Họ đã thấy… họ đã hiểu ngay… họ trở về… họ tôn vinh chúc tụng Thiên Chúa.
- Đức Maria, cùng với Thánh Giuse, đang hiện diện sống động bên Hài Nhi Giêsu mới sinh. Mẹ ghi nhớ tất cả và suy đi nghĩ lại trong lòng.
- Con Trẻ mới sinh: sống dưới chế độ Lề Luật khi được cắt bì sau tám ngày sau khi sinh ra, rồi được đặt tên là Giêsu đúng như kế hoạch của Thiên Chúa.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. ‘Xin Chúa chúc lành và ban bình an cho anh em.’ Lời chúc lành của vị tư tế trong phụng vụ Do thái giáo cũng là lời chúc lành mà Giáo hội hằng nguyện cầu cho mỗi Kitô hữu trong cuộc sống hằng ngày, nhất là trong dịp đầu Năm Mới. Mỗi Kitô hữu cũng được mời gọi để cụ thể hóa hành vị chúc lành và ban bình an của Chúa qua mỗi suy nghĩ, lời nói và cử chỉ của mình trong mọi mối tương quan.
2. ‘Thiên
Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ.’ Để thực hiện công trình cứu chuộc loài người, Thiên Chúa đã cần đến một sự cộng tác của một con người, Đức Maria. Sự cộng tác này tuy nhỏ bé nhưng xuất phát từ một quyết định hoàn toàn tự do, rồi đã được Đức Maria thực hiện một cách trọn vẹn và triệt để nhất. Hôm nay Thiên Chúa cũng cần đến một sự cộng tác của mỗi Kitô hữu để thực hiện công trình cứu độ con người. Sự tự do cộng tác, kèm theo một hành vi thực hiện thật nghiêm túc, triệt để và trọn vẹn vẫn còn đó như một sự đợi chờ của Thiên Chúa nơi mỗi chúng ta.
3. ‘Trong gia đình chúng ta, chúng ta đâu cần đến bom đạn và súng ống để hủy diệt hầu có được sự bình an đâu – mà chỉ cần hợp nhau lại, yêu thương nhau… Và chúng ta sẽ có thể vượt thắng tất cả mọi sự dữ trên đời.’ Khi
trích lại tâm tình của Mẹ Têrêsa
Calcutta trong số 4 của sứ điệp ngày hòa bình thế giới thứ 50 (01-01-2017), Đức Phanxicô chỉ ra cho chúng ta thấy rõ bí quyết dẫn đến sự bình an là hợp nhau lại và yêu thương nhau. Tôi có đang dùng sự hòa hợp và yêu thương để xây dựng sự bình an không?
4. ‘Gia đình
là nơi những sự cọ xát và thậm chí những xung đột phải được giải quyết không phải bằng vũ lực, nhưng bằng sự đối thoại, sự tôn trọng và sự quan tâm đến lợi ích của người khác, lòng thương xót và sự tha thứ.’ (Số 5, sứ điệp ngày hòa bình thế giới thứ 50 – 01.01.2017). Để giải quyết xung đột trong cuộc sống gia đình, tôi và mọi thành viên trong
gia đình tôi có đang áp dụng những nguyên tắc mà Đức Phanxicô đề nghị là: đối thoại, tôn trọng, quan tâm, thương xót, tha thứ?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa đã muốn Con Một của Người mặc lấy xác phàm trong lòng Đức Trinh Nữ Maria để thực hiện chương trình cứu độ. Nhờ lời Đức Mẹ chuyển cầu, cộng đoàn chúng ta cùng dâng lên Chúa tâm tình của ngày đầu năm Dương Lịch, và xin ơn bình an cho
các gia đình cùng cho cả thế giới.
1. Thánh Phaolô nhắc nhở: “Anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các thành phần trong Hội Thánh biết theo gương Đức Maria, không ngừng tri ân cảm tạ Chúa, và luôn vâng theo ý
Người với tâm tình của người con thảo.
2. “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho
anh em.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các dân tộc trên thế giới luôn biết quý chuộng và nỗ lực bảo vệ hòa bình, để xứng đáng được hưởng bình an đích thực mà Con Một Chúa đem đến cho nhân loại.
3. “Bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi Kitô hữu, cách riêng các bạn trẻ, luôn siêng năng đọc và suy niệm Kinh thánh, để Lời Chúa nên kim chỉ nam cho mọi hoạt động trong
cuộc sống của họ.
4. “Các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta, khi cảm nhận được tình yêu và ân huệ Chúa ban, cũng biết cao rao ngợi khen Người bằng một đời sống dấn thân phục vụ.
Chủ tế: Lạy Chúa là Cha rất nhân từ, nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, xin nhậm lời chúng con cầu nguyện, mà ban cho
chúng con một năm mới bình an và luôn biết sống đẹp lòng Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng
con.
Lectio Divina: Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa, Lễ Trọng
Chúa Nhật, 1 Tháng 1,
2017
Tuần Bát Nhật Giáng
Sinh
Các mục đồng đến
viếng thăm Chúa Hài Đồng Giêsu và Mẹ Người
Kẻ sống bên lề
xã hội là người được Thiên Chúa ưu ái
Lc 2:16-21
1. Lời
nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin
hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà
Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau. Trong ánh sáng của Lời
Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự
hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của
mình. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng,
đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong
chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng
và trong Kinh Thánh, trong các sự việc của đời sống hằng ngày và trong những
người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin Lời
Chúa hướng dẫn chúng con, để cũng giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng
sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho người khác rằng
Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý
và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng
đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng
con. Amen.
2. Bài
Đọc
a) Chìa
khóa dẫn đến bài đọc:
Lý do đã khiến cho
thánh Giuse và Đức Maria phải đi đến Bêlem là lệnh kiểm tra dân số ban ra bởi
hoàng đế La Mã (Lc 2:1-7). Theo định kỳ, nhà cầm quyền La Mã ra lệnh
làm tổng kiểm tra dân số trong các khu vực khác nhau trong đế chế rộng lớn của
họ. Họ phân loại dân cư và để biết bao nhiêu người sẽ phải nộp thuế. Nhà
giàu thì phải nộp thuế về đất đai và tài sản họ sở hữu. Người nghèo
thì phải trả thuế cho số con cái mà họ có. Đôi khi tiền thuế phải
đóng đã vượt quá 50% tổng số lợi tức của một người.
Trong Tin Mừng Luca,
chúng ta thấy có một sự khác biệt đáng kể giữa sự ra đời của Đức Giêsu và của
ông Gioan Tẩy Giả. Ông Gioan được sinh ra ở quê nhà trên mảnh đất của
ông, ở giữa cha mẹ và làng xóm, và được mọi người đón chào (Lc 1:57-58). Khi
Chúa Giêsu được sinh ra thì không ai biết đến, cách xa khỏi thân thích và xóm
làng, và xa khỏi quê hương của Người. “Không còn chỗ trong quán trọ”. Chúa
Hài Đồng đã được đặt nằm trong máng cỏ (Lc 2:7).
Chúng ta hãy hình dung
và nhận xét đoạn Tin Mừng (Lc 2:16-21) trong bối cảnh rộng lớn hơn về việc thăm
viếng của các mục đồng (Lc 2:8-21). Trong khi đọc, chúng ta hãy cố gắng
chú ý đến điều sau đây: Những sự bất ngờ và tương phản ta thấy trong
văn bản này là gì?
b) Phân
đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Lc 2:8-9: Các
mục tử ở ngoài đồng, những người đầu tiên được mời đến
Lc 2:10-12: Lời
loan báo đầu tiên về Tin Mừng được mang đến cho các mục đồng
Lc 2:13-14: Lời
ca ngợi của các thiên thần
Lc 2:15-18: Các
mục đồng đi đến Bêlem và thuật lại việc thiên thần hiện ra với họ
Lc 2:19-20: Thái
độ của Đức Maria và của các mục đồng về những sự việc này
Lc 2:21: Việc
cắt bì của con trẻ Giêsu
c) Phúc
Âm:
Bấy giờ trong miền đó
có những người mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật
mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh sáng của
Thiên Chúa bao tỏa chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng
thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến
cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm
nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của
Đavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các
ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ.” Và
bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng
thanh hát khen Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời
và bình an dưới thế cho người thiện tâm.” Khi các thiên thần biến
đi, thì các mục tử nói với nhau rằng: “Chúng ta đi đến Bêlem và coi
xem sự việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết.” Rồi họ hối
hả tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi
thấy thế, họ đã hiểu ngay lời đã báo về Hài Nhi này. Và tất cả những
người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ. Còn
Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó, và suy niệm trong lòng. Những
mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy,
đúng như lời đã báo cho họ. Khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho
con trẻ, thì người ta gọi tên Người là Giêsu, tên mà thiên thần đã gọi trước
khi con trẻ được đầu thai trong lòng mẹ.
3. Giây
phút thinh lặng cầu nguyện:
Để Lời Chúa được thấm
nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một
vài câu hỏi gợi ý:
Để giúp chúng ta trong
việc suy gẫm cá nhân.
a) Bạn thích điều gì nhất trong đoạn Tin Mừng
này? Tại sao?
b) Bạn đã tìm thấy những ngạc nhiên và sự tương
phản gì trong đoạn Tin Mừng này?
c) Làm cách nào đoạn Tin Mừng cho chúng ta biết
rằng kẻ bé mọn và người nghèo khổ nhất trên trần thế lại là người cao trọng
trên thiên đàng?
d) Thái độ của Đức Maria và của các mục đồng về
mầu nhiệm Thiên Chúa vừa mới mặc khải cho họ là gì?
e) Tác giả Luca muốn nhắn nhủ gì với chúng ta
qua các chi tiết này?
5. Dành
cho những ai muốn đào sâu hơn vào trong chủ đề
a) Bối
cảnh của thời ấy và của ngày nay:
Đoạn Tin Mừng về ngày
lễ Mẹ Thiên Chúa (Lc 2:16-21) là một phần của câu chuyện về việc hạ sinh của
Chúa Giêsu (Lc 2:1-7) và các mục đồng đến thăm (Lc 2:8-21). Thiên thần
đã loan báo sự sinh ra của Đấng Cứu Độ và cho một dấu chỉ để nhận biết: “Các
ngươi sẽ thấy một Hài Nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ!” Họ
đang mong đợi Đấng Cứu Thế của toàn dân và họ đã nhận ra Người trong một hài
nhi mới sinh, nghèo khó, nằm giữa các thú vật! Thật là một bất ngờ lớn
lao!
Kế hoạch của Thiên
Chúa đã được thực hiện theo một phương cách không thể ngờ, đầy ngạc
nhiên. Điều này cũng còn xảy ra ngày nay. Một bé thơ
nghèo hèn là Đấng Cứu Thế của nhân loại! Có ai ngờ được không?
b) Lời
bình giải về đoạn Tin Mừng:
Lc 2:8-9: Những vị khách được mời đầu tiên
Mục đồng là những người
cùng đinh trong xã hội, không được coi trọng mấy. Họ sống cùng với
các thú vật, tách biệt với người thường. Bởi vì họ thường xuyên tiếp
xúc với thú vật, nên họ bị xem là kẻ ô uế. Không bao giờ có ai muốn
mời họ tới thăm một em bé sơ sinh. Thế nhưng chính các Thiên
Thần Chúa lại hiện ra với những mục đồng này để loan báo tin vui sự ra
đời của Chúa Giêsu. Trông thấy các thiên thần, họ thật sự sợ hãi.
Lc 2: 10-12: Lời
loan báo đầu tiên về Tin Mừng
Lời nói đầu tiên của
thiên thần là: Các ngươi đừng sợ! Thứ hai
là: Tin Vui cho cả toàn dân! Thứ ba là: Hôm
nay! Và rồi thiên thần mang đến ba danh hiệu để chỉ Chúa Giêsu
là ai: Đấng Cứu Thế, Đức Kitô và Chúa! Đấng Cứu
Thế là Đấng giải thoát mọi người khỏi tất cả những gì trói buộc họ! Các
vua chúa thời bấy giờ thích dùng danh hiệu Đấng Cứu Chuộc. Chính họ
đã tự phong cho mình tước hiệu đấng cứu rỗi. Đức Kitô có
nghĩa là Đấng Được Xức Dầu hay là Đấng Thiên Sai. Trong
Cựu Ước, đây là danh hiệu được trao cho vua chúa và các tiên tri. Đó
cũng là danh hiệu của Đấng Thiên Sai tương lai, Đấng sẽ thực hiện lời hứa của
Thiên Chúa với dân của Người. Điều này có nghĩa là Hài Nhi mới sinh,
đang nằm trong máng cỏ, đã đến để thực hiện niềm hy vọng của toàn dân. Chúa là
danh hiệu của chính Thiên Chúa! Ở đây chúng ta có ba danh hiệu có thể
xem là cao cả nhất. Từ lời loan báo về sự sinh ra của Đức Giêsu là Đấng
Cứu Thế, Chúa Kitô và là Chúa, có còn ai cao cả hơn thế nữa
không? Và thiên thần nói rằng: “Cẩn thận! Và
đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: các ngươi sẽ thấy một
Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ, trong số những người nghèo khó!” Bạn
có tin nổi không? Phương cách hành động của Thiên Chúa thì thật là
khác hẳn với chúng ta!
Lc 2:13-14: Lời
hát khen của các thiên thần về Tin Mừng: Vinh danh Thiên Chúa trên
các tầng trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương.
Một số đông thiên thần
xuất hiện và từ trời xuống. Đó có thể được giải thích là thiên đàng
đã hạ mình xuống dưới thế. Hai phần của câu Kinh Thánh này tóm tắt lại
chương trình của Thiên Chúa, kế hoạch của Người. Phần đầu cho biết
những gì xảy ra trên thiên đàng: Vinh danh Thiên Chúa trên trời
cao. Phần thứ hai cho biết việc gì sẽ xảy ra ở dưới đất: Bình
an dưới thế cho người Chúa thương. Nếu người ta có thể nghiệm ra
rằng được Chúa thương có ý nghĩa gì, thì tất cả mọi thứ sẽ đổi
thay và bình an sẽ hiện diện trên trái đất. Và điều
này sẽ cao quý hơn vinh quang Thiên Chúa, Đấng ngự trên trời cao!
Lc 2:15-18: Các mục đồng đi đến Bêlem và thuật lại việc
hiện ra của các thiên thần
Lời của Chúa không còn
là một âm thanh được phát ra từ môi miệng. Hơn hết cả nó là một sự
kiện! Các mục đồng nói như thế này: “Chúng ta hãy
sang Bêlem và coi xem sự việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết”. Theo
tiếng Do Thái, chữ DABAR có thể có hai nghĩa là lời và
sự việc, được tạo ra bằng lời. Lời của Thiên Chúa là quyền năng
tác tạo. Nó hoàn thành những gì đã phán ra. Vào lúc tác tạo
Thiên Chúa phán: “Hãy có ánh sáng, và liền có ánh sáng!” (St
1:3). Lời của thiên thần nói với các mục đồng là sự
kiện về việc sinh ra của Chúa Giêsu.
Lc 2:19-20: Thái độ của Đức Maria và của các mục đồng
về những sự việc này
Tác giả Luca lập tức
cho biết thêm rằng: “Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc
đó và suy niệm trong lòng”. Có hai cách để cảm nhận và đón tiếp
Lời Chúa: (i) Các mục đồng chỗi dậy để đi coi xem các sự việc và xác
nghiệm lại dấu chỉ được thiên thần cho biết, và sau đó, họ trở lại với đàn gia súc
của họ, tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem
thấy; (ii) Đức Maria, cách khác, lại cẩn thận ghi nhớ lại tất cả mọi điều này
và suy niệm trong lòng. Suy niệm về những việc trong tâm trí một người
có nghĩa là hồi tưởng lại chúng và làm sáng tỏ trong ánh sáng của Lời Chúa để
hiểu rõ hơn ý nghĩa đầy đủ của chúng cho đời sống.
Lc 2:21: Việc
cắt bì và đặt tên cho con trẻ Giêsu
Theo luật định, Hài
Nhi Giêsu được cắt bì sau khi sanh được tám ngày (xem St 17:12). Việc
cắt bì là một dấu hiệu để chỉ thuộc về dân của Chúa. Nó cho kẻ ấy một
căn tính. Nhân dịp này mỗi trẻ sơ sinh được đặt tên (xem Lc
1:59-63). Hài nhi được gọi là Giêsu, tên mà thiên thần đã gọi trước
khi con trẻ được thụ thai. Thiên thần đã nói với Giuse rằng phải đặt
tên con trẻ là Giêsu vì “chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”
(Mt 1:21). Tên gọi Giêsu thì giống như tên Giôsuê,
và có nghĩa là Thiên Chúa sẽ cứu. Một tên khác mà sẽ được
trao dần dần cho Chúa Giêsu là Đức Kitô, có nghĩa là Đấng
Được Xức Dầu hay là Đấng Thiên Sai. Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai
đang được mong chờ. Tên thứ ba là Emmanuel, có nghĩa là Thiên-Chúa-Ở-Cùng-Chúng-Ta (Mt
1:23). Tên gọi đầy đủ là Đức Giêsu Kitô Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta!
c) Lời
chú giải thêm:
Đức Maria trong
Tin Mừng theo Luca
i) Vai
trò của hai chương đầu tiên trong sách Tin Mừng Luca:
Hai chương này khá nổi
tiếng nhưng không được hiểu thấu đáo cho lắm. Tác giả Luca đã viết
chúng mô phỏng theo Cựu Ước. Giống như thể hai chương này là phần kết
của Cựu Ước để mở ra cho sự xuất hiện của Tân Ước. Trong những
chương này, Luca tạo ra một bầu không khí êm ái và tán dương. Từ đầu
chí cuối, lòng thương xót của Thiên Chúa được ca tụng, Thiên Chúa là Đấng cuối
cùng đã đến để thực thi lời hứa của Người. Luca cho chúng ta thấy
Chúa Giêsu đã hoàn tất phần Cựu Ước và khởi đầu phần Tân Ước như thế nào. Và
Chúa ưa chuộng các kẻ nghèo khó, kẻ bần cùng, những người biết cách chờ đợi cho
việc xuất hiện của Người: bà Êlisabéth, ông Giacaria, Đức Maria, thánh
Giuse, ông cụ Simêon, bà cụ Anna và các mục đồng. Đó là lý do tại
sao hai chương đầu tiên thuật lại lịch sử nhưng không phải trong ý nghĩa mà
ngày nay chúng ta gán cho lịch sử. Chúng gần như là sự phản chiếu mà
các chương ấy được viết cho những Kitô hữu xuất thân từ lương dân, có thể khám
phá ra được Đức Giêsu là ai và làm cách nào mà Người đã đến để thực thi lời các
tiên tri trong Cựu Ước, đáp ứng được những nguyện vọng sâu xa nhất của tâm hồn
con người. Những chương này cũng là một sự phản chiếu các sự việc đã
xảy ra trong các cộng đoàn vào thời thánh Luca. Các cộng đoàn bắt
nguồn từ dân ngoại sẽ được sinh ra bởi các cộng đoàn người Do Thái cải đạo. Tuy
nhiên đây là những khác biệt. Thời Tân Ước không tương ứng với những
gì Cựu Ước đã mường tượng và mong mỏi. Đó là “dấu hiệu của sự mâu
thuẫn” (Lc 2:34), đã gây ra các căng thẳng và là nguồn gốc của nhiều mối đau khổ. Trong
thái độ của Đức Maria, Luca trình bày một mô hình về cách mà các cộng đoàn có
thể phản ứng và kiên trì trong thời Tân Ước.
ii) Chìa
khóa dẫn đến bài đọc:
Trong hai chương này,
Luca trình bày Đức Maria như một gương mẫu cho đời sống cộng đoàn. Điều
quan trọng ban cho chúng ta trong cảnh mà nơi có người phụ nữ trong đám đông đã
ca ngợi thân mẫu Đức Giêsu. Chúa Giêsu cải sửa lời khen ngợi ấy và
nói rằng: “Phúc thay cho những kẻ biết lắng nghe và tuân giữ Lời
Chúa!” (Lc 11:27-28). Nơi đây hàm chứa sự cao trọng của Đức
Maria. Đó là sống trong thế gian mà Đức Maria biết cách liên kết với
Ngôi Lời Thiên Chúa cộng đoàn chiêm niệm một cách chính xác hơn trong sự liên kết
với Lời Chúa: tiếp nhận, thể hiện, sống, đào sâu, suy niệm, sinh sản
và làm tăng trưởng, để cho chính mình được Lời Chúa làm chủ cho dù có khi không
hiểu hoặc phải chịu đau khổ vì nó. Đây là viễn ảnh hàm chứa trong
văn bản của các chương 1 và 2 của sách Tin Mừng Luca, nói về Đức Maria, thân mẫu
Chúa Giêsu.
iii) Áp
dụng của chìa khóa vào văn bản:
1. Lc
1:26-38:
Truyền Tin: “Tôi xin vâng như lời thiên thần truyền!”
Mở lòng để Ngôi Lời Thiên
Chúa được tiếp nhận và nhập thể.
2. Lc
1:39-45:
Đi viếng bà
Êlisabéth: “Phúc cho bà là
kẻ đã tin!”
Nhận ra Lời Chúa trong
các sự việc của đời sống.
3. Lc
1:46-56:
Bài ca Ngợi Khen
(Magnificat): “Đấng Toàn
Năng đã làm cho tôi những sự trọng đại!”
Bài thánh ca hy vọng
mang tính chất phá vỡ và chịu đựng.
4. Lc
2:1-20:
Chúa Ra Đời: “Bà ghi nhớ tất cả những sự việc này và
suy niệm trong lòng.”
Không có chỗ cho họ. Những
kẻ bị xã hội khinh khi chào đón Ngôi Lời.
5. Lc
2:21-32:
Tiến Dâng Chúa
Giêsu cho Thiên Chúa: “Chính
mắt con đã được thấy ơn cứu độ!”
Những năm tháng của đời
sống làm thanh sạch con mắt.
6. Lc
2:33-38:
Ông Simêon và bà
Anna: “Một lưỡi gươm sẽ
đâm thấu tâm hồn bà”
Là một người Kitô hữu
có nghĩa là một dấu hiệu của sự mâu thuẫn.
7. Lc
2:39-52:
Vào năm Chúa mười
hai tuổi: “Cha mẹ không biết
là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”
Họ đã không hiểu Ngôi
Lời Thiên Chúa nói với họ!
iv) Những
tương phản nổi bật trong đoạn Tin Mừng của chúng ta:
1. Trong
bóng tối của đêm đen có ánh sáng tỏa chiếu (2:8-9).
2. Thiên
đàng trên trời dường như ôm lấy trần thế của chúng ta dưới đây (2:13).
3. Sự cao
trọng của Thiên Chúa được thể hiện nơi một hài nhi nhỏ bé mong manh (2:7)
4. Vinh
quang của Thiên Chúa được hiện diện trong máng cỏ, bên cạnh với súc vật (2:16).
5. Nỗi kinh
sợ tạo ra bởi sự hiện ra đột ngột của thiên thần và được biến đổi thành niềm
vui mừng (2:9-10).
6. Những kẻ
hoàn toàn bị khinh miệt là những người được mời đầu tiên (2:8).
7. Các mục
đồng nhận thức được Thiên Chúa hiện diện trong một hài nhi mới sinh (2:20).
6. Cầu
nguyện với Thánh Vịnh 23 (22)
“CHÚA là mục tử
chăn dắt tôi!”
CHÚA là mục tử chăn dắt
tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành
và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính
vì danh dự của Người.
Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u
con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành
và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính
vì danh dự của Người.
Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u
con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.
Chúa dọn sẵn cho con bữa
tiệc ngay trước mặt quân thù.
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,
ly rượu con đầy tràn chan chứa.
Lòng nhân hậu và tình thương Chúa
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên.
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,
ly rượu con đầy tràn chan chứa.
Lòng nhân hậu và tình thương Chúa
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên.
7. Lời
Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng
con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa
Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và
ban cho chúng con sức mạnh để thực hành Lời Chúa đã mặc khải cho chúng
con. Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria,
thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa. Chúa
là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa
Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét