Trang

Thứ Sáu, 23 tháng 12, 2016

24-12-2016 : LỄ GIÁNG SINH - LỄ VỌNG & LỄ NỬA ĐÊM

24/12/2016
Vọng Giáng Sinh


LỄ VỌNG GIÁNG SINH
(Lễ Nửa đêm xem ở phía dưới)


BÀI ĐỌC I:  Is 62, 1-5
"Ngươi đẹp lòng Chúa".

Trích sách Tiên tri Isaia.
Vì Sion, tôi sẽ không im tiếng, và vì Giêrusalem, tôi sẽ không nghỉ ngơi cho đến khi Đấng công chính xuất hiện như ánh sáng, Đấng Cứu độ Sion đến như ngọn đuốc sáng ngời.

Mọi dân tộc sẽ thấy Người là Đấng công chính của ngươi, và mọi đế vương sẽ thấy vinh hiển Người. Chính Chúa sẽ đặt cho ngươi một tên mới. Ngươi sẽ là triều thiên vinh hiển trong tay Chúa, và vương miện quyền bính trong tay Thiên Chúa ngươi. ngươi sẽ không còn gọi là kẻ bị ruồng bỏ, và đất ngươi sẽ không còn gọi là chốn hoang vu. Ngươi sẽ được gọi là "kẻ Ta ưa thích", và đất ngươi sẽ được gọi là đất có dân cư, vì ngươi đẹp lòng Thiên Chúa và đất ngươi sẽ có dân cư.

(Như) thanh niên sẽ ở cùng trinh nữ, con cái ngươi sẽ ở trong ngươi; (như) người chồng sẽ vui mừng vì vợ, Thiên Chúa ngươi cũng sẽ vui mừng vì ngươi.  Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA:  Tv 88, 4-5. 16-17. 27 và 29
Đáp:  Lạy Chúa, con sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (x. c. 2a).

1) Ta đã ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Đavít là tôi tớ của Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ".     - Đáp.      
2) Phúc thay dân tộc biết hân hoan, lạy Chúa, họ tiến thân trong ánh sáng nhan Ngài. Họ luôn luôn mừng rỡ vì danh Chúa, và tự hào vì đức công minh Ngài.     - Đáp.        
3)  Chính người sẽ thưa cùng Ta: "Chúa là Cha con, là Thiên Chúa và Đá Tảng cứu độ của con". Đời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. - Đáp.   


   
BÀI ĐỌC II:  Cv 13, 16-17. 22-25
"Thánh Phaolô làm chứng về Chúa Kitô, con vua Đavít".

Trích sách Tông đồ Công vụ.
Phaolô đến Antiôkia thuộc Pisiđia, vào hội đường, đứng lên, giơ tay ra hiệu cho mọi người yên lặng rồi nói: "Hỡi người Israel và những kẻ kính sợ Thiên Chúa, hãy nghe đây. Thiên Chúa Israel đã chọn Tổ phụ chúng ta, Người đã thăng tiến dân Người khi họ còn cư ngụ trong nước Ai-cập, và Người ra tay mạnh mẽ đưa cha ông chúng ta ra khỏi nước ấy.

"Sau khi loại bỏ Saolê, Chúa đã đặt Đavít lên làm vua dân Người, để chứng nhận điều đó, chính Người đã phán: 'Ta đã gặp được Đavít, con của Giêsê, người vừa ý Ta, người sẽ thi hành mọi ý muốn của Ta'.

"Bởi dòng dõi Đavít, theo lời hứa, Thiên Chúa ban cho Israel Đức Giêsu làm Đấng Cứu Độ, Đấng mà Gioan đã báo trước, khi ông đến rao giảng phép rửa thống hối cho toàn dân Israel. Khi Gioan hoàn tất hành trình, ông tuyên bố: 'Tôi không phải là người mà anh em lầm tưởng; nhưng đây, Người sẽ đến sau tôi mà tôi không đáng cởi dây giày dưới chân Người'". Đó là lời Chúa.

ALLELUIA:
Alleluia, alleluia! - Ngày mai tội lỗi trần gian sẽ được xoá bỏ, và Đấng Cứu Thế sẽ ngự trị trên chúng ta. - Alleluia.

PHÚC ÂM:  Mt 1, 1-25  (bài dài)
"Dòng dõi Chúa Giêsu Kitô, con vua Đavít".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Đavít, con của Abraham. Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara bởi bà Thamar; Phares sinh Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Đavít.

Đavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Robo-am; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manas-se; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon.

Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Salathiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Đức Kitô.

Vậy, từ Abraham đến Đavít có tất cả mười bốn đời, từ Đavít đến cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời, và từ cuộc lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời.

Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, bà đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo:

"Hỡi Giuse con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta".

Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền. Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau, cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.  Đó là lời Chúa.

Hoặc đọc bài ngắn này:  Mt 1, 18-25
"Maria sẽ hạ sinh một con trai mà ông đặt tên là Giêsu".

Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây:
Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau,  bà đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy,  thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo:

"Hỡi Giuse con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình: vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện  để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng:

"Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta".

Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền. Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau, cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.  Đó là lời Chúa.

________________________________

Lễ Nửa Đêm


BÀI ĐỌC I:  Is 9, 2-4. 6-7 (Hr 1-3. 5-6)
"Chúa ban Con của Người cho chúng ta".

Trích sách Tiên tri Isaia.
Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết. Chúa đã làm cho dân tộc nên vĩ đại, há chẳng làm vĩ đại niềm vui? Họ sẽ vui mừng trước nhan Chúa, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt lúa, như những người thắng trận hân hoan vì chiến lợi phẩm, khi đem của chiếm được về phân chia. Vì cái ách nặng nề trên người nó, cái gông nằm trên vai nó, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức. Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến thắng Mađian. ĐBởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc áo nhuộm thắm máu đào sẽ bị đốt đi và trở nên mồi nuôi lửa.

Bởi lẽ một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, và một người con đã được ban tặng chúng ta. Người đã gánh nhận vương quyền trên vai, và thiên hạ sẽ gọi tên Người là "Cố Vấn Kỳ Diệu, Thiên Chúa Huy Hoàng, Người Cha Muôn Thuở, Ông Vua Thái Bình". Người sẽ mở rộng vương quyền, và cảnh thái bình sẽ vô tận; Người sẽ ngự trên ngai vàng của Đavít, và trong vương quốc Người, để củng cố và tăng cường, trong sự công minh chính trực, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời. Lòng ghen yêu của Chúa thiên binh sẽ thực thi điều đó.  Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA:  Tv 95, 1-2a. 2b-3. 11-12. 13
Đáp:  Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta, Người là Đức Kitô, Chúa chúng ta (Lc 2, 11).

1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa đi, toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người.     - Đáp.       
2) Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc.     - Đáp.       
3) Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan. Biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên. Đồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui. Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở.     - Đáp.       
4)  Trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh và chư dân cách chân thành.     - Đáp.       

BÀI ĐỌC II:  Tt  2, 11-14
"Ân sủng của Chúa đã đến với mọi người".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Titô.
Ân sủng của Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta, đã xuất hiện cho mọi người, dạy chúng ta từ bỏ gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức ở đời này, khi trông đợi niềm hy vọng hạnh phúc và cuộc xuất hiện sự vinh quang của Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa cao cả và là Đấng Cứu Độ chúng ta. Người đã hiến thân cho chúng ta để cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều gian ác, luyện sạch chúng ta thành một dân tộc xứng đáng của Người, một dân tộc nhiệt tâm làm việc thiện.  Đó là lời Chúa.

ALLELUIA:  Lc 2, 10-11
Alleluia, alleluia! - Ta báo cho anh em một tin mừng: Hôm nay Đấng Cứu Thế, là Chúa Kitô, đã giáng sinh cho chúng ta. - Alleluia.

PHÚC ÂM:  Lc 2, 1-14
"Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Đavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Đavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai.

Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán.

Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: "Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Đavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ".

Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm". Đó là lời Chúa.



SUY NIỆM : Không nhà không cửa
Một hài nhi không nhà không cửa.
Hẳn rằng chúng ta còn nhớ, có lần Chúa Giêsu đã phán: Con cáo có hang, chim trời có tổ nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu. Lời nói này đã trở thành một sự thật ngay từ đêm hôm nay, khi Ngài mở mắt chào đời.
Thực vậy, Ngài đã sinh ra trong một hang đá ngoài đồng vắng, nơi nghỉ ngơi của chiên bò. Mẹ Ngài đã đặt Ngài nằm trong một chiếc máng có. Thế nhưng đó lại là một sự kiện kỳ diệu, làm chuyển biến cả số phận của nhân loại.
Theo lệnh của hoàng đế César, những người trở về Bêlem để đăng ký nhân hộ khẩu, đều tìm thấy một mái nhà để nghỉ qua đêm, hoặc là nơi hàng quán, hoặc là nơi bà con thân thích. Dường như chỉ có mình Ngài, một hài nhi không nhà không cửa, không cả chốn tựa đầu.
Theo lề thói thông thường, chúng ta có thể mường tượng Ngài sinh ra trong một toà lâu đài hay trong một cung điện kín cổng cao tường. Nhưng Ngài đã không làm thế, bởi vì Ngài là người của mọi người, Ngài đến để cứu chuộc cả nhân loại. Hang đá Bêlem không có cửa, và nếu có thì cánh cửa ấy vẫn luôn mở rộng, để tất cả chúng ta đến tìm gặp Ngài, mà không cần báo trước, không cần chờ đợi, không cần những thủ tục kính chuyển.
Hơn thế nữa, Ngài đã không sinh ra dưới một mái nhà kiên cố, điều ấy như muốn chứng tỏ rằng vương quốc của Ngài không thuộc trần gian này, cho nên Ngài không cần tới một tấc đất để làm sản nghiệp. Ngài không tranh giành ảnh hưởng, Ngài không gây chiến để mở mang bờ cõi. Nhưng Ngài đã để lại và trao ban cho chúng ta tất cả, cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, để chứng tỏ một tình yêu thương dạt đào: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Hài nhi nơi máng cỏ Bêlem, phải chăng là một hình ảnh, một biểu tượng của vị vua hoà bình. Ngài chỉ muốn giải thoát chúng ta khỏi mọi ách nô lệ, nhất là ách nô lệ của tội lỗi. Ngài chỉ ước mong cho chúng ta được nếm thử niềm vui, niềm vui của một tâm hồn trong sạch, hầu chuẩn bị cho hạnh phúc Nước Trời. Ngài không cần chúng ta dành cho Ngài một mái nhà, nhưng chính Ngài sẽ dành cho chúng ta một chỗ cư ngụ vĩnh viễn trong nhà Cha trên trời.
Là một vị Vua không binh đội, không cung điện, không ngai vàng. Là một vị Vua của mọi tâm hồn, vì thế có lẽ điều Ngài mong đợi hơn cả nơi mỗi người chúng ta, đó là hãy dành cho Ngài một nơi cư ngụ trong chính thẳm sâu cõi lòng chúng ta. Tâm hồn chúng ta phải là một hang đá máng cỏ sống động cho Chúa và tình yêu của chúng ta sẽ là những tia nắng sưởi ấm cho Chúa. Thế nhưng chúng ta đã ý thức và thực hiện được điều đó hay chưa?


Lời Chúa Mỗi Ngày
Ngày 24 tháng 12 GS, Lễ Nửa Đêm
Bài đọcIsa 9:1-3, 5-6; Tit 2:11-14; Lk 2:1-14.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin Mừng Giáng Sinh là tình yêu Thiên Chúa.
- Một cụ già 93 tuổi, được coi là khá thành công trong cuộc đời: có nhiều của cải, con đàn cháu đống gần 100 đứa. Về già, có nhiều thời gian nhìn lại và suy gẫm, cụ ngậm ngùi kết luận: Vất vả ngược xuôi cả cuộc đời cũng chẳng đến đâu, có tí của ăn nhưng nhìn lại đàn con đàn cháu thấy giật mình. Đứa thì gia đình tan nát, đứa thì bệnh họan, hầu hết con cháu đều xa Chúa, cố gắng khuyên lơn bảo ban nhưng chúng nó không chịu nghe. Nếu Chúa không thương đưa con cháu trở lại thì chết mất! Chẳng biết sau này Chúa cho gặp được bao nhiêu người? May mắn cho cụ già đã nhìn ra bóng tối đang vây bọc gia đình, nhưng làm sao để đưa các con cháu về lại với Thiên Chúa?
- Hòan cảnh của cụ già có lẽ cũng là hòan cảnh của hầu hết gia đình chúng ta. Khi được may mắn định cư nơi các cường quốc có nhiều cơ hội, chúng ta lăn xả vào đời để kiếm tiền sinh sống, mà không bao giờ chịu cân nhắc những thiệt hại của lối sống tư bản này. Nhiều cha mẹ đã không quản ngại hy sinh vất vả để cày 2,3 việc; với hy vọng cho con được tiến thân trong việc học hành, với hy vọng sau khi đã hy sinh cho con sẽ được chúng báo hiếu sau này, như mình đã từng thương yêu và báo hiếu cha mẹ. Sau hơn 30 năm vật lộn với cuộc sống nơi xứ lạ quê người, giờ có thời gian nhìn lại những cố gắng của mình như cụ già, chắc nhiều người chúng ta cũng không khỏi giật mình: gia đình có của nhưng con cái xa Chúa và xa mình vạn dặm. Con cái bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ, làm rất nhiều tiền nhưng chẳng bao giờ nghĩ đến việc phải báo hiếu cha mẹ; dạy dỗ khuyên răn chúng khó chịu và chỉ để ngòai tai. Chúng ta cũng chép miệng thở than như cụ già: Hy sinh vất vả cả đời để giờ phải chấp nhận một thực tại chúng ta không ao ước!
- Câu hỏi được đặt ra: Chúng ta đã làm điều gì sai? Làm thế nào để cứu chúng ta và con cháu ra khỏi vùng bóng tối sự chết này?
- Câu trả lời: Chúng ta đã không đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự. Chúng ta coi trọng tiền của nên đã dùng quá nhiều thời giờ vào việc kiếm tiền, mà quên đi Lời Chúa báo trước: “Các con không thể làm tôi cả Thiên Chúa lẫn tiền tài.” Chúng ta đã xao lãng trong việc trau dồi đời sống tâm linh mà chỉ chú trọng đến thức ăn của uống, mà quên đi Lời Chúa báo trước: “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn bởi mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra.” Chúng ta đã chạy theo và thờ lạy những hào nhóang thế gian như danh vọng, quyền bính, khóai lạc; mà quên đi Lời Chúa sửa dạy ma quỉ: “Ngươi phải thờ phượng Thiên Chúa, chứ không phải Thiên Chúa thờ phượng ngươi.” Nói tóm, chúng ta đã không sống theo những gì Thiên Chúa muốn, nhưng sống hệt theo lối sống của ma quỉ đã cám dỗ Thiên Chúa. Nếu chính chúng ta không sống những gì Chúa dạy, làm sao chúng ta mong các con chúng ta biết sống? Nếu chúng ta đã không dạy cho con biết kính sợ Thiên Chúa, và gia đình đã không sống theo đường lối của Thiên Chúa; chúng sẽ sống theo kiểu của xã hội hiện nay: ích kỷ chỉ biết tới mình, tôn thờ vật chất, sống buông thả như không có ngày mai.
- Tin Mừng Giáng Sinh: Những Bài đọc đêm nay cung cấp cho chúng ta những tia sáng hy vọng. Trong Bài đọc I: Tiên-tri Isaiah tường thuật những lợi ích khi con người có được Đấng Cứu Thế: Ngài như ánh sáng soi cho con người đang sống trong vùng bóng tối của sự chết. Ngài giúp giải thóat con người khỏi làm nô lệ cho tội lỗi. Ngài ban cho con người khôn ngoan, sức mạnh, thương yêu, và bình an. Trong Bài đọc II, Thánh Phaolô dạy Titô, môn đệ của ngài: Ân sủng Cứu Độ dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Chúa Giêsu đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân Riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện. Trong Phúc Âm, Tin Mừng Giáng Sinh được loan báo cho con người: Con Thiên Chúa đã giáng sinh làm người trong hang đá khó nghèo. Chỉ có Mục đồng là những người đầu tiên được sứ Thần loan báo và nhận ra Tin Mừng Cứu Độ.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ơn Cứu Độ được thực hiện qua Người Con.
1.1/ Sự khác biệt khi Đấng Cứu Thế đến: Ngay trong tuần thứ I Mùa Vọng, Giáo Hội đã mời gọi chúng ta suy xét để nhận ra sự khác biệt giữa người có và không có Thiên Chúa. Tiên-tri Isaiah hôm nay cũng mời gọi chúng ta suy xét để nhận ra tình trạng của mình và sự cần thiết của Đấng Cứu Thế trong cuộc đời mỗi người, qua 2 hình ảnh:
(1) Ánh sáng và bóng tối: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.” Tình trạng của dân Do-Thái thời Tiên-tri và tình trạng của con người trước khi Đấng Cứu Thế đến là hòan tòan bi quan và tăm tối. Hai vương quốc của Do-Thái sắp sửa bị quân thù Assyria và Babylon xâm chiếm và đem đi lưu đày. Con người bị bao quanh bởi bóng tối của sự không biết Thiên Chúa, không biết suy xét, và bao nhiêu tội lỗi lan tràn. Hậu quả tai hại nhất của việc sống trong bóng tối là con người chắc chắn sẽ phải chết.
Nhưng may mắn cho dân tộc Do-Thái và cho con người, Thiên Chúa đã ban cho họ một ánh sáng, Người Con của Ngài. Ánh sáng này sẽ làm cho con người được thấy, được thấu hiểu những Mầu Nhiệm của Thiên Chúa, và nhất là mang lại Ơn Cứu Độ cho con người, cho họ được sống đời đời.
(2) Vui mừng và đau khổ: Hình ảnh thứ hai Tiên-tri dùng là liên kết ánh sáng với vui mừng và bóng tối với đau khổ: “Vì Chúa đã gia tăng các quốc gia, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt hái, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm. Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Median.”
Chúng ta có thể hiểu nỗi đau khổ của dân Do-Thái trong nơi lưu đày: mất quê hương, gia đình tan nát, Đền Thờ và sự hiện diện của Thiên Chúa không còn, cuộc sống thiếu thốn và khổ cực, bị đối xử tàn bạo bởi kẻ thù. Tất cả những đau khổ này sẽ được Thiên Chúa cất hết khi Ngài cho họ được trở về quê hương để tái thiết quốc gia và Đền Thờ. Tất cả những điều này là do Thiên Chúa làm, chứ không do sức lực của con người. Tiên-tri nhắc nhở cho dân nhớ lại chiến thắng tại Median, Thiên Chúa muốn Thủ-lãnh Gideon đuổi quân lính về hết, kẻo họ nghĩ rằng sở dĩ có chiến thắng là do sức mạnh của họ.
Thiên Chúa gia tăng các quốc gia và nỗi vui mừng bằng cách loan Tin Mừng cho Dân Ngọai và cho họ cũng được hưởng Ơn Cứu Độ. Cả dân Do-Thái cũng như Dân Ngọai không làm gì xứng đáng để được hưởng Ơn Cứu Độ, vì tất cả đều phạm tội. Sở dĩ tất cả đều được hưởng Ơn Cứu Độ là hòan tòan do Thiên Chúa.
1.2/ Con người Đấng Cứu Thế: “Vì một trẻ thơ đã được sinh ra cho chúng ta, một Người Con đã được ban tặng cho ta. Người đã lãnh nhận quyền cai trị (arché) trên vai, tên của Người sẽ được gọi là Cố Vấn kỳ diệu, Thiên Chúa uy quyền, Người Cha muôn thuở, Hòang Tử hoà bình.” Tên là người; những danh hiệu này cần được hiểu thấu đáo để chúng ta ước mong có được Người Con này trong cuộc đời:
(1) Cố Vấn kỳ diệu: Người cố vấn phải là người khôn ngoan, có khả năng nhìn thấy những gì người khác không nhìn thấy. Người Con này là người Cố Vấn kỳ diệu cho con người, vì Ngài là Thiên Chúa khôn ngoan: cố vấn cho mọi người và chẳng cần ai làm cố vấn cho Người. Nếu có người cố vấn như vậy trong cuộc đời, chúng ta sẽ không khiếp sợ ai nữa.
(2) Thiên Chúa uy quyền: Tuy dáng vẻ là con người yếu đuối, nhưng ẩn chứa quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Người Con này làm được mọi sự, và không có gì là không thể đối với Ngài. Nếu chúng ta có Ngài trong đời, Ngài sẽ giúp chúng ta làm được mọi sự.
(3) Người Cha muôn thuở: Bản tính của người cha là yêu thương, dạy dỗ, và săn sóc cho con cái. Người Con này là Thiên Chúa, Người Cha muôn thuở của con người. Bằng việc nhập thể, chính Ngài vẫn tiếp tục yêu thương, dạy dỗ, và săn sóc từng người. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa dùng các tiên tri để dạy dỗ; trong Tân Ước, chính Thiên Chúa dạy dỗ con người.
(4) Hòang Tử bình an: Để có bình an, người lãnh đạo phải yêu mến bình an, và phải có khả năng đem lại bình an. Người Con này có khả năng hòa giải giữa con người với con người, và giữa con người với Thiên Chúa. Chỉ khi nào con người có được Hòang Tử bình an này, con người mới thực sự có bình an.
1.3/ Triều đại của Đấng Cứu Thế: “Quyền cai trị của Ngài sẽ gia tăng, và hoà bình sẽ vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua David. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng công bình và chính trực, từ nay cho đến mãi muôn đời. Lòng nhiệt thành của Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó.”
- Trong khi các vua chúa trần gian gia tăng quyền cai trị của họ bằng chiến tranh; Người Con gia tăng vương quốc của mình bằng hòa bình. Điều này, chúng ta có thể thấy được qua sự phát triển của Giáo-hội: con số những người tin vào Đức Kitô mỗi ngày một gia tăng, không bằng chiến tranh, nhưng bằng sự rao giảng Tin Mừng và sự làm việc bên trong của Chúa Thánh Thần. Vua chúa trần gian càng bách hại Đạo, số tín hữu càng gia tăng. Nước Thiên Chúa không còn giới hạn trong dân tộc Do-Thái, nhưng được lan rộng ra tới mọi dân tộc trên địa cầu.
- Tiên-tri Isaiah liên kết giữa triều đại của David và của Người Con. Như lời Thiên Chúa hứa qua các Tổ-phụ và các Tiên-tri, triều đại của Nhà David sẽ tồn tại muôn đời. Điều này chỉ thực hiện được qua Người Con thuộc giòng dõi David, Ngài sẽ làm cho triều đại David được tồn tại đến muôn đời.
- Trong khi các vua chúa trần gian củng cố vương quốc của mình bằng đàn áp và bạo lực, Người Con củng cố vương quốc bằng công bình và chính trực. Đàn áp và bạo lực chỉ có thể giữ dân chúng một thời gian; công bình và chính trực sẽ thu hút lòng dân đến muôn đời (Lk 1:32-33).
- Tác nhân chính của sự gia tăng là Thiên Chúa và lòng nhiệt thành yêu thương của Ngài, chứ không do đức độ, tài năng, hay sức mạnh của con người. Thiên Chúa yêu thương đến nỗi đã ban Người Con này cho con người (Jn 3:16); và trong Người Con này, mọi lời hứa được thực hiện.
2/ Bài đọc II: Ơn Cứu Độ thay đổi đời sống luân lý của các Kitô hữu
2.1/ Ơn Cứu Độ giúp con người biết sống: Con người làm bất cứ một việc gì đều có một mục đích. Khi các Kitô hữu biết rõ ràng mục đích của cuộc đời là “trông chờ ngày hồng phúc, ngày Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta, xuất hiện vinh quang;” họ sẽ phải biết chuẩn bị xứng đáng cho ngày đó. Thánh Phaolô khuyên các Kitô hữu: (1) Cách tiêu cực: Họ phải từ bỏ lối sống thế gian và những đam mê trần tục; vì lối sống này ngăn cản không cho họ đạt tới mục đích của cuộc đời. (2) Cách tích cực: Họ phải biết sống chừng mực, công chính, và đạo đức ở thế gian này. Những nhân đức này sẽ giúp họ đạt được mục đích của cuộc đời.
2.2/ Ơn Cứu Độ giải thóat con người: Bằng Mầu Nhiệm Nhập Thể, Đức Kitô giải thóat con người: (1) cách tiêu cực: khỏi mọi điều bất chính (tội lỗi); cách tích cực: biến họ thành người hăng say làm việc thiện. Chính sự tích cực này làm con người xứng đáng thành Dân Riêng của Thiên Chúa.
3/ Phúc Âm: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta.
3.1/ Hòan cảnh sinh ra của Đấng Cứu Thế: Không giống như các biến cố khác của cuộc đời Chúa Cứu Thế, biến cố sinh ra chỉ được tường thuật bởi Thánh sử Luca cách vắn tắt như sau: “Thời ấy, Hoàng-đế Augusto ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Quirinô làm tổng trấn xứ Syria. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ thành Nazareth, miền Galilee lên thành vua David tức là Bethlehem, miền Judah, vì ông thuộc giòng tộc vua David. Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.”
Khỏang cách từ Nazareth đến Bethlehem là 80 dặm, và phương tiện di chuyển duy nhất thời đó là đi bộ hay dùng các thú vật như bò lừa. Bethlehem rất lạnh vào mùa Đông vì là một cánh đồng chỉ cách Jerusalem vài dặm và có rất nhiều các hang đá ẩn sâu trong lòng đất, vẫn còn tồn tại tới hôm nay. Các hang đá này là chỗ lý tưởng cho các người chăn chiên vì họ có thể giữ chiên trong đó an tòan và tránh lạnh mà không cần chuồng.
3.2/ Thiên Thần loan Tin Mừng trọng đại cho các mục-đồng.
Mục-đồng (Bedouins) vẫn còn tồn tại ở Do-Thái cho tới ngày nay. Họ không thích lối sống thành phố hay cố định ở một chỗ; nhưng thích lang thang khắp đó đây theo đòan vật, chỗ nào có cỏ và nước cho súc vật họ sẽ định cư tại đó. Họ bị các người Do-Thái khác khinh thường vì bẩn thỉu và không thể giữ các nghi thức thanh tẩy trước khi ăn.
Tại sao các mục đồng được diễm phúc là những người đầu tiên biết Tin Mừng Giáng Sinh của Hài Nhi Cứu Độ? Để trả lời, chúng ta cần hỏi câu hỏi ngược lại: Ai là người sẽ dễ đón nhận Tin Mừng Giáng Sinh nhất trong hòan cảnh này?
Mối Phúc thứ nhất: “Phúc cho những ai nghèo khó vì Nước Trời là của họ” sẽ giúp chúng ta trả lời. Thiên Chúa chọn cho con mình giáng sinh trong hòan cảnh nghèo khó, chứ không trong dinh thự giàu sang. Người muốn con mình cảm nhận thân phận cùng cực của kiếp người. Vì sinh ra trong hòan cảnh nghèo hèn như thế, chỉ có những người nghèo như các mục-đồng mới có thể nhận ra và cảm thông, vì Con Trẻ cùng một hòan cảnh như họ. Hơn nữa, người nghèo khổ là người biết trông cậy vào Thiên Chúa, chứ không cậy vào sức của họ; vì thế, dễ cho họ đón nhận Tin Mừng Giáng Sinh hơn. Lời ca của muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương" cũng củng cố cách cắt nghĩa này. Thiên Chúa đóai thương và nhìn đến kẻ khó nghèo.
Tin Mừng Giáng Sinh được Sứ thần loan báo cho các mục-đồng: "Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua David, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ."

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa đã quá yêu thương nhân lọai. Chúng ta phải cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa qua Mầu Nhiệm Nhập Thể. Mục đích của Mầu Nhiệm Nhập Thể là để gánh tội lỗi và mang Ơn Cứu Độ cho con người. Không có Mầu Nhiệm Nhập Thể, con người sẽ chết trong tội.
- Món quà Giáng Sinh quí giá nhất Thiên Chúa ban cho chúng ta là chính Chúa Giêsu; qua Người Con này, chúng ta sẽ không thiếu bất cứ ân huệ cần thiết nào của cuộc sống. Chúng ta phải đáp trả lại tình yêu Thiên Chúa bằng cách làm sao cho có và giữ được Chúa Giêsu trong cuộc đời.
- Ơn Cứu Độ phải trở thành đích điểm cho cuộc sống. Chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính, và đạo đức ở thế gian này.
- Thiên Chúa là Chủ Tể của vũ trụ, mà lại chọn sinh ra trong cảnh khó nghèo để dạy chúng ta một bài học: Sống đơn giản và nghèo khó làm chúng ta dễ dàng trông cậy vào Thiên Chúa và nhận ra những nhu cầu của tha nhân hơn.
- Mong sao cho Tin Mừng Giáng Sinh hôm nay giải thóat các gia đình chúng ta ra khỏi vùng bóng tối sự chết, và đưa chúng ta vào miền ánh sáng, bình an, và hoan lạc.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


HÔM NAY ĐẤNG CỨU THẾ
ĐÃ GIÁNG SINH CHO CHÚNG TA

"Bà sinh con trai đầu lòng" (Lc 2,7)
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I là lời tiên tri của Isaia về việc Thiên Chúa ban Người Con của Ngài cho nhân loại.
- Bài đáp ca hát mừng ơn ban cao quý ấy : "Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta."
- Bài Tin Mừng loan báo Người Con ấy đã sinh ra : "Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta."
- Bài đọc II khẳng định việc Con Thiên Chúa sinh ra là một Ân sủng Thiên Chúa ban cho mọi người : "Ân sủng của Chúa đã đến với mọi người."

I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Sau mấy tuần chuẩn bị, đêm nay chúng ta cử hành lễ mừng Chúa giáng sinh. Một đứa trẻ yếu ớt sinh ra trong máng cỏ, trong hang súc vật. Nhưng đứa trẻ ấy chính là Chúa Cứu Thế. Là một vị Thiên Chúa, Ngài đã nhập thể làm người để cứu độ chúng ta. Đó là một hồng ân to lớn. Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa.
Nhưng chúng ta cũng hãy ý thức rằng, việc Chúa Cứu Thế sinh ra tại hang đá Bêlem sẽ chẳng ích lợi gì cho chúng ta nếu như Ngài không sinh ra trong chính tâm hồn chúng ta. Vậy chúng ta cũng hãy mở rộng cửa lòng để cho Ngài đến và cư ngụ với chúng ta.
- Trong Mùa Vọng, chúng ta chỉ lo chuẩn bị bề ngoài mà chưa chuẩn bị tâm hồn cho đủ để xứng đáng đón rước Chúa.
- Chúa Cứu Thế đã mang lấy thân phận của một người nghèo. Vậy mà từ trước tới nay chúng ta thường coi khinh những người nghèo.
- Chúa Cứu Thế là ánh sáng của sự lành và sự thiện. Vậy mà từ trước tới nay nhiều lần chúng ta trốn lánh ánh sáng để ngụp lặn trong bóng tối của tội lỗi.
Bối cảnh lịch sử : Dân Israel đang sống một thời kỳ hãi hùng : quân đội Assyria đã càn quét đất nước, đâu đâu cũng toàn cảnh điêu tàn đổ nát ; dân chúng rên siết dưới ách thống trị bạo tàn của ngoại bang : "Dân tộc bước đi trong u tối".
Nhưng giữa bóng tối hãi hùng đó, Isaia tiên báo một thời tươi sáng. Vì tin chắc tương lai tươi sáng ấy sẽ tới, nên tuy nói về tương lai nhưng Isaia đặt những động từ ở thì quá khứ, kể như sự việc đã xảy đến rồi : "Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết… Cái ách nặng nề trên người nó, cái gông nằm trên vai nó, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức, Chúa đã nghiền nát ra… Bởi lẽ một hài nhi đã sinh ra cho chúng tôi và một người con đã được ban tặng cho chúng tôi".
Lời tiên tri của Isaia đã được ứng nghiệm khi Israel thoát khỏi ách thống trị của Assyria. Nhưng lời tiên tri này còn mang một chiều kích phổ quát hơn nhiều : sự cứu thoát ấy chỉ sẽ được thực hiện trọn vẹn nơi Đấng Messia.
Tv 95 này là một bài ca diễn tả niềm hân hoan trào tràn đến tột độ : Con người bày tỏ niềm hân hoan bằng hát ca, nhảy múa. Con người còn kêu mời cả trái đất, biển khơi và các tầng trời chia sẻ niềm hân hoan của mình. Lý do của sự vui mừng to lớn ấy là vì Thiên Chúa đã đến.
Giây phút quan trọng mà loài người mong chờ mấy ngàn năm đã điểm : Đấng Cứu Thế đã sinh ra. Điều đặc biệt là Ngài sinh ra một cách rất âm thầm, khiêm tốn và nghèo nàn : Bêlem nhỏ bé, máng cỏ, hang súc vật…
Dù vậy cả đạo binh thiên quốc hát mừng. Các ngài nói rằng đó là một tin mừng đặc biệt.
Và Tin Mừng đặc biệt này được gởi đến trước tiên cho những người chăn chiên nghèo khổ.
Trong một đoạn thư rất ngắn chỉ có 5 câu, Thánh Phaolô vạch cho Titô thấy cả một "lịch sử cứu độ" rất dài gồm 3 giai đoạn :
- Giai đoạn khởi đầu là tình thương bao la của Thiên Chúa : Ngài đã ban Đức Giêsu cho loài người. Đức Giêsu chính là "ân sủng" của Thiên Chúa.
- Giai đoạn sẽ đến là lúc Đức Giêsu lại xuất hiện trong vinh quang trong ngày Ngài trở lại. Khi ấy Đức Giêsu là "vinh quang" của Thiên Chúa.
- Giữa hai giai đoạn ấy là cuộc sống của người tín hữu : để đáp lại "ân sủng" của Thiên Chúa lúc khởi đầu, và để xứng đáng chia phần "vinh quang" trong ngày sau hết, tín hữu phải : "từ bỏ gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức".
Tại sao Thánh Lễ chính của Lễ Giáng sinh được cử hành ban đêm ? Phải chăng vì đó là thời gian thuận tiện cho giáo dân dự lễ ? Phải chăng vì bầu khí ban đêm làm cho cuộc lễ thêm phần huyền diệu và thánh thiện (như lời ca "đêm thánh vô cùng") ? Phải chăng để cho đúng với sự kiện lịch sử ngày xưa Chúa Giêsu sinh ra ban đêm ?
Các lý do trên đều có phần đúng. Nhưng lý do căn bản nhất là : Chúa Giêsu là ánh sáng, Ngài sinh xuống trần gian như Ánh sáng bừng lên trong đêm tối.
Đêm tối tượng trưng cho tội lỗi, bất hạnh, buồn sầu ; Ánh sáng tượng trưng cho ân sủng, hạnh phúc, mừng vui.
Khi sinh xuống trần gian, Chúa Giêsu mang lấy trên mình tất cả tăm tối của loài người với bao tội lỗi, bất hạnh và buồn sầu, nhưng để ban lại cho loài người ánh sáng của Thiên Chúa bao gồm mọi ân sủng, hạnh phúc và mừng vui.
Thực ra, những sử gia còn chưa xác định được Chúa Giêsu sinh ra vào ngày nào tháng nào. Nhưng Giáo Hội đã chọn ngày 25 tháng 12 để cử hành Lễ sinh nhật của Ngài vì hai lý do : a/ Đây là ngày mà mặt trời chiếu sáng nhất và là ngày dài nhất trong năm ; b/ xưa kia ngày này là lễ mừng Thần Mặt trời của người rôma ngoại giáo. Giáo Hội muốn chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu chính là Mặt Trời đích thực đánh tan tối tăm của tội lỗi và sự gian tà.
Trong dịp Lễ Giáng sinh, người ta chi tiêu rất nhiều : trang hoàng, tiệc mừng, thiệp chúc, quà tặng… Xem ra đây là lễ của người giàu.
Nhưng Đấng mà người ta mừng sinh nhật thì rất nghèo : cỏ rơm, hang súc vật, tả lót sơ sài… Những khách mời ưu tiên cũng là những người chăn chiên nghèo… Dấu chỉ mà thiên thần cho những người chăn chiên ấy dựa vào để nhận ra Chúa cũng là dấu hiệu nghèo : "Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Ngài : các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ". Vậy đây phải là lễ của người nghèo mới đúng.
Để cho Lễ Giáng sinh có ý nghĩa nghèo, người ta tổ chức thăm viếng, tặng quà, khám bệnh, phát thuốc cho người nghèo…
Thực ra tất cả những việc ấy chỉ mặc cho lễ Giáng sinh một chút dáng vẻ nghèo mà thôi. Tinh thần nghèo của Lễ Giáng sinh và của Đấng giáng sinh phải thấm sâu vào và thể hiện ra :
- bằng một lập trường sống không thượng tôn tiền bạc như chúa tể.
- bằng một thái độ đối xử tôn trọng và yêu thương người nghèo.
- bằng một cách nhìn mới hẳn, thấy chính Chúa trong người nghèo : "Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Ngài : các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ".
Những cuộc cách mạng thường khởi đầu một cách rất rầm rộ.
Biến cố Chúa Giêsu giáng sinh khởi đầu cho một cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong tất cả các cuộc cách mạng. Tuy nhiên sự khởi đầu này rất im lìm, nhỏ bé, bình thường : một đứa trẻ con nhà nghèo, sinh ra trong thiếu thốn, vào thời điểm âm thầm giữa đêm khuya, tại một nơi hẻo lánh hiu quạnh.
Nhưng suy cho kỹ thì sẽ thấy khởi đầu như vậy mới đúng hướng và vững chắc, vì điều mà Thiên Chúa muốn làm cách mạng thay đổi chính là cách sống ồn ào, vật chất, cao ngạo, tham lam.
Rồi đây, nhà cách mạng Giêsu sẽ tiếp tục lớn lên trong khiêm hạ, sẽ chiêu mộ những đệ tử khiêm hạ, rao giảng một Tin Mừng khiêm hạ… Cuộc cách mạng của Ngài sẽ biến đổi cả thế giới.
Cuộc cách mạng của mỗi người chúng ta cũng phải bắt đầu như thế.
a/ Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta
Một người kia không thể nào tin được việc Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang mà xuống thế mang lấy thân phận con người hèn hạ. Vì thế, đêm lễ Giáng sinh ông không cùng vợ con đi nhà thờ dự lễ, mà ở lại nhà.
Sau khi vợ con đã ra đi được một lúc thì trời bắt đầu đổ tuyết. Ông thầm nghĩ : đêm nay lễ Giáng sinh, ước gì tuyết rơi trắng hết mọi nơi. Một lúc sau, ông nghe một tiếng sột soạt, rồi tiếp theo là một tiếng nữa, và nhiều tiếng nữa, giống như có ai đó ném tuyết vào cửa sổ. Ông mở cửa nhà bước ra xem. Thì ra là một đàn chim đang lao đao trong mưa tuyết muốn bay vào cửa sổ nhà ông để tìm chỗ trú.
- "Tội nghiệp những chú chim nhỏ bé. Mình phải tìm cách giúp chúng mới được". Ông chợt nghĩ đến nhà kho của mình. Ông mặc áo ấm vào, đi ra cái kho sau nhà, mở cửa và gọi chúng vào. Nhưng bầy chim vẫn đứng im.
- "Hay là chúng không thấy lối". Ông bật đèn nhà kho lên. Rồi trở ra gọi chúng. Chúng vẫn đứng im.
- "Lạ thế ! Hay mình đi lùa chúng vào". Thế là ông đi đến chỗ cửa sổ, đưa tay lùa. Lũ chim chẳng những không bay theo hướng ông lùa, mà còn bay trốn tán loạn.
Cuối cùng ông mới hiểu ra : "Chúng sợ mình, vì chúng lạ với mình. Phải chi mình giống như chúng thì khi mình đến gần chúng sẽ không sợ nữa."
Đúng lúc đó, một lời Tin Mừng từ nhà thờ vọng đến tai ông : "Ngôi Lời đã trở thành xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta". Ông quỳ gối xuống và thưa : "Lạy Chúa, bây giờ con đã hiểu tại sao Chúa giáng sinh làm người như chúng con".
b/ Món quà giáng sinh
 Một đôi vợ chồng trẻ, Gim và Đêla, tuy nghèo tiền của nhưng rất giàu tình thương đối với nhau. Giáng sinh sắp tới, Đêla tự hỏi phải tặng Gim món quà gì đây. Nàng muốn tặng chàng sợi dây cho chiếc đồng hồ của chàng. Nhưng nàng không có đủ tiền để mua. Vì thế nàng nẩy sinh một sáng kiến : Nàng có bộ tóc dài rất đẹp, nàng rất quý nó và rất hãnh diện vì nó. Nàng quyết định cắt ngắn bộ tóc và đem bán để mua cho Gim sợi dây đồng hồ.
 Hôm áp lễ giáng sinh, từ phố về, nàng cầm trong tay một chiếc hộp rất đẹp đựng sợi dây đồng hồ mạ vàng mà nàng vừa sắm được bằng mái tóc của mình. Bỗng nhiên Đêla cảm thấy lo lắng. Nàng biết Gim rất quý mái tóc dài của nàng. Nàng tự hỏi không biết Gim có buồn vì nàng cắt và bán nó đi hay không. Về tới nhà, Đêla mở cửa và thấy Gim đang đợi nàng. Tay chàng cầm một cái hộp thật đẹp đựng món quà chàng mới mua cho nàng. Khi nhìn thấy mái tóc ngắn của vợ, Gim như muốn khóc, nhưng chàng không nói gì cả. Cố trấn tỉnh, chàng trao cho nàng chiếc hộp xinh xắn. Mở hộp ra, Đêla rất đỗi bàng hoàng. Trong hộp là một bộ lược chải tóc bằng xà cừ rất đẹp. Còn chàng, khi mở món quà vừa nhận được từ tay vợ, Gim cũng ngỡ ngàng không kém. Chính lúc đó Đêla mới nhận ra rằng Gim đã bán chiếc đồng hồ vàng, món đồ quý nhất của anh, để mua lược chải tóc tặng nàng. Phút chốc cả hai đều hiểu rằng họ đã tặng nhau những gì quý giá nhất. Họ đã hy sinh tất cả cho nhau. (Trích "Món quà Giáng sinh" )
CT : Anh chị em thân mến
Vì yêu thương nhân loại, Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ trời xuống thế làm người, ở cùng chúng ta và chia sẻ mọi vui buồn của chúng ta. Với tâm tình cảm tạ tri ân Thiên Chúa là Tình yêu, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1- Khi giáng sinh làm người / Đức Kitô đã khai mạc một kỷ nguyên mới / kỷ nguyên thái bình thịnh vượng mà các ngôn sứ loan báo thuở xưa. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh Chúa luôn tươi trẻ / hầu có thể thích nghi với mọi thời đại.
2- Đức Kitô đã mang thân xác yếu hèn của nhân loại khi xuống thế làm người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người mù được thấy / kẻ đau yếu mau lành bệnh / và những tâm hồn đau khổ được an vui.
3- Đức Kitô đã sinh ra trong cảnh nghèo hèn tại hang Bêlem. / Chúng ta hiệp lời cầu xin Người an ủi / nâng đỡ những ai đói rách bần cùng.
4- Đức Kitô giáng sinh mang sứ điệp yêu thương và vui tươi đến cho nhân loại. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết chia sẻ tình thương và niềm vui / với những người nghèo khổ, bất hạnh đang sống chung quanh mình.
CT : Lạy Chúa Giêsu là Chúa hòa bình, là Vua tình thương. Chúa đang ngự giữa chúng con để an ủi, nâng đỡ và khích lệ chúng con bước theo chân Chúa. Xin cho tình thương hải hà của Chúa luôn hướng dẫn chúng con trong cuộc hành trình về quê trời. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
- Sau kinh Lay Cha, Chủ Tế chêm vào vài lời nhấn mạnh đến sứ điệp lễ Giáng sinh :
"Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, nhất là sự dữ phải sống trong bóng tối của tội lỗi, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an, sự bình an cho những người thiện tâm mà thiên thần Chúa hát mừng trong đêm Chúa giáng sinh. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp…."
- Chúc bình an : Trong đêm Chúa giáng sinh, các thiên thần đã hát "Bình an dưới thế cho người thiện tâm". Chúng ta hãy chúc cho nhau được bình an và cầu cho nhau trở thành những kẻ thiện tâm.
Dùng công thức ban phúc lành cuối lễ long trọng của lễ Giáng sinh (Sách lễ Rôma, xuất bản 1992, trang 576)
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI

(Lễ đêm)

TIN MỪNG TRỌNG ĐẠI
 

Suy nim:
Thiên Chúa vẫn cứ làm con người ngỡ ngàng.
Để cứu độ nhân loại, Thiên Chúa sai Con Ngài sinh bởi một phụ nữ,
làm người Do Thái, sống dưới thời đế quốc Rôma đô hộ (cc. 1-2).
Như thế Đấng Tuyệt Đối đã từ trời xuống,
chấp nhận thân phận hữu hạn của con người.
Ngài không khoác lớp áo người, nhưng là người trọn vẹn.
Ngài được cưu mang trong dạ mẹ, được sinh ra như mọi trẻ thơ.
Đêm Con Thiên Chúa chào đời là một đêm lạ lùng.
Ngài không được chào đời tại mái nhà thân yêu ở Nadarét.
Ngài cũng không được chào đời
nơi một căn phòng tử tế dành cho lữ khách ở Bêlem.
Đơn giản là vì không có chỗ (c. 7).
Nhưng tại sao lại không có, thì ta không rõ câu trả lời.
Ngài đã phải sinh ra nơi máng cỏ, nơi để đồ ăn cho súc vật.
Phải mất bao lâu Giuse mới tìm được chỗ này trong đêm?
Hãy hình dung khung cảnh âm thầm của máng cỏ ngày xưa.
Có một ngọn đèn nào để chiếu sáng không?
Có ngọn lửa nào để xua đi giá lạnh không?
Hãy cảm nếm nỗi lo sợ, vất vả, lúng túng của đôi vợ chồng trẻ.
Họ đang phải đối diện với những rắc rối lớn lao và bất ngờ.
Điều cần nhất là hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa.
Khi tiếng khóc đầu tiên của Hài Nhi cất lên giữa đêm khuya,
ơn cứu độ đã mỉm cười với nhân loại.
Lạ lùng thay cách thức Con Thiên Chúa làm người!
Nhóm người chăn chiên, những kẻ sống bên lề xã hội,
chứ không phải là những nhà lãnh đạo tôn giáo hay trần thế,
mới là những người đầu tiên được sứ thần loan báo Tin Mừng.
Họ sống ngoài đồng, chia phiên nhau thức đêm để canh giữ đoàn vật.
Bất ngờ họ bị bao trùm bởi vinh quang rực rỡ của Thiên Chúa (c. 9).
“Hôm nay, Đấng Cứu độ, Đấng Kitô, Đức Chúa được sinh ra cho anh em.”
Đấng dân tộc anh em chờ mong từ lâu, nay đã đến.
Đây là Tin Mừng! Đây là Niềm Vui cho mọi người!
Nhưng dấu hiệu để nhận ra vị Tân Vương thuộc nhà Đavít
thì vừa bình thường: “một trẻ sơ sinh được quấn tã”,
vừa lạ thường: “nằm trong máng cỏ” (c. 12).
Đấng Mêsia mới được sinh ra không ngự nơi cung vua.
Dấu hiệu sứ thần cho ông Dacaria là bị câm.
Dấu hiệu sứ thần cho Maria là bà chị Êlisabét mang thai lúc đã già.
Dấu hiệu sứ thần cho các anh chăn chiên là trẻ thơ quấn tã nơi máng cỏ.
Các anh chăn chiên cần có đức tin để dám tin vào dấu hiệu ấy.
Thiên Chúa vẫn đến với con người bằng những nẻo đường bất ngờ.
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (c. 14).
Hoàng đế Augustô được ca ngợi là đấng cứu độ.
Ông được coi là người đem lại hòa bình,vì ông đã chấm dứt chiến tranh.
Hôm nay, Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta bình an thật qua Đức Kitô.
Ngài muốn ban cho chúng ta Đấng Cứu Độ thật là Đức Giêsu.
Xin cầu cho hòa bình trên mặt đất, bình an trong lòng người.
Ước gì chúng ta biết được rằng mình là những người được Chúa thương.
Cầu nguyn:

Giữa giá rét của mùa đông,
xin cho con gặp Chúa.
Giữa những long đong
và bấp bênh của phận người,
xin cho con gần Chúa.
Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi,
xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ,
xin cho con cảm được sự bình an của Chúa,
ngay giữa những âu lo hằng ngày.
Xin cho con đón lấy cuộc đời con
với bao điều không như ý.
Và cuối cùng,
xin cho con dám sống như Chúa
vì Chúa đã dám sống như con.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét