Ngày 21 tháng 12
Mùa Vọng
Bài Ðọc I: Dc 2, 8-14
"Ðây người tôi yêu đến,
nhảy qua núi".
Bài trích sách Diễm Ca.
Tiếng người tôi yêu, đây người đến,
nhảy qua núi, băng qua đồi. Người tôi yêu giống như nai rừng, ví tựa hươu con.
Ðó, người đứng sau vách nhà chúng tôi, ngó qua cửa sổ, nhìn vào chấn song.
Này người tôi yêu nói với tôi:
"Hãy chỗi dậy, mau lên, bạn tình ta! Bồ câu ta, kiều nữ ta, hãy đến! Vì tiết
đông đã qua, mưa phùn đã dứt. Trăm hoa đua nở trên đất chúng ta. Thời cắt tỉa
đã đến, tiếng chim gáy véo von trên đất chúng ta. Cây vả sinh trái đầu mùa, vườn
nho trổ hoa thơm ngát. Hãy chỗi dậy, bạn tình ta, người đẹp ta, hãy đến!
"Bồ câu ta trong hốc đá,
trong kẹt ghềnh, hãy cho ta thấy mặt mình, tiếng mình hãy thánh thót ở tai ta,
vì tiếng mình êm ái, nét mặt mình xinh tươi".
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài này: Xp 3, 14-18a
"Chúa là Vua Israel ở giữa
ngươi".
Trích sách Tiên tri Xôphônia.
Hỡi thiếu nữ Sion, hãy ngợi
khen! Israel hỡi, hãy reo mừng! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy sung sướng và hết
lòng hân hoan!
Chúa đã rút án phạt ngươi, đã
xua đuổi quân thù. Chúa là Vua Israel ở giữa ngươi, ngươi không còn lo sợ tai hoạ
nào. Ngày ấy có tiếng bảo Giêrusalem: đừng sợ! và Sion, chớ buông thả đôi tay!
Chúa là Thiên Chúa ngươi ở giữa ngươi, sẽ sung sướng vui mừng vì ngươi, sẽ
thinh lặng trong niềm mến thương ngươi, sẽ hân hoan chúc mừng ngươi, như trong
ngày đại lễ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 32, 2-3. 11-12. 20-21
Ðáp: Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa, hãy ca mừng
Người bài ca mới! (c. 1a và 3a).
Xướng: 1) Hãy ngợi khen Chúa với
cây đàn cầm, và đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. Hãy ca mừng Người bài ca
mới, hát mừng Người với tiếng râm ran. - Ðáp.
2) Ý định của Chúa tồn tại muôn
đời; tư tưởng lòng Người còn mãi đời nọ sang đời kia. Phúc thay quốc gia mà
Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. - Ðáp.
3) Linh hồn chúng ta mong đợi
Chúa, chính Người là Ðấng phù trợ và che chở chúng ta. Bởi vậy lòng chúng ta
hân hoan trong Chúa, chúng ta tin cậy ở thánh danh Người. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Lạy Vầng
Ðông, là ánh sáng muôn dân và là mặt trời công chính, xin hãy đến chiếu soi những
kẻ ngồi trong tối tăm và trong bóng sự chết! - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 1, 39-45
"Bởi đâu mà tôi được ơn
này, là Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm tôi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã
ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và
chào bà Isave, và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng
trong lòng bà; và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng:
"Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi
đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào,
hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa
phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Bởi Ðâu Tôi Ðược Mẹ Chúa Viếng Thăm
Với cuộc sống con người, ai ai
trong chúng ta cũng mang lấy tâm trạng muốn cho mình tích trữ được nhiều thứ của
cải: của cải vật chất và của cải tinh thần. Của cải vật chất như được giàu
sang, được uy quyền. Ai lại chẳng muốn được như câu nói mà người ta thường đùa
với nhau: "Ở nhà Tây, ăn cơm Tàu, lấy vợ Nhật" và cuối cùng là
"đám tang Việt Nam".
Ở nhà Tây, vì tiện nghi đầy đủ.
Ai lại không khen các món ăn của Tàu nổi tiếng là ngon. Người đàn bà Nhật chiều
chuộng chồng mình không ai lại không cảm thấy không kính phục. Và đám tang Việt
Nam chúng ta với bao nhiêu nghi thức đầy cảm động gợi lên tâm tình của người
còn sống đối với người thân yêu đã khuất. Ai trong chúng ta lại chẳng muốn được
quyền uy, đi đâu có tiền hô hậu ủng, đưa đón rước sách, mọi người nhìn bằng cặp
mắt kính nể, thán phục.
Về của cải tinh thần, ai lại
không mơ ước trên phương diện nghệ thuật mình sáng tác, những bản nhạc thời
danh như Bach, Bethoven, Mozart, hoặc thành những khoa học gia nổi tiếng về
không gian chế ra bom B1-B2 và hỏa tiễn lên cung trăng đầu tiên như Volgra người
Ðức gốc Do Thái. Và biết bao nhiêu mơ ước, biết bao nhiêu tham vọng khác nữa ở
trong mỗi một con người nhỏ bé của chúng ta.
Ðó là tâm trạng tâm lý thường
tình của con người mà thôi. Nó không tốt mà cũng không xấu, khi chủ ý đặt mục
đích và phương tiện tốt thì nó tốt, còn khi chúng ta dùng để tự kiêu, ngạo mạn
và làm hại người khác thì nó xấu. Có một điều quan trọng nhất của người Kitô hữu
chúng ta đó là khi chúng ta xin đức tin cùng Hội Thánh trong ngày lãnh nhận Bí
Tích Rửa Tội, được rước Chúa vào trong tâm hồn, chúng ta khư khư giữ lấy Chúa
ích kỷ riêng cho mình, không mang Thiên Chúa đến cho người khác.
Thiên Chúa chúng ta là một kho
tàng vô giá, một kho tàng tích chứa tình yêu vô bờ bến, một kho tàng tích chứa
bình an thực sự, và là một kho tàng tích chứa sự khôn ngoan tuyệt đối. Một kho
tàng quí giá vô cùng như vậy thế mà chúng ta đã không biết lợi dụng để mang đến
cho mọi người, để rồi tha nhân không nhìn ra khuôn mặt Thiên Chúa yêu thương
qua cuộc sống của chúng ta. Vì thế, những người vấp ngã, những người gặp hiểm
nguy khó khăn trong cuộc sống, họ không gặp được Thiên Chúa bình an, Thiên Chúa
hy vọng và Thiên Chúa hạnh phúc. Những người hoang mang lạc lối trên đường đời
chúng ta đã không chỉ cho họ đến với Thiên Chúa là Ðấng thông minh, khôn ngoan
tuyệt vời. Thiên Chúa đau khổ biết bao khi chúng ta đã không mang Chúa đến cho
tha nhân.
Và hôm nay Chúa Giêsu muốn nói với
chúng ta qua gương mẫu Mẹ Maria, chính Mẹ đã nhận được diễm phúc mang Con Chúa
trong lòng, để rồi Mẹ đã vội vã lên đường mang Chúa đến cho người chị họ là bà
Isave. Nhờ đó, thánh Gioan Tẩy Giả nằm trong bụng mẹ cũng được chia sẻ niềm vui
ấy. Ðó là bài học quí hóa nhất cho cuộc sống chúng ta, người con cái của Thiên
Chúa đã nhận biết Chúa, đã mang Chúa trong tâm hồn, không ích kỷ giữ riêng Chúa
cho mình nhưng cùng chia sẻ niềm vui ơn cứu rỗi đó cho mọi người xung quanh.
Lạy Chúa, trong Mùa Vọng này,
xin Chúa ban cho mỗi người chúng con tâm tình sốt sắng đón nhận Chúa đến để sự
bình an của Chúa thực sự ngự trị trong tâm hồn chúng con. Lạy Chúa, như xưa Mẹ
Maria đã đem Chúa đến cho bà chị họ là
bà Isave, thì nay xin Chúa cho chúng con luôn biết hăng say đem Chúa đến cho
mọi người qua cuộc sống hiền hòa, yêu thương, tha thứ trong niềm tin yêu hy vọng
và lạc quan, vì Chúa đến và vui thích ở giữa dân Người. Amen.
Veritas
Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Ngày 21 tháng 12 MV
Bài đọc: Cant
2:8-14; Lk 1:39-45.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên
Chúa viếng thăm Dân Ngài.
Cuộc đời con người trên dương thế
là những chuỗi ngày kết tụ bằng hạnh phúc và đau khổ, đoàn tụ và ly tán, yêu
thương và ghen ghét, tha thứ và hận thù... Con người chỉ hoàn toàn hạnh phúc,
vui mừng, và bình an khi con người biết ăn năn trở lại và hoàn toàn thuộc về
Thiên Chúa, như tình trạng vô tư nguyên thủy khi con người chưa biết đến tội lỗi.
Khi phải sống lưu đày xa Thiên Chúa, cả Thiên Chúa và con người đều đau khổ; vì
Ngài dựng nên con người để chung hưởng tình yêu và hạnh phúc với Ngài.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung
trong niềm vui mừng khi con người được Thiên Chúa đến viếng thăm. Trong Bài Đọc
I, Sách Diễm Tình Ca mô tả nỗi vui mừng và sung sướng khi một người con gái được
tình quân tới viếng thăm. Trong Cựu Ước, nhiều tác giả đã so sánh mối liên hệ
giữa Thiên Chúa và con người nóng bỏng và mật thiết như tình yêu giữa hai vợ chồng:
Thiên Chúa là chồng và Israel là vợ (x/c Hos 1-3, Isa 62:5, Jer 3:1-10, Eze 16,
23). Sự bội phản của con người được ví như một người làm điếm, nhưng Thiên Chúa
sẵn sàng tha thứ và không ngừng tìm kiếm đưa con người trở lại với tình yêu ban
đầu. Trong Phúc Âm, thánh sử Luca tường thuật sự thăm viếng độc nhất vô nhị
Thiên Chúa dành cho con người: bề ngoài là cuộc thăm viếng của Đức Mẹ dành cho
người chị họ Elisabeth, bề trong là cuộc gặp gỡ giữa Đấng Thiên Sai và Dân
Ngài, được tượng trưng qua sự hiện diện Gioan Tẩy Giả, người tiên tri cuối cùng
của Cựu Ước.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: "Dậy đi em, bạn tình của anh, người đẹp của anh, hãy
ra đây nào!"
1.1/ Cuộc hò hẹn của hai con người
đang yêu nhau: Khi đang yêu, đôi bạn muốn
thường xuyên ở bên nhau để được nhìn thấy và nghe tiếng của nhau. Trình thuật
hôm nay nói lên nỗi vui mừng của người con gái khi chờ đợi người yêu đến viếng
thăm: "Tiếng người tôi yêu văng vẳng đâu đây, kìa chàng đang tới, nhảy
nhót trên đồi, tung tăng trên núi. Người yêu của tôi chẳng khác gì linh dương,
tựa hồ chú nai nhỏ."
1.2/ Nỗi đau khổ khi hai người phải
xa nhau và niềm vui khi được xum họp.
(1) Nỗi đau khổ và nhớ thương
khi phải chờ đợi người yêu một thời gian dài: Tác giả diễn tả nỗi đau khổ một
cách vắn gọn: "Tiết đông giá lạnh đã qua, mùa mưa đã dứt, đã xa lắm rồi."
Mùa Đông tượng trưng cho sự chờ đợi dai dẳng, lạnh lẽo, và đau buồn. Người con
gái mong chờ cho những ngày mùa Đông chấm dứt để gặp mặt người yêu. Đây cũng là
tâm trạng của con người khi phải lưu đày và sống xa Thiên Chúa: con người phải
làm lụng vất vả và phải chịu đựng mọi đau khổ, vì không còn được sống trong
vòng tay yêu thương và bảo vệ của Thiên Chúa. Con người mong được Thiên Chúa
ghé mắt nhìn đến và ra tay giải thoát. Thiên Chúa cũng chẳng vui sướng gì khi
phải lìa xa con người. Ngài luôn tìm mọi dịp để hoán cải và đưa con người trở về.
(2) Niềm vui và hạnh phúc khi
hai người được xum họp: Khi mùa Đông lạnh giá qua là mùa Xuân nắng ấm tới. Lòng
người con gái vui mừng vì sắp được gặp lại người yêu. Trời đất và các tạo vật
cũng thay đổi như cùng chung vui với sự trùng phùng của hai người: "Sơn hà
nở rộ hoa tươi và mùa ca hát vang trời về đây. Tiếng chim gáy văng vẳng trên khắp
đồng quê ta. Vả kia đã kết trái non, vườn nho hoa nở hương thơm ngạt
ngào." Nỗi mong muốn được gặp mặt và nghe tiếng của nhau sau bao năm trường
xa cách được biểu tỏ qua lời yêu thương của tình quân nói với người yêu:
"Dậy đi em, bạn tình của anh, người đẹp của anh, hãy ra đây nào! Bồ câu của
anh ơi, em ẩn trong hốc đá, trong vách núi cheo leo. Nào, cho anh thấy mặt,
nào, cho anh nghe tiếng, vì tiếng em ngọt ngào và mặt em duyên dáng."
2/ Phúc Âm: "Tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng
đã nhảy lên vui sướng."
2.1/ Mẹ Maria lên đường thăm viếng
chị họ Elisabeth: ''Hồi ấy, bà Maria vội
vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Judah. Bà vào nhà ông
Zachariah và chào hỏi bà Elisabeth." Nhìn bề mặt, đó là cuộc thăm viếng giữa
con người với con người; nhưng nhìn bề trong, đó là cuộc thăm viếng của Thiên Chúa
dành cho con người. Đây là cuộc thăm viếng có tính cách lịch sử, vì Thiên Chúa
đã chuẩn bị biến cố này lâu năm, ngay từ khi con người sa ngã trong vườn Địa
Đàng. Con người khao khát cuộc thăm viếng này; vì nhờ nó, con người được Thiên
Chúa đổi vận mạng: từ chỗ phải chết đến chỗ sống muôn đời, từ chỗ bị lưu đày đến
chỗ được vào Đất Hứa, từ chỗ phải xa cách Thiên Chúa đến chỗ được đoàn tụ với
Ngài muôn đời.
Bà Elisabeth có được hai niềm
vui lớn: Thứ nhất, Bà phải chịu cảnh góa bụa đau khổ và tai tiếng của người đời
sau bao năm không có con; nhưng Thiên Chúa đã thay đổi cuộc đời Bà, cho Bà được
mang thai Gioan Tẩy Giả trong lúc cả hai ông bà đã quá tuổi sinh con. Thứ hai,
Bà được Mẹ Thiên Chúa tới viếng thăm, vì Người Con Mẹ Maria sắp sửa sinh ra sẽ
mang lại ơn cứu độ cho Bà và cho muôn người.
2.2/ Chúa Giêsu thăm viếng Gioan Tẩy
Giả.
(1) Bà Elisabeth nhận ra Người
Con Maria đang mang trong lòng là Đấng Cứu Thế: Điều kỳ lạ là Mẹ Maria chưa nói
lời gì với Bà Elisabeth cả; trình thuật chỉ nói: "Khi Bà Elisabeth vừa
nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn
Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: "Em được chúc phúc hơn mọi người
phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được
Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?" Nguyên do của việc nhận ra là sự
hiện diện của Chúa Thánh Thần trong Bà Elisabeth và Gioan Tẩy Giả nhảy mừng.
Thánh Thần là Thần Sự Thật, Ngài giúp cho cả hai mẹ con Bà Elisabeth nhận ra Đấng
Thiên Sai. Bà Elisabeth và Gioan Tẩy Giả tượng trưng cho gia đình nhân loại
trong Cựu Ước, vui mừng khi được Đấng Thiên Sai đến viếng thăm. Bà Elisabeth biết
rõ lý do tại sao Đức Mẹ thật có phúc: "vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những
gì Người đã nói với em."
(3) Gieo trong đau thương sẽ gặt
trong vui mừng: Hai người đàn bà vui mừng vì hai người con sắp được sinh ra là
Chúa Giêsu và Gioan Tẩy Giả; nhưng đau khổ và chia ly chẳng bao lâu sẽ xảy ra
không những cho Chúa Giêsu và Gioan Tẩy Giả mà còn cho hai bà mẹ. Tại sao Thiên
Chúa yêu thương lại để những đau khổ và chia ly xảy ra trong cuộc đời chúng ta?
Có lẽ câu hỏi chúng ta phải đặt lại: Tại sao chúng ta lại nhẫn tâm khinh thường
tình yêu Thiên Chúa, cha mẹ, và những người đã yêu thương chúng ta trong cuộc đời?
Tại sao chúng ta không quan tâm đến những lo lắng và đau khổ của họ? Khi chúng
ta tìm được câu trả lời này, chúng ta đã hiểu được mầu nhiệm của tình yêu và của
đau khổ. Chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa: những đau khổ, chia
ly, than khóc trên đời này chỉ tạm thời chóng qua; khi được về với Thiên Chúa,
mọi đau khổ và ly tan sẽ chấm dứt.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa yêu thương con người,
Ngài đau khổ khi chúng ta sống xa cách Ngài; và mừng rỡ nhảy mừng khi chúng ta
quay trở lại với Ngài. Đau khổ xảy ra khi chúng ta khinh thường tình yêu của
Thiên Chúa, của cha mẹ, và của tha nhân dành cho chúng ta; niềm vui có được khi
chúng ta biết nhận ra và trân quí những tình yêu đó.
- Khi xa Thiên Chúa, con người
chìm đắm trong đau khổ và làm nô lệ cho tội lỗi; khi trở về với Ngài, con người
được bình an, hạnh phúc, và phục hồi mọi sự đã mất. Một khi đã trở về với Thiên
Chúa, chúng ta hãy sống kết hiệp mật thiết với Ngài, để đừng bao giờ lìa xa
Ngài nữa. Chúng ta hãy thưa với Ngài: Emmanuel! Xin Chúa hãy ở với con luôn
mãi.
Lm. Anthony ĐINH MINH
TIÊN, OP.
21/12/16 THỨ TƯ TUẦN 4 MV
Lc 1,39-45
Lc 1,39-45
Suy niệm: Người đời thường nói “phúc bất trùng lai,” nghĩa là phúc
không đến hai lần. Nhưng điều đó lại xảy ra đối với Đức Mẹ: Mẹ vừa được thiên sứ kính chào là người “đầy ơn phúc”, mà người con Mẹ đang cưu mang cách lạ lùng
cũng “được chúc phúc” vì người con đó chính là Con Thiên Chúa, nguồn phúc lành cho Mẹ và cho cả nhân loại. “Phúc trùng lai” ấy xuất phát từ việc Mẹ đã dám tin vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Tin rằng Ngài đầy quyền năng “không có
gì là không thể làm được,” và tin Ngài yêu thương nhân loại đến nỗi ban tặng chính Con Một Ngài. Trên bình diện tự nhiên, mầu nhiệm nhập thể là điều không tưởng, nhưng trong niềm tin, mầu nhiệm đó đã và đang trở thành nguồn an ủi và hạnh phúc cho nhân loại đến muôn đời. Khi cử hành mầu nhiệm Giáng Sinh, chúng ta cũng được như Mẹ, được hưởng “phúc trùng lai” mà Chúa
dành cho những ai biết đón nhận Lời Ngài qua lời dạy của Chúa Giê-su.
Mời Bạn: Mẹ Ma-ri-a thực hạnh phúc vì Mẹ đã “tin rằng lời Chúa phán với Mẹ sẽ được thực hiện.” Bạn có cảm thấy mình được hạnh phúc vì tin vào Chúa không? Quả thật, đạo Chúa chính là con đường giúp bạn dẫn bạn đến hạnh phúc đích thực và viên mãn khi bạn đặt trọn niềm tin vào Chúa và sống theo Lời Ngài truyền dạy.
Sống Lời Chúa: Bạn hãy rà soát lại mình để tìm thấy cái “được” của bạn khi làm người Ki-tô hữu.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp con luôn vững tin vào công trình Chúa đã làm trong lịch sử để đem lại hạnh phúc thật sự cho chúng con. Amen.
Thân mẫu Chúa tôi đến với tôi (21.12.2016 – Thứ tư)
Từ khi Ngôi Lời được cưu mang trong dạ mẹ, không ai có quyền khinh rẻ một thai nhi, vì mỗi thai nhi đều mang khuôn mặt của Con Thiên Chúa
Suy niệm:
Trong những ngày cuối cùng của mùa Vọng,
Hội Thánh mời gọi chúng
ta suy niệm về cuộc gặp gỡ
giữa hai người mẹ: Chị
Maria và bà Êlisabét,
giữa hai thai nhi: Ðức
Giêsu và Gioan Tẩy Giả.
Một cuộc gặp gỡ chan chứa
niềm vui.
Niềm vui của chị Maria
với bước chân vội vã
băng qua những vùng đồi
núi trập trùng xứ Giuđê.
Chị không đi một mình
trên đường xa,
vì chị tin có một mầm
sống đang lớn lên trong chị.
Chị chỉ mong cho mau đến
nhà bà Êlisabét
để phục vụ bà trong những
ngày gần sinh nở.
Niềm vui bất ngờ của bà
chị họ sau lời chào của Maria.
Bà ngây ngất trước hồng
ân mà cô em mình đã nhận được.
Bà tràn ngập hạnh phúc vì
được Thân Mẫu Chúa đến thăm.
Êlisabét cảm thấy đứa con
trong dạ cũng nhảy mừng.
Dường như bà quên cả niềm
vui riêng tư,
để chỉ còn nhớ đến niềm
vui cứu độ cho cả dân tộc.
Cuộc gặp gỡ diễn ra trong
bầu khí của Thánh Thần.
Thánh Thần vẫn tác động
trên chị Maria.
Thánh Thần tràn đầy bà
Êlisabét.
Thánh Thần đã hoạt động
nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15).
Chị Maria đem đến niềm
vui cho nhà ông Dacaria
vì chị mang lại Ðấng ban
Tin Mừng cứu độ.
Chị đem đến sự phục vụ
khiêm hạ
vì chị cưu mang Ðấng đến để
phục vụ.
Khi được trở nên nữ tỳ
của Thiên Chúa,
chị Maria đã sống như nữ
tỳ của con người.
Chị có phúc vì chị được
chọn làm Mẹ Ðấng Cứu Thế,
chị còn có phúc vì chị đã
tin rằng
Chúa sẽ thực hiện những
gì Người nói với chị.
Chúng ta chiêm ngắm Ðức
Giêsu đang lớn dần trong lòng mẹ.
Ngài tăng trưởng như mọi
người.
Những nhịp đập đầu tiên
của trái tim nhỏ bé,
những nét riêng tư đầu
tiên của khuôn mặt.
Con Thiên Chúa đã mang
quả tim và khuôn mặt người phàm.
Từ khi Ngôi Lời được cưu
mang trong dạ mẹ,
không ai có quyền khinh
rẻ một thai nhi,
vì mỗi thai nhi đều mang
khuôn mặt của Con Thiên Chúa;
không ai được coi thường
người phụ nữ,
vì Thiên Chúa đã muốn Con
mình được một trinh nữ sinh ra.
Cầu nguyện:
Lạy Ðức Trinh Nữ Maria,
Mẹ Thiên Chúa,
xin gìn giữ nơi con quả
tim của trẻ thơ
tinh tuyền và trong ngần
như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ,
mau quên những nỗi buồn phiền.
Một quả tim hào hiệp dám hiến thân,
dịu dàng để cảm thông.
Một quả tim trung thành và quảng đại.
không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn.
yêu mà không mong được yêu lại,
hân hoan xóa mình đi
để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một quả tim vĩ đại và bất khuất,
không khép lại trước những vô ơn,
không chán nản trước người lạnh nhạt.
Một quả tim khắc khoải
lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,
quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết thương chỉ lành
khi được sống với Ngài trên
trời. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 12
21 THÁNG MƯỜI HAI
Dọn Chỗ Cho Chúa Trong Lòng
Ta
Trong Mùa Vọng, chúng ta được ân
sủng thúc giục để có tâm tình đức tin trong lòng và có niềm mong đợi của tất cả
những ai đợi trông Chúa, tất cả những ai tin và yêu mến Đức Giêsu. Con đường
Mùa Vọng như thế giúp làm cho đức tin của chúng ta nên sinh động trong khi
chúng ta không ngừng suy niệm và được bồi dưỡng bằng Lời Chúa. Đối với người
Kitô hữu, đây sẽ là điểm qui chiếu đầu tiên và nền tảng cho đời sống tâm linh của
mình, một đời sống phải được bồi dưỡng bằng kinh nguyện tôn thờ và ca tụng
Thiên Chúa. Trong số những kinh nguyện này, Benedictus của Dacaria, Nunc
dimittis của Simêon, và nhất là Magnificat của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a là những
kinh nguyện kiểu mẫu vô song.
Tâm tình đức tin bên trong của
Mùa Vọng được củng cố nhờ việc chúng ta lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích
Hòa Giải và Thánh Thể, tinh luyện và ban dồi dào ân sủng Đức Kitô cho chúng ta.
Các bí tích ấy làm cho chúng ta trở thành con người mới, theo như lời Chúa
Giêsu dạy: “Hãy sám hối!” (Mt 3,2).
Từ viễn tượng này, chúng ta thấy
rằng trong tư cách là Kitôhữu, mọi ngày đều có thể là một Mùa Vọng cho mình. Bởi
vì chúng ta càng thanh tẩy linh hồn mình, chúng ta sẽ càng dọn nhiều chỗ hơn
cho tình yêu của Thiên Chúa chiếm ngự tâm hồn ta. Rồi Đức Kitô sẽ có thể đến và
sinh hạ trong ta.
- suy tư 366 ngày của Đức
Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope
John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 21 - 12
Thánh Phêrô Canisiô, linh mục,
tiến sĩ Hội Thánh; Ds 2, 8-14; Tin Mừng Lc 1, 39-45.
LỜI SUY NIỆM:
“Hồi
ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa.
Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Êlisabét.” (Lc 1,40).
Sau khi Đức Mẹ đáp lại xin vâng.
Ngôi Hai Thiên Chúa đã đến trong cung lòng Mẹ. Chính điều này đã thúc bách Đức
Mẹ vội vã lên đường đến để chung vui hạnh phúc với người chị họ mình đã cao
niên mà sắp được sinh con đầu lòng. Trong đời sống người Ki-tô hữu không biết
đã bao nhiêu lần chúng ta rước Chúa vào trong tâm hồn của chúng ta, nhưng rồi
có Chúa trong mình không? Hay mỗi lần rước Chúa, chỉ là một nghi thức phụng vụ
theo thói quen, hay là để che đậy con người thật của mình? Nếu chúng ta đón
Chúa vào tâm hồn của chúng ta mà chưa nhận thấy hạnh phúc và vui mừng, cũng như
không có một sự thôi thúc tình mến đối với tha nhân thì cần phải biết cầu nguyện.
Chính khi chúng ta cầu nguyện chân thành với Chúa. Chúa sẽ đến thật sự trong
tâm hồn chúng ta, Ngài sẽ biến đổi chúng ta tốt hơn, biết yêu mến tha nhân hơn,
và luôn muốn đem niềm vui đến với mọi người. Hãy học với Đức Mẹ Maria trong
cung cách viếng bà Ê-li-sa-bét, để sống gần nhau hơn.
Mạnh Phương
*****************************************
Gương Thánh Nhân
Ngày 21-12: Thánh PHÊRÔ
CANISIÔ
Linh Mục Tiến Sĩ Hội Thánh
(1521 - 1579)
Thánh tiến sĩ Phêrô Canisiô thường
được gọi là vị tông đồ thứ hai của nước Đức. Ngài chào đời 8 ngày tháng 5 năm
1521 tại Nijmegen. Cha Ngài là người công giáo, 9 lần làm thị trưởng Nijmegen.
Ông gửi Ngài tới phại học Cologne lúc Ngài 15 tuổi. Nơi ấy Ngài gặp
được một vị linh mục trẻ thánh thiện Nicolaus van Esch. Chính vị linh mục này
đã đưa Canisiô vào nhóm người trung thành với công giáo được hình thành để chống
lại Hermann van Wied, vị tổng giám mục đã sang hàng ngũ Luthêrô.
Canisiô được nhóm chọn để tiếp
xúc với hoàg đế và tổng giám mục, và việc thoái vị của tổng giám mục đã tránh
cho người công giáo Phineland một thảm họa. Ít lâu sau đó, Canisiô gặp được
chân phước Phêrô Faber, một trong các bạn tiên khởi của thánh Inhaxiô và được
hướng dẫn linh thao. Trong cuộc tĩnh tâm này, Ngài đã tìm được giải đàp cho vấn
nạn Ngài tự đặt cho mình làm sao phụng sự Chúa tốt đẹp nhất và nâng đỡ Giáo hội
công giáo đang bị tấn công ?
Ngài gia nhập dòng Tên, thụ
phong linh mục năm 1546 và sớm lừng danh do việc ấn hành các tác phẩm của thánh
Cyrillô thành Giêruslem và của thánh Leo cả. Năm 1547 Ngài tham dự công đồng
Tridentinô như là đại diện của giám mục Augsburg.
Năm 1549, Ngài được gọi về Roma
và lãnh nhận trách nhiệm truyền giáo cho nước Đức, điều sẽ trở thành công trình
của đời Ngài. Trong cuộc chinh phục của bá tước Bavaria, Canisiô và hai
cha dòng Tên khác được chọn để dạy thần học tại đại học Ingolstadt. Chẳng
bao lâu, Ngài được đặt làm viện trưởng đại học, rồi sau đó, do sự can thiệp của
vua Ferdinand, Ngài được gởi đi thi hành cũng một nhiệm vụ tại đại học Vienna,
Ngài thành công mỹ mãn đến nỗi nhà vua đã cố đưa Ngài lên chức tổng giám mục. Dầu
đã từ chối vinh dự này, Ngài cũng được gọi để quản nhiệm địa phận trong khoảng
một năm.
Vào thời kỳ này, tức năm 1555, Ngài đã cho ra cuốn "giáo lý" thời danh, một trong những phụng vụ lớn lao nhất của Ngài cho Giáo hội. Với lối trình bày trong sáng và bình dị giáo thuyết công giáo, cuốn sách này đáp ứng nhu cầu và chống lại sức tàn phá do cuốn "giáo lý" của Luthênô. Tính cho đến cuối thế kỷ XVII, cuốn sách được xuất bản hơn 400 lần và được chuyển dịch sang 15 ngôn ngữ.
Vào thời kỳ này, tức năm 1555, Ngài đã cho ra cuốn "giáo lý" thời danh, một trong những phụng vụ lớn lao nhất của Ngài cho Giáo hội. Với lối trình bày trong sáng và bình dị giáo thuyết công giáo, cuốn sách này đáp ứng nhu cầu và chống lại sức tàn phá do cuốn "giáo lý" của Luthênô. Tính cho đến cuối thế kỷ XVII, cuốn sách được xuất bản hơn 400 lần và được chuyển dịch sang 15 ngôn ngữ.
Từ Vienna, Canisiô qua Bohemia là
nơi Giáo hội ở trong điều kiện tuyệt vọng. Chống lại, Ngài đã thiết lập một học
viện ở Praha, sau trở thành đạihọc. Năm 1556, được đặt làm giám tỉnh miền nam
nước Đức, Ngài lập trường học cho trẻ em tại 6 thành phố và tự nhận trách vụ
cung ứng cho nước Đức các linh mục được đào luyện tốt. Thực hiện điều này Ngài
thiết lập các chủng viện và gửi người trẻ đi tu nghiệp thường xuyên ở Roma.
Du hành trong nước Đức, thánh Canisiô không ngừng rao giảng lời Chúa. Trước hết, Ngài tiếp xúc với những người lãnh đạm hay thù nghịch. Nhưng lòng nhiệt thành và sự thông hiểu của Ngài quá rõ đến nỗi đám đông kéo đến chật ních các nhà thờ để nghe giảng. Trong 7 năm liền, Ngài là người giảng thuyết chính thức của nhà thờ chính toà Augsburg và được coi như vị tông đồ của thành phố này. Mỗi khi qua một nhà thờ miền quê vắng bóng chủ chăn, Ngài thường dừng lại để giảng dạy và ban các phép bí tích.
Du hành trong nước Đức, thánh Canisiô không ngừng rao giảng lời Chúa. Trước hết, Ngài tiếp xúc với những người lãnh đạm hay thù nghịch. Nhưng lòng nhiệt thành và sự thông hiểu của Ngài quá rõ đến nỗi đám đông kéo đến chật ních các nhà thờ để nghe giảng. Trong 7 năm liền, Ngài là người giảng thuyết chính thức của nhà thờ chính toà Augsburg và được coi như vị tông đồ của thành phố này. Mỗi khi qua một nhà thờ miền quê vắng bóng chủ chăn, Ngài thường dừng lại để giảng dạy và ban các phép bí tích.
Dường như Ngài không thể nào kiệt
sức được. Ngài nói với vài người đã tố cáo Ngài làm việc quá độ rằng: - "Nếu
bạn phải làm việc quá nhiều, với sự trợ lực của Chúa, bạn sẽ tìm giờ để làm cho
hết".
Một hình thức tông đồ khác là viết
thơ. Các pho sách in thư từ của Ngài dày hơn cả ngàn trang giấy. Như thánh
Bernardô Clairvaux, Ngài dùng phương tiện này để khích lệ, quở trách và hướng dẫn
mọi hạng người. Theo nhu cầu của cả Giáo hội hay của từng cá nhân đòi hỏi. Ngài
đã viết thư cho Đức Thánh cha, cho nhà vua, cho các giám mục, cho các hoàng tử,
cho linh mục và giáo dân. Nơi nào thư từ không đủ, Ngài đưa ra một sức mạnh do ảnh
hưởng cá nhân. Chẳng hạn trong một cuộc họp giữa công giáo và Thệ phản ở Worms
năm 1556, đã phải nhờ đến ảnnh hưởng của Ngài; mà người công giáo mới có thể hiệp
nhất chống lại những mời mọc của Thệ phản để thỏa hiệp với những điều thuộc về
nguyên tắc.
Ở Balan năm 1558, Ngài đã kiểm
soát được một đe dọa mới chớm nở đối với niềm tin cổ truyền của xứ sở. Và trong
cùng một năm ấy, Ngài đã nhận được lời cám ơn của Đức Piô IV về tài ngoại giao
của Ngài trong việc hàn gắn sự bất hoà giữa Đức Thánh Cha và hoàng đế. Năm
1561, Ngài được trao phó để công bố các sắc lệnh của công đồng Tridentinô tại
nước Đức.
Ít lâu sau, Ngài được kêu gọi để
trả lời cho cuốn Kenturies của Magdeburg. Tác phẩm đầu tiên và tồi tệ nhất của
lịch sử "Thệ phản giáo" tấn công Giáo hội công giáo trong mức độ rông
rãi và những bóp méo lịch sử đòi nhiều người mới có thể trả lời đầy đủ được. Dầu
vậy, thánh Canisiô đã vạch ra đường lối với hai tác phẩm của Ngài là: - "Lịch
sử thánh Gioan Tẩy giả" và "Đức trinh nữ Maria khôn sánh"
Từ năm1580 tới khi qua đời năm
1597, Ngài đã cực nhọc và đau khổ nhiều ở Thụy Sĩ. Sáu năm cuối, Ngài nhẫn nại
chịu dựng và cầu nguyện lâu giờ tại học viện Fribourg, vì bây giờ, sức khỏe tàn
tạ không cho phép Ngài có thể hoạt động tích cực nữa.
Chẳng bao lâu sau khi Ngài qua đời,
ngày 21 tháng 12 năm 1597 mộ Ngài đã được tôn kính. Nhiều phép lạ đã diễn ra nhờ
lời chuyển cầu của Ngài. Ngài là duy nhất đã được tuyên thánh và tuyên dương
làm tiến sĩ Hội Thánh vào cùng một ngày, ngày 21 tháng 6 năm 1925.
(daminhvn.net)
21
Tháng Mười Hai
Rạn Nứt Trong Tâm Hồn
Một
ông vua giàu có nọ rất keo kiệt và hà khắc đối với thần dân. Thành ra, tất cả
mọi người đều oán ghét ông.
Một
hôm ông ra lệnh cho quan tể tướng tiến hành việc thu thuế hằng năm. Nhưng quan
tể tướng cho biết: "Năm nay mùa màng hư hại, dân chúng đang chết đói, họ
không thể nào nộp thuế được".
Nhưng
nhà vua vẫn một mực cho tiến hành việc thu thuế và yêu cầu quan tể tướng dùng
tất cả tiền thuế để sửa sang cung điện và nội thành. Quan tể tướng đi một vòng
xung quanh cung điện, nơi nào cũng có sự rạn nứt, nhưng sự rạn nứt sâu xa hơn
vẫn là sự bất mãn và ta thán của người dân.
Thế
là, năm đó, thay vì tiến hành lệnh của vua, quan tể tướng đã cho người đi khắp
nơi và loan báo như sau: "Năm nay, nhà vua miễn thuế cho tất cả mọi
người". Nghe thế, ai cũng vui mừng vỡ lở. Khắp nơi, tuy đói kém, ai ai
cũng làm tiệc ăn mừng.
Trở
lại triều đình, quan tể tướng thông cáo với nhà vua rằng với số tiền thu thuế
được, ông đã cho làm những tu sửa cần thiết nhất.
Ngày
hôm sau, quan tể tướng mời nhà vua và đoàn tùy tùng đi tham quan một vòng xung
quanh những nơi mà ông báo cáo đã được tu sửa. Vừa ra khỏi cung điện, nhà vua
đã được dân chúng tung hô vạn tuế không dứt lời. Nhìn đám đông vui mừng phở lở,
nhà vua mới quay sang quan tể tướng để hỏi lý do của ngày hội này. Quan tể
tướng mới giải thích như sau: "Tâu bệ hạ, ngày lễ hôm nay được tổ chức là
để đánh dấu những tu sửa quan trọng trong cung điện. Trước khi tiến hành việc
thu thuế, hạ thần đã đi tham quan một vòng, hạ thần nhận thấy rằng những rạn
nứt đáng kể nhất không phải là những rạn nứt trên tường thành của cung điện mà
chính là trong lòng người dân. Người dân không thể vui mừng được vì từ bao lâu
nay, họ không còn thấy được lòng tốt nữa. Ðó là lý do đã khiến hạ thần tuyên bố
miễn thuế cho họ trong năm nay".
Nghe
thế, nhà vua mới sực tỉnh lại và nhận ra thái độ keo kiệt hà khắc của ông. Ông
nhìn xuống đám đông dân chúng đang hân hoan vẫy chào, lòng ông cảm thấy xúc động.
Lần đầu tiên, người ta thấy nụ cười của vui tươi và yêu thương nở trên môi ông.
Người
Việt Nam chúng ta có lẽ đã quá quen thuộc với hai chữ đổi mới. Năm kia qua
tháng nọ, lúc nào người ta cũng hô hào "đổi mới", nhưng đâu vẫn vào
đó: đói khổ vẫn còn đó, dốt nát vẫn còn đó, lạc hậu vẫn còn đó, tù đày khốn khổ
vẫn còn đó... Ðiều đó xem ra cũng dễ hiểu, người ta chỉ vá víu để hàn gắn những
rạn nứt bên ngoài, còn rạn nứt thâm sâu nhất là rạn nứt trong tâm hồn mình, thì
người ta không bao giờ nghĩ tới.
"Ðổi
mới" là trọng tâm của sứ điệp Kitô Giáo chúng ta. Khai mở sứ vị công khai
của Ngài, Chúa Giêsu đã kêu gọi: "Hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng".
Sự hoán cải mà Chúa Giêsu đề ra là hoán cải tâm hồn, hoán cải con tim, hoán cải
tư duy, hoán cải cái nhìn.
Sự
hoán cải ấy không phải là công việc của một ngày, một tháng, một năm, mà là
công trình của cả một cuộc đời. Bao lâu còn mang lấy danh hiệu Kitô, thì bấy
lâu người tín hữu vẫn còn được mời gọi để hoán cải.
Sự
hoán cải ấy cũng không chỉ là cố gắng riêng tư của người tín hữu mà là tác động
của chính Chúa. Chính Ngài mới có thể tác tạo cho con người một trái tim mới,
một quả tim biết yêu thương. Sự đổi mới mà người tín hữu Kitô không ngừng đeo
đuổi trong cả cuộc sống của mình chính là cuộc gặp gỡ kỳ diệu giữa những cố
gắng riêng tư của mình và sự tác tạo của Chúa.
Lẽ
Sống
Lectio Divina: Luca 1:39-45
Thứ Tư, 21 Tháng 12, 2016
Tuần thứ tư Mùa Vọng
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa, chúng con thường có xu
hướng vong thân
Trong sự nhộn nhịp và tất bật của
đời sống
Trong công việc và những lo lắng
vặt vãnh của chúng con.
Xin Chúa ban cho chúng con sự
tươi mát của tâm hồn
Để đi tìm những việc quan trọng,
Những ai làm cho cuộc sống của
chúng con sâu sắc tình người
Và cùng lúc xin mở lòng chúng
con
Đến thế giới của Chúa và đến những
giá trị của Chúa.
Xin Chúa ban cho chúng con biết
mong ước gặp gỡ Chúa với niềm hân hoan,
Để chúng con có thể khám phá một
lần nữa phẩm chất ưu tú
Của việc cho đi nhưng không, của
sự tôn trọng,
Và của tình yêu vô tư, bất vị kỷ,
Nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng
con.
2. Phúc Âm – Luca
1:39-45
Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã
đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa.
Bà vào nhà ông Giacaria và chào
bà Êlisabéth, và khi bà Êlisabéth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng
trong lòng bà, và bà Êlisabéth được đầy Chúa Thánh Thần.
Bà kêu lớn tiếng rằng: “Bởi
đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa
nghe lời bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho bà
là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán cùng bà sẽ được thực hiện.”
3. Suy Niệm
- Thánh Luca nhấn mạnh đến lòng sẵn sàng của Đức
Maria trong sự phục vụ, trong việc là một nữ tỳ. Thiên
thần Chúa nói về việc mang thai của bà Êlisabéth, và ngay lập tức, Đức Maria chỗi
dậy và vội vã nhanh chóng ra đi để giúp đỡ bà Êlisabéth. Từ thành
Nagiarét đến nhà của bà Êlisabéth tối thiểu dài hơn một trăm cây số, bốn ngày
đường! Thời ấy không có xe buýt, cũng chẳng có xe lửa. Thay
mặt cho Dân riêng của Chúa, Đức Maria bắt đầu phục vụ và hoàn
thành sứ vụ của bà.
- Bà Êlisabéth đại diện cho Cựu Ước đã sắp sửa
kết thúc. Đức Maria đại diện cho Tân Ước. Cựu Ước đón nhận
Tân Ước với lòng biết ơn và tin tưởng, nhận ra trong đó có món quà cho không của
Thiên Chúa sắp sửa được thực hành và sẽ hoàn thành lòng kỳ vọng của mọi người. Trong
cuộc gặp gỡ của hai người phụ nữ được bày tỏ với món quà của Chúa Thánh Thần. Hài
nhi nhảy mừng trong cung lòng bà Êlisabéth. Đây là bài đọc về đức
tin mà bà Êlisabéth thực hành những việc trong cuộc sống.
- Tin Mừng của Thiên Chúa mặc khải sự hiện diện
của mình trong hầu hết những việc thường ngày của đời sống nhân loại: hai
bà nội trợ thăm viếng để cùng giúp đỡ nhau. Chuyện thăm hỏi, vui mừng,
việc thai nghén, chuyện con cái, giúp đỡ lẫn nhau, chuyện nhà cửa, gia
đình: thánh Luca muốn chúng ta và cộng đoàn cảm nhận chính xác điều
này và để chúng ta khám phá ra có sự hiện diện của Thiên Chúa trong đó.
- Bà Êlisabéth nói với Đức Maria: “Bà
có phúc hơn mọi người nữ, và con lòng bà cũng đầy ơn phúc!” Cho đến
ngày nay, những lời này đã tạo thành một phần của bài Thánh Thi nổi tiếng nhất
và được cầu nguyện nhiều nhất trên toàn thế giới: “Kinh Kính Mừng”.
- “Và phúc cho bà là kẻ đã tin rằng Lời
Chúa phán cùng bà sẽ được thực hiện.” Đây là lời ca ngợi của bà
Êlisabéth với Đức Maria và là sứ điệp của thánh Luca cho cộng đoàn: tin
tưởng vào Lời Chúa, vì Lời Chúa có quyền lực thực hiện tất cả những gì mà Lời ấy
nói với chúng ta. Đó là một lời sáng tạo. Nó tạo ra đời sống
mới trong cung lòng Đức Trinh Nữ, trong cung lòng của những người nhận nó với đức
tin.
- Đức Maria và bà Êlisabéth đã biết nhau từ trước. Nhưng
trong cuộc gặp gỡ này, họ khám phá ra, trong người nọ lẫn người kia, một mầu
nhiệm mà họ chưa được biết, và làm lòng họ tràn đầy niềm vui mừng khôn xiết. Ngày
nay cũng vậy, chúng ta gặp được những người làm chúng ta ngạc nhiên bởi vì sự
khôn ngoan họ có được và là chứng tá của đức tin mà họ đưa ra. Điều
tương tự đã có bao giờ xảy ra với bạn chưa? Bạn đã có bao giờ gặp được
những người mà làm bạn ngạc nhiên không? Điều gì đã ngăn trở chúng
ta khám phá ra và sống với niềm vui của sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống
chúng ta?
- Thái độ của Đức Maria trước Ngôi Lời biểu tỏ
ý tưởng mà thánh Luca muốn thông tri cùng với cộng đoàn: đừng tự
đóng khung trong chính mình, mà hãy bước ra khỏi cái vỏ của mình, hãy chú ý đến
các nhu cầu cụ thể của những người khác và cố gắng giúp đỡ tha nhân càng nhiều
càng tốt theo nhu cầu của họ.
4. Một vài câu hỏi
gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
- Bạn hãy đặt mình vào trường hợp của Đức Maria
và bà Êlisabéth: tôi có đủ khả năng để cảm nhận và trải nghiệm được
sự hiện diện của Thiên Chúa trong những việc đơn giản và bình thường nhất trong
đời sống mỗi ngày không?
- Lời ca ngợi của bà Êlisabéth với Đức
Maria: “Bà đã tin!” Chồng bà Êlisabéth đã gặp khó khăn
khi tin vào những gì thiên thần đã nói với ông. Và còn tôi thì sao?
5. Lời nguyện kết
Tâm hồn chúng tôi đợi trông
Chúa,
Bởi Người luôn che chở phù trì.
Vâng, có Người, chúng tôi mừng rỡ,
Vì hằng tin tưởng ở Thánh Danh.
(Tv 33:20-21)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét