Trang

Thứ Hai, 5 tháng 12, 2016

06-12-2016 : THỨ BA TUẦN II MÙA VỌNG

06/12/2016
Thứ Ba tuần 2 mùa vọng

Bài Ðọc I: Is 40, 1-11
"Thiên Chúa an ủi dân Người".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Chúa ngươi phán: Hỡi dân Ta, hãy an tâm, hãy an tâm! Hãy nói với Giêrusalem, và kêu gọi rằng: Thời nô lệ đã chấm dứt, tội lỗi đã được ân xá, Chúa đã ban ơn nhiều gấp hai lần tội lỗi.
Và có tiếng kêu trong hoang địa rằng: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa chúng ta trong hoang địa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và vinh quang Chúa sẽ xuất hiện, mọi người sẽ được thấy vinh quang Thiên Chúa, vì Ngài đã phán. Có tiếng bảo: "Hãy hô lên!", và tôi nói: "Tôi sẽ hô lên điều gì?" Mọi xác phàm như cỏ dại; mọi vinh quang của nó đều như hoa ngoài đồng. Cỏ dại đã khô, hoa đã tàn, vì hơi Chúa đã thổi trên chúng. Vì chưng, dân là cỏ dại: Cỏ dại đã khô, hoa đã tàn, mà lời Chúa chúng ta tồn tại đến muôn đời.
Hỡi ngươi là kẻ đem tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao. Hỡi ngươi là kẻ đưa tin mừng cho Giêrusalem, hãy mạnh dạn cất tiếng. Hãy cất tiếng cao, đừng sợ! Hãy nói cho các dân thành thuộc chi họ Giuđa rằng: Ðây Thiên Chúa các ngươi, đây Chúa là Thiên Chúa các ngươi sẽ đến trong quyền lực, và cánh tay Người sẽ thống trị. Người mang theo những phần thưởng chiến thắng, và đưa đi trước những chiến lợi phẩm. Người chăn dắt đoàn chiên Người như một mục tử. Người ẵm những chiên con trên cánh tay, ôm ấp chúng vào lòng, và nhẹ tay dẫn dắt những chiên mẹ.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 95, 1-2. 3 và 10ac. 11-12. 13
Ðáp: Thiên Chúa chúng ta sẽ đến trong uy quyền (Is 40, 9-10).
Xướng: 1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người. - Ðáp.
2) Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. Hãy công bố giữa chư dân rằng: Thiên Chúa ngự trị, Người cai quản chư dân theo đường đoan chính. - Ðáp.
3) Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan. Biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên; đồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui. - Ðáp.
4) Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở, trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh và chư dân cách chân thành. - Ðáp.

Alleluia: Lc 3, 4. 6
Alleluia, alleluia! - Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng; và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 18, 12-14
"Chúa không muốn những kẻ bé nhỏ phải hư đi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con nghĩ sao? Nếu ai có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao? Nếu người đó tìm được, thì quả thật, Thầy bảo các con, người đó sẽ vui mừng vì con chiên đó hơn chín mươi chín con chiên không thất lạc. Cũng vậy, Cha các con ở trên trời không muốn để một trong những kẻ bé nhỏ này phải hư đi".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Phải Tha Thứ Luôn Luôn
Sống ở trên đời, ai cũng mong ước mình gặp được nhiều sung túc, hạnh phúc và nhất là gặp được nhiều may mắn thành công. Ai cũng muốn là mình gặp được mối tình thông cảm cho đến đỉnh cao của tiền tài, danh vọng. Ai cũng sợ thất bại, sợ gian khổ cùng cực cất đầu không lên được với những người xung quanh. Dù rằng ai cũng tự an ủi mình bằng câu: "Thất bại là mẹ thành công". Ðau khổ nhiều, con người mới thấy giá trị đích thực của hạnh phúc. Có gian nan vất vả nhiều, con người mới cảm thấy giá trị của đau khổ, mới đánh giá chính xác về sự thành công từ những nhẫn nhục, chịu đựng, âm thầm làm việc sau bao nhiêu ngày tháng. Nếu như con người từ nhỏ đến lớn sống hoàn hảo như một vị thánh, người ấy chưa chắc đã cảm thấy mình hạnh phúc nếu không phải là người đặc biệt Thiên Chúa gìn giữ. Vì thế theo thông thường chúng ta không ai thoát khỏi những lầm lỗi, không khía cạnh này thì vướng mắc khía cạnh khác, không nặng thì nhẹ, không phải khuyết điểm lầm lỗi nặng hay nhẹ, cố tình hay vô tình nhưng quan trọng là chúng ta có nhận ra được khuyết điểm sai lỗi của chính mình hay không? Và khi nhận ra được khuyết điểm sai lỗi ấy, chúng ta có sửa đổi, rút kinh nghiệm cho lần sau hay không?
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: "Nếu ai trong các ngươi có một trăm con chiên mà bị lạc mất một con thì người đó không bỏ chín mươi chín con trên núi để đi tìm con chiên lạc ấy sao?" Ðó là điều an ủi cho chúng ta, vì khi lầm lỗi, con người thường ít khi tha thứ hoặc có tha thứ cho nhau thì vẫn có thành kiến không tốt về người đó, nghĩa là chúng ta có ý nghĩ không tốt, bớt sự niềm nở tự nhiên trước đó.
Từ thái độ đó thường làm cho người có lỗi mang một tâm trạng tự ti mặc cảm, vì dù sao đi nữa thì trong tâm trạng đó con người cũng không có cái nhìn hồn nhiên, vui vẻ lạc quan yêu đời như trước khi họ chưa lầm lỗi. Khi đã sống trong tình trạng nghi kỵ lẫn nhau, nhìn nhau không thân thiện, chúng ta sẽ mắc vào một câu nói của một triết gia nọ: "Tha nhân là hỏa ngục của tôi". Ai cũng nhìn nhau bằng cặp mắt hận thù, ganh tị, hững hờ, chê bai lẫn nhau. Bao nhiêu cặp mắt hận thù, ganh tị, hững hờ, chê bai lẫn nhau. Bao nhiêu cặp mắt hình như cứ soi mói vào chúng ta, xét xem để rồi bắt lỗi chúng ta thì chẳng hỏa ngục là gì? Có bị như thế chúng ta mới cảm nghiệm được tình yêu bao la dung thứ của Thiên Chúa đối với chúng ta hôm nay: "Người chăn chiên sẽ bỏ chín mươi chín con trên núi để đi tìm con chiên lạc, khi tìm được rồi người chăn chiên sẽ vui mừng vì con chiên đó hơn chín mươi chín con chiên không bị lạc".
Thiên Chúa đã dạy chúng ta không những phải tha thứ cho nhau bảy lần mà là bảy mươi lần bảy, nghĩa là phải tha thứ luôn luôn. Và trong một đoạn Tin Mừng khác Chúa Giêsu nói: "Nếu trong một ngày người anh em con phạm đến con bảy lần và bảy lần người ấy đến nói với con rằng tôi hối hận thì con cũng phải tha cho nó". Khi thấy điều đó khó thực hiện được nên người môn đệ của Chúa đã thưa: "Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con". Ðó là Lời Chúa nhắn nhủ dạy bảo chúng ta, còn đối với Thiên Chúa Ngài càng phải khoan dung tha thứ hơn, yêu thương chúng ta nhiều hơn nữa bằng một tình thương tha thứ vô cùng.
Trong dụ ngôn "Người Con Hoang Ðàng Trở Về" sau những tháng ngày ăn chơi trác táng thì bấy giờ nó suy nghĩ và thành tâm ăn năn thống hối trở về để xin cha tha thứ. Nhưng khi nhìn thấy con từ đàng xa, chưa kịp nghe con nói lên lời xin lỗi thì người cha đã bảo gia nhân đem áo mặc cho cậu, lấy nhẫn đeo vào tay cậu. Qua những cử chỉ yêu thương mặn nồng như thế đã nói lên tình thương của cha vẫn luôn luôn yêu thương con cái và người cha vẫn coi cậu như người con trong nhà. Vì thế, ông nói với gia nhân hãy làm thịt con bê béo để mừng con đã chết nay được sống lại. Tình thương của người cha bao la đã bỏ qua tất cả mọi lỗi lầm của đứa con hoang đàng trở về.
Trong đoạn Tin Mừng nói về một người mắc nợ ông vua như sau: Có một người mắc nợ ông vua kia đến mười ngàn nén bạc nhưng anh không có gì để trả nợ. Chủ ra lệnh bán anh và vợ con cùng tất cả gia sản anh để trả nợ. Anh liền sấp mình xuống dưới chân chủ mà van lơn: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn rồi tôi sẽ trả cho ngài tất cả". Người chủ động lòng thương trả tự do và tha nợ cho anh ta. Khi ra về anh ta gặp một người bạn mắc nợ anh ta một trăm nén bạc, anh ta tóm lấy bóp cổ người ấy mà nói:Hãy trả nợ cho ta, khi ấy người bạn sấp mình dưới chân và nói: Cho tôi khất một kỳ hạn. Nhưng anh ta không nghe, bắt người bạn đó tống giam vào ngục cho đến khi trả xong nợ. Người xung quanh thấy cảnh tượng thương tâm đó thuật lại với người chủ và người chủ đã bắt trao anh cho lý hình hành hạ cho đến khi trả hết nợ một ngàn nén bạc của anh.
Chúng ta đôi khi cũng thế, lòng Chúa khoan dung yêu thương, tha thứ cho chúng ta không biết bao nhiêu, vậy mà đối với anh em ta lại xét nét, chê bai, xử tệ, không tha thứ cho nhau dù chỉ là những lầm lỗi không đáng kể gì trước mặt Chúa là người Cha đầy tình thương dung thứ.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con cảm nhận được lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa để chúng con đáp lại tình thương nhỏ bé của chúng con đối với Ngài. Xin Chúa cho chúng con biết tha thứ cho nhau không những bảy lần nhưng là bảy mươi lần bảy, nghĩa là tha thứ cho nhau luôn luôn trong suốt cuộc sống. Amen.
Veritas Asia



Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba, Tuần II MV, Năm Lẻ
Bài đọc: Isa 40:1-11; Mt 18:12-14.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tha thứ
Con người thường có khuynh hướng yêu những người đáng yêu và lọai bỏ những người đáng ghét; nhưng nếu con người cứ theo khuynh hướng này, thì chẳng mấy chốc con người sẽ hết người để yêu, vì người nào cũng là tập hợp của cả cái đáng yêu và cái đáng ghét. Một tình yêu chân thật đòi mọi người phải biết yêu thương tha thứ cho tha nhân như Thiên Chúa luôn yêu thương tha thứ cho con người.
Các Bài đọc hôm nay đều xoay quanh chủ đề yêu thương và tha thứ. Trong Bài đọc I, Tiên Tri Isaiah ví Thiên Chúa như Mục Tử: Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đặt câu hỏi cho khán giả: “Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao?” Một con chiên lạc có thể không gây sự quan tâm cho con người, nhưng là một quan tâm cho Thiên Chúa. Chúa Giêsu chính là Mục Tử Tốt Lành, Ngài xuống trần để tìm những chiên lạc về cho Thiên Chúa.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Mọi người đã xúc phạm đến Thiên Chúa.
1.1/ Dân chúng bị lưu đày vì đã xúc phạm đến Thiên Chúa: Đền Thờ bị phá hủy, Thành Jerusalem bị san phẳng, vua quan và dân chúng bị lưu đày vì đã phạm tội và khinh thường những lời Chúa cảnh cáo qua các tiên tri. Chúa có quyền ngỏanh mặt để kẻ thù trừng trị đích đáng dân phản nghịch; nhưng Ngài không nỡ để dân phải chết, vì Ngài là Thiên Chúa yêu thương. Ngài phải sửa phạt để thanh luyện tội lỗi, nhưng luôn quan tâm và gởi các sứ giả đến khích lệ dân trong thời gian lưu đày, như trình thuật của Tiên Tri Isaiah hôm nay: “Thiên Chúa anh em phán: "Hãy an ủi, an ủi dân Ta: Hãy ngọt ngào khuyên bảo Jerusalem, và hô lên cho Thành: thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong, vì Thành đã bị tay Đức Chúa giáng phạt gấp hai lần tội phạm."” Thành ở đây là Jerusalem, được nhân cách hóa để chỉ Israel.
1.2/ Tội sẽ được tha nếu dân biết ăn năn xám hối:
(1) Dân phải chuẩn bị đường cho Chúa tới: Vì dân đã phạm tội nên Thiên Chúa rời xa họ. Để được Thiên Chúa trở lại, họ phải thanh tẩy mọi tội lỗi đã xúc phạm đến Ngài; vì Thiên Chúa là Đấng Thánh Thiện, Ngài không thể ở trong những tâm hồn tội lỗi. Thiên Chúa gởi sứ giả của Ngài tới tận nơi lưu đày để kêu gọi và giúp dân ăn năn trở lại. TT Isaiah tường thuật: “Có tiếng hô: "Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu. Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng Đức Chúa đã tuyên phán."”
(2) Tội nặng nhất là tội không biết kính sợ Thiên Chúa: Trong hầu hết các Sách Khôn Ngoan, các tác giả đều tuyên xưng: “Kính sợ Đức Chúa là nguồn gốc mọi khôn ngoan.” Vì thế, không biết kính sợ Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi điên rồ. Đọan văn kế tiếp nói lên sự rồ dại của con người: “Có tiếng nói: "Hãy hô lên!" Tôi thưa: "Phải hô lên điều gì?" "Người phàm nào cũng đều là cỏ, mọi vẻ đẹp của nó như hoa đồng nội. Cỏ héo, hoa tàn khi thần khí Đức Chúa thổi qua. Phải, dân là cỏ: cỏ héo, hoa tàn, nhưng lời của Thiên Chúa chúng ta đời đời bền vững."”
Con người là cỏ hoa mà nghĩ mình sống không cần đến Thiên Chúa. Ngay từ đầu Sách, Tiên Tri đã kết án sự rồ dại này, và coi dân phản nghịch còn thua lòai bò lừa: “Trời hãy nghe đây, đất lắng tai nào, vì Đức Chúa phán: "Ta đã nuôi nấng đàn con, cho chúng nên khôn lớn, nhưng chúng đã phản nghịch cùng Ta. Con bò còn biết chủ, con lừa còn biết cái máng cỏ nhà chủ nó. Nhưng Israel thì không biết, dân Ta chẳng hiểu gì” (Isa 1:2-3).
1.3/ Thiên Chúa sẽ đón nhận và chăn dắt dân nếu họ biết ăn năn trở lại: Thời gian Lưu Đày là thời gian thuận tiện để Israel biết ăn năn xét mình, và nhận ra họ không thể sống mà không có sự hiện diện của Thiên Chúa. Khi họ biết phục tùng Thiên Chúa, Ngài sẽ làm cho họ những điều mà họ không bao giờ ngờ tới; vì Ngài nắm trong tay mọi chủ quyền. Tiên Tri Isaiah nhìn thấy trước 2 điều sẽ xảy ra khi dân biết ăn năn trở lại:
(1) Tương lai gần: Chúa sẽ cho dân hồi hương để tái thiết lại Đền Thờ và xứ sở: “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao. Hỡi kẻ loan tin mừng cho Jerusalem, hãy cất tiếng lên cho thật mạnh. Cất tiếng lên, đừng sợ, hãy bảo các thành miền Judah rằng: “Kìa Thiên Chúa các ngươi!" Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền. Bên cạnh Người, này công lao lập được, trước mặt Người, đây sự nghiệp làm nên.”
(2) Tương lai xa: Chúa sẽ gởi Đấng Thiên Sai đến để cai trị dân Ngài: “Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt.”
2/ Phúc Âm: Cha của anh em không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.
Con người có thể đặt câu hỏi: Làm sao Thiên Chúa có thể biết và quan tâm đến tất cả mọi người trong thế giới này? Chỉ trong 3 câu ngắn ngủi của Tin Mừng Matthêu, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy quyền năng và sự quan tâm của Thiên Chúa đến tất cả mọi người.
2.1/ Thiên Chúa luôn tìm kiếm, dù chỉ một con chiên lạc: Chúa Giêsu đặt câu hỏi với con người: "Anh em nghĩ sao? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao?” Đối với con người, một con chiên lạc không đáng kể gì, vì vẫn còn 99 con chiên khác; nhất là đối với những con chiên không chịu vâng lời, cố tình đi lạc. Nhưng đối với Thiên Chúa, Ngài để 99 con chiên lại để đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được.
2.2/ Ngài vui mừng khi tìm thấy con chiên lạc: Không những đi tìm con chiên lạc, “và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc. Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thế giới hôm nay đề cao chủ nghĩa cá nhân: chỉ quan tâm đến những gì ích lợi cho mình, và gạt bỏ những gì gây gánh nặng cho cuộc sống: người già, bệnh nhân, kẻ thù. Nếu Thiên Chúa cũng lọai bỏ như con người, làm sao chúng ta có cơ hội được cứu độ?
- Như lời Kinh Lạy Cha chúng ta đọc hằng ngày: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con;” chúng ta phải tha thứ cho nhau trước khi xứng đáng được Thiên Chúa tha thứ.
- Cách tốt nhất để dễ tha thứ cho tha nhân là năng lãnh nhận Bí-tích Hòa Giải. Mỗi khi xét mình trước khi xưng tội, chúng ta nhận ra rất nhiều cái đáng ghét nơi con người của mình. Điều này làm chúng ta nhìn lỗi lầm của tha nhân với lòng bao dung hơn, vì họ cũng yếu đuối tội lỗi như mình. Người không năng xét mình xưng tội rất dễ kết án tha nhân, vì họ tưởng mình không có tội.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

06/12/16 TH BA TUN 2 MV
Th. Ni-cô-la, giám mụ 
Mt 18,12-14

Suy nim: Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót kết thúc nhưng hn bn vn chưa quên khu hiu “Misericordes Sicut Pater” (Thương Xót Như Chúa Cha) cùng vi biu tượng Chúa Giê-su vác trên vai mt con người trông như đang vác con chiên, hai con người nhưng ch có ba con mt. Đó là “ánh mt đy yêu thương ca Chúa” đã giúp Da-kêu, Mát-thêu, Ma-đa-lê-na đi đi, đã đánh đng tâm hn ca Phê-rô và bao người lm đường lc li được ơn hoán ci. Ánh mt bc l tm lòng thương xót ca Chúa Cha trên tri “không mun mt ai phi hư mt”. Chúng ta cũng phi nhìn nhau bng “con mt th ba,” nhìn nhau bng cái nhìn ca Chúa, cái nhìn yêu thương tha th, cái nhìn cm thông, qung đi, và t ánh mt đó, chúng ta sn sàng bng hành đng dn thân phc v.
Mi Bn: Mùa Vng, mùa trông đi Chúa đến. Ch khi chúng ta yêu mến ai, chúng ta mi mong đi người đó đến. Chúa Cha yêu thương luôn yêu thương đi tìm kiếm và đem nhng người con đi xa lc tr v, chúng ta cũng phi sn sàng m lòng mình ra đ đón nhn lòng thương xót ca Chúa, đng thi cũng m lòng ra vi anh em đ cùng vi h quay tr v vi Chúa.
Sng Li Chúa: Nhìn bng “ánh mt ca Chúa, tc là đi x vi nhau bng lòng nhn ni và bao dung.
Cu nguyn: Ly Chúa Cha đy yêu thương, bao lâu chúng con lc xa Cha là by lâu Cha tìm kiếm chúng con. Cha đau bun khi thy chúng con chìm sâu trong bóng ti ti li. Cha ban cho chúng con Người Con Mt đ tìm và cu chúng con. Chúng con yêu mến và t ơn Cha. Amen.

Không mun ai hư mt (6.12.2016 – Th ba Tun 2 Mùa Vng)
Chúng ta chng th mng L Giáng sinh nếu còn mt người đang lc đâu đó. Nếu chu mt công đi tìm v, chúng ta mi được hưởng nim vui trn vn. 


Suy nim:
Chăn chiên là một nghề đã có từ lâu.
Nhiều nhà lãnh đạo dân Do Thái như Môsê, Đavít, đều làm nghề này.
Trên những đồng cỏ mênh mông, giữa trời và đất, chỉ có chiên và mục tử,
nên giữa đôi bên có một sự thân thiết và hiểu biết nhau thật gần gũi.
Chính vì thế trong Cựu Ước, Thiên Chúa hay ví mình với người chăn chiên.
Đàn chiên là dân Do Thái, là dân riêng Ngài rất mực quý yêu:
“Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa…
Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng,
bầy chiên mẹ cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40,11).
Như Thiên Chúa, Đức Giêsu cũng ví mình với người mục tử tốt lành.
“Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10, 14).
Sự hiểu biết thân thương này mạnh đến độ
Ngài dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên (Ga 10, 15).
Sau khi chết và phục sinh, Đức Giêsu muốn Simon nhận sứ mạng mục tử.
Ngài mời ông chăm sóc và chăn dắt chiên của Ngài (Ga 21, 15-17).
Như thế đoàn chiên mới của Đức Giêsu lúc nào cũng được bảo vệ.
Qua bao thế kỷ Giáo Hội vẫn không ngừng có những mục tử mới,
nối gót Simon Phêrô để phục vụ và hiến mạng vì đoàn chiên.
Nhưng Đức Giêsu không dạy người mục tử chỉ lo cho cả đoàn,
mà quên chăm sóc cho từng con chiên một.
Ngài mời ta để ý đến tập thể lớn, nhưng không được quên từng cá nhân nhỏ.
Có khi chỉ một con chiên lạc lại khiến người mục tử bận tâm lo lắng
đến nỗi để chín mươi chín con trên núi mà đi tìm con bị mất (c. 12).
Không phải vì coi thường chín mươi chín con không bị lạc,
nhưng vì người mục tử không muốn mất con nào.
Con chiên lạc lại có chỗ đứng đặc biệt trong trái tim mục tử.
Chúng ta ai cũng có kinh nghiệm về chuyện tìm lại được điều đã mất.
Khi mất thì đứng ngồi không yên,
khi tìm thấy thì bình an và niềm vui òa vỡ.
Người mục tử lo âu, vất vả tìm kiếm con chiên lạc,
nhưng khi tìm được rồi thì niềm vui là vô bờ.
Có thể nói còn vui hơn chuyện chín mươi chín con không bị lạc (c. 13).
Dường như người ta bắt đầu quý một điều từ khi mất điều đó.
Có khi một người bắt đầu hiện diện từ khi người ấy vắng mặt và mất đi.
Cha không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất (c. 14).
Cha muốn cho mọi người được cứu độ và không muốn mất một ai (1 Tm 2, 4).
Mùa Vọng là thời gian chúng ta nhìn lại những người bé mọn quanh ta,
những người từ lâu đã bỏ nhà thờ, những người mất lòng tin vào Chúa.
Mỗi người chúng ta phải là mục tử cho nhau, chăm sóc nhau, quý nhau,
khởi đi từ những người trong gia đình, trong nhóm bạn thân quen.
Chúng ta quý nhau vì Thiên Chúa quý từng người chúng ta.
Chúng ta chẳng thể mừng Lễ Giáng sinh nếu còn một người đang lạc ở đâu đó.
Nếu chịu mất công đi tìm về, chúng ta mới được hưởng niềm vui trọn vẹn.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
Khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương.
Chúa đã ban nó cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời.
Nếu rừng không còn xanh, dòng suối không còn sạch,
và bầu trời vắng tiếng chim.
thì đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người,
vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói,
bao trẻ sơ sinh bị giết mỗi ngày khi chưa chào đời,
bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương,
vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình.
Chiến tranh, khủng bố, xung đột, có mặt khắp nơi.
Người ta cứ tìm cách giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu ở Belem,
Chúa đã cứu độ và chữa lành thế giới bằng tình yêu khiêm hạ,
nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn thống trị địa cầu.
Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan.
Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc.
Đó là lỗi của chúng con.
Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại,
và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu.
Mỗi lần đến gần máng cỏ Belem,
xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa
để yêu trái đất lạnh giá này hơn,
và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người.

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
6 THÁNG MƯỜI HAI
Sinh Bởi Thánh Thần
“Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” (Lc 1,35). Giáo Hội nhận Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa, làm nguyên mẫu (prototype) của mình. Chân lý này được diễn tả bởi Công Đồng trong chương cuối Hiến Chế Giáo Hội. Hôm nay, một lần nữa, chúng ta ý thức về chân lý này.
“Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà”. Trong ánh sáng của những lời ấy, Mẹ Thiên Chúa đã không được nhìn thấy như là nguyên mẫu và là hình ảnh của Giáo Hội đó sao?
Giáo Hội được khai sinh qua biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ khi các vị đang tề tựu trong Căn Gác Thượng cùng với Đức Ma-ri-a. Giáo Hội được khai sinh khi “quyền năng Đấng Tối Cao” tuôn tràn Thánh Thần trên các Tông Đồ để giúp họ vượt thắng những yếu đuối của mình và khỏi vấp ngã khi phải đương đầu với sự bách hại vì Tin Mừng.
Mừng kính Đức Ma-ri-a Vô Nhiễm, phụng vụ dẫn chúng ta trở về với buổi ban đầu của lịch sử sáng tạo và cứu độ. Thật vậy, thậm chí phụng vụ đưa chúng ta trở về trước cả buổi bình minh sáng tạo nữa.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 06-12
Thánh Nicôla giám mục
Is 40,1-11; Mt 18,12-14.

Lời suy niệm: “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.”
Thiên Chúa là Cha của chúng ta, vì yêu thương mỗi một người trong chúng ta, mà Ngài đã tạo dựng nên chúng ta với ân sủng của Ngài, và Ngài hy vọng vào tương lai của mỗi người, sẽ được hưởng hạnh phúc với Ngài. Nhưng với ơn ban tự do, khôn ngoan và suy tính của mỗi người cùng cách sử dụng ân sủng Ngài ban cho, con người có thể sống đi ra ngoài ước muốn của Ngài. Chúa Giêsu biết trước thực tại của mỗi người, nên Chúa đã loan báo điều ước muốn của Chúa Cha.
Lạy Chúa Giêsu. Chúa cho chúng con biết Chúa Cha luôn thể hiện tình yêu bảo vệ, tình yêu tìm kiếm, tình yêu tha thứ và vui mừng khi tìm gặp lại chúng con. Xin cho mỗi người trong chúng con luôn cảm nhận được tình yêu này để sống xứng danh là con cái của Ngài.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 06-12: Thánh NICÔLA
Giám Mục - (Thế kỷ IV)

Thánh Nicôla, vị đại thánh bình dân, nhưng chỉ tìm được tiểu sử 200 năm sau khi Ngài chết. Người ta có thể nói rằng: Ngài đích thực là giám mục Myra, đã hiện ra với vua Constantinô trong một giấc mơ. Sau đó dường như các nhà chép sữ lại lẫn lộn với Nicola người Simon đã bị tù dưới thời Diocletianô, đã xây một tu viện và được chôn cất tại vương cung thánh đường thành Myra. Trừ sự kiện trên, nảy sinh ra nhiều huyền thoại và hơn nghìn năm sau, thánh Nicôla nhân hậu đã thành danh tiếng khắp thế giới.
Huyền thoại kể lại rằng, ở Patara, thuộc tỉnh Lycia, hai vợ chồng giàu có Anna và Euphêmiô vì không con đã cố gắng tìm an ủi trong công việc từ thiện. Thiên Chúa chúc lành cho lòng bác ái của họ. Cuối cùng họ có được một mụn con và đăt tên cho con là Nicôla, có nghĩa là "sự chiến thắng của dân". Đây cũng là tên cậu Ngài, vị giám mục Myra.
Ông cậu đã tiên đoán rằng: Nicôla sẽ là "Mặt trời soi chiếu thế gian". Khi mới tắm rửa lần đầu, con trẻ đặc biệt này đã chắp tay, đứng trong thau nước hai giờ liền, mắt hướng về trời. Thứ tư và thứ sáu, Ngài không chịu bú cho tới chiều để ăn chay. Chị vú nuôi sợ Ngài chết, nhưng trái lại, Ngài đã trở nên một con trẻ kiêu hùng.
Nicôla có nhiều đức tính tốt như một trẻ em gương mẫu. Cha mẹ mất sớm. Nicôla thừa hưởng một gia tài kếch xù. Nhưng Ngài lại coi tất cả tài sản này như của Chúa cho vay. Người phân phát cho những người bất hạnh và thực hiện đức bác ái như một sự tế nhị dễ thương. Chẳng hạn một người cha có ba cô con gái, ông tính cho con làm nghề bất lương để có tiền cưới hỏi. Nhưng rồi đêm kia, ông thấy ba túi vàng chuyển qua cửa sổ, và có thể làm lễ cưới hỏi cách lương thiện cho các cô. Khi biết được người cho, ông đến xin thánh Nicôla cầu cho ơn tha thứ cho dự tính đáng chúc dữ của mình. Rồi bất kể sự ngăn cấm của thánh nhân, ông đã kể lại khắp nơi cử chỉ bác ái của thánh nhân đã thực hiện để cứu 3 người phụ nữ khỏi cảnh bất lương như thế nào.
Nicôla đã ao ước hiến đời mình cho Thiên Chúa. Ông cậu giám mục của Ngài khi sắp chết đã truyền chức và đặt Ngài làm bề trên tu viện thánh Sion. Khi Ngài du hành qua Thánh địa, cơn bão nổi lên, các hành khách run sợ, Nicôla cầu nguyện cho họ và các cơn sóng dịu xuống, con tàu êm đềm theo đuổi cuộc hành trình. Những cuộc can thiệp khác nữa làm cho thánh Nicôla trở thành Đấng bảo trợ những người vượt biển. Các thủy thủ làm chứng rằng khi bị đắm chìm, nhớ cầu tới Ngài là thấy Ngài đến cầm tay lái đưa tới cảng, rồi biến đi...
Khi những người thoát nạn tới nhà nguyện tu viện tạ ơn, người ta ngạc nhiên vì thấy vị cứu tinh của mình đang chìm đắm trong kinh nguyện như không hề rời bỏ nơi này. Họ không cầm nổi những lời tán tụng biết ơn xuất phát tự cõi lòng, nhưng thánh nhân bảo họ: "Hãy chỉ nên ngợi khen Chúa về cuộc cứu thoát này, bởi vì đối với tôi, tôi chỉ là một tội nhân và một đầy tớ vô dụng".
Và Ngài đã cho biết rằng, nguy hiểm họ vừa trải qua là hình phạt vì các tội kín, cũng như sự hối lỗi của các thủy thủ đã cứu thoát họ.
Nicôla xuống Alexandria là nơi Ngài đã chữa lành các bệnh nhân, rồi đi thăm thánh Antôn ở Ai cập. Sau cùng, Ngài đến Giêrusalem kính các nơi thánh và trải qua ít tuần trong hang mà Thánh Gia đã dừng lại khi trốn qua Ai cập. Nơi đây, sẽ xây cất một thánh đường thánh Nicôla. Vừa mới trở về Myra, nơi các tu sĩ đang nóng lòng chờ đợi cha họ trở về, Ngài đã tăng gấp một cách lạ lùng đống bánh cho cả trăm người ăn.
Giám mục Myra qua đời, các giám mục miền Lycia cân nhắc để chọn vị mục tử mới. Một sứ giả từ trời xuống báo tin cho vị niên trưởng biết, người được chọn là linh mục Nicôla ngày mai sẽ tới mhà thờ trước hết. Trời vừa sáng, Nicôla tới nhà thờ theo lòng sốt sắng và nghe loan báo mình làm giám mục. Ngài muốn chạy trốn, nhưng phải theo ý nguyện của Đấng Cao Cả hơn mình, trời cao chúc lành cho Ngài: dịp lễ đầu tay, thánh Nicôla đã làm cho một em bé bị phỏng sống lại. Từ kỷ niệm này, người ta hay kêu cầu thánh nhân những khi gặp nguy hiểm vì lửa.
Trở thành mục tử cả dân, thánh nhân rất cưng chiều những người bị áp bức, mồ côi, bênh hoạn và tù tội hơn. Ban đêm, Ngài cầu nguyện, nghỉ một chút trên đất, ăn ngày một bữa, mặc áo quần khiêm tốn khác với hình ảnh ngày nay nhiều. Những y phục lộng lẫy theo hình vẽ ấy, Ngài chỉ mặc vào những ngày đại lễ.
Đời sống tín hữu xáo trộn vì những cuộc bách hại: vị giám mục bị lưu đày, đánh đập. Cuộc trở lại của vua Constantinô đem lại tự do. Trên đường về, Ngài rao giảng Chúa Kitô, cải hóa lương dân, phá đổ các đền thờ và ngẫu tượng. Ngài làm nhiều phép lạ như mưa. Các thế hệ tương lai, còn kể lại huyền thoại của ba đứa trẻ bị một đồ tể tham lam độc ác cắt cổ và để trong thùng muối ướp thịt đã sống lại nhờ lời cầu nguyện của thánh Nicôla.
Các truyện có nhiều thêm thắt như: Truyện người gian giảo có cây gậy đầy vàng, truyện đứa trẻ bị quỉ giả bộ ăn xin bóp cổ, nhưng đã được thánh nhân cứu sống, truyện thánh nhân dàn xếp giữa thày thuốc với bệnh nhân hiếm muộn con cái, hứa tặng chén vàng mà khi được lại không giữ lời hứa. Gần với sự thực hơn là việc các nhà buôn lúa gạo ở Sycily nhờ sự bao bọc lạ lùng của giám mục đã nuôi những người đói mà không giảm thiểu của dự trữ. Vua Constantinô cũng mơ thấy thánh nhân đến gặp để cứu cuộc xử tội bất công của ba viên chức. Sau đó các người bị giữ kêu cầu Ngài giải cứu và được nhận lời bằng một phép lạ. Thế là các nạn nhân bị xử oan hay kêu cầu Ngài.
Sau khi hoàn tất bao nhiêu việc lành thiêng liêng lẫn vật chất, thánh Nicôla muốn vào cõi đời đời. Bảo vệ giáo thuyết công giáo tinh tuyền, Ngài đã chống lại lạc giáo tham dự cộng đồng Nicea. Khi thấy sắp kết thúc cuộc đời. Ngài muốn lui về tu viện, nơi mà buổi thiếu thời Ngài đã tự hiến cho Thiên Chúa, và chính tại nơi đây, Ngài phú dâng linh hồn trong tay Chúa.
Năm 1087, Myra rơi vào tay người Thổ, người ta vội đưa hài cốt vị thánh về Bari gần Naples. Từ đó, huyền thoại đời Ngài lại lan rộng. Mỗi miền nói theo cách của mình. Dân ca Đông phương coi Ngài như một vị Chúa trên trời. Đối với người Nga, Ngài là thừa kế thần linh lo chuyện gặt hái. Siberia cho Ngài là người chế tạo rượu "bia".
Các vua nước Pháp sùng kính Ngài. Các chủ tịch luật sư đoàn cầm gậy có hình thánh Nicôla. Bên tây phương, lễ thánh Nicôla trở thành lễ của thiếu nhi vì làm sao các em lại không yêu mến vị thánh nhân hậu đã cứu ba đứa trẻ đi mót lứa được ? Vị giám mục đầy huyền bí này sau cùng đã trở thành ông già Noel ngày nay .
(daminhvn.net)


06 Tháng Mười Hai
Hai Cánh Cửa Sổ
Từ cánh cửa sổ nhìn vào thiên nhiên, người ta có thể có nhiều cái nhìn khác nhau về cuộc sống.
Trong một vở kịch của Samuel Beckett, một nhân vật đã kể lại như sau: "Tôi biết có một tên chán đời lúc nào cũng nghĩ rằng ngày tận thế đang đến. Tôi thường đến thăm hắn trong dưỡng trí viện. Tôi nắm tay hắn và dìu hắn đến bên cửa sổ. Tôi nói với hắn: "Nhìn kìa, cả một cánh đồng bắp xanh tươi... Nhìn kìa, những cánh bướm đang phất phới. Còn gì đẹp bằng!". Nhưng hắn gỡ tay tôi ra và trở về góc phòng. Mặt mày hắn hớt hải tái mét. Tất cả những gì tôi chỉ cho hắn chỉ là một đống tro tàn xám xịt".
Có một cánh cửa sổ khác từ đó người ta chỉ có thể nhìn thấy cảnh đẹp mà thôi. Ðó là cánh cửa sổ nhỏ tại một nhà nguyện ở phía Nam Ái Nhĩ Lan. Tất cả mọi cánh cửa sổ trong nhà nguyện này đều được làm bằng kính trên đó có vẽ Ðức Kitô và các môn đệ của Ngài. Duy chỉ có một cánh cửa sổ là không có hình vẽ. Xuyên qua tấm kính trong suốt của cánh cửa sổ này, người ta có thể nhìn thấy một quang cảnh thật tươi mát, đó là một cái hồ nước trong xanh nằm giữa những ngọn đồi cỏ lúc nào cũng xanh tươi. Bên dưới cánh cửa sổ, người ta đọc được câu kinh thánh như sau: "Trời cao tường thuật vinh quang Chúa. Thanh không kể ra sự nghiệp của Ngài".
Câu chuyện của hai cánh cửa sổ trên đây gợi lên cho chúng ta vần thơ: Hai người cùng nhìn xuyên qua chấn song cửa của nhà tù. Một người chỉ thấy có bùn nhơ, một người lại nhìn thấy những vì sao.
Mùa Vọng là thời gian của hy vọng.
Chúng ta được mời gọi để đặt tất cả tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ bỏ cuộc. Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người. Tiếp theo bao nhiêu vấp phạm và phản bội của con người, Thiên Chúa vẫn đeo đuổi chương trình của Ngài. Người vẫn tiếp tục yêu thương con người. Nơi hình ảnh đã hơn một lần hoen ố vì tội lỗi, Thiên Chúa vẫn nhìn thấy phản chiếu vẻ đẹp cao sang của chính Ngài. Xuyên qua cánh cửa sổ nhỏ của mỗi người, Thiên Chúa vẫn còn nhìn thấy cảnh đẹp của lòng người.
Chúng ta cũng được mời gọi để tiếp tục tin tưởng nơi con người. Dù thấp hèn tội lỗi đến đâu, dù hung hãn độc ác đến đâu, mỗi một con người đều là hình ảnh cao vời của Thiên Chúa, mỗi một con người đều xứng đáng để tiếp tục tin tưởng, được yêu thương.
Tin tưởng phó thác nơi Thiên Chúa, tin yêu nơi con người, chúng ta cũng được mời gọi để không thất vọng về chính bản thân. Ðau khổ có chồng chất, tội lỗi có ngập tràn, mỗi người chúng ta vẫn là đối tượng của một tình yêu cá biệt... Thiên Chúa yêu thương tôi, Thiên Chúa đang thực hiện cho tôi những gì là thiện hảo nhất: đó phải là tư tưởng cơ bản hướng dẫn tất cả Mùa Vọng của chúng ta. Từ bên cánh cửa sổ của tâm hồn nhìn vào cuộc đời, chúng ta hãy nhận ra những vì sao của hy vọng, những cánh đồng xanh tươi của lạc quan.
(Lẽ Sống)

Lectio Divina: Mátthêu 18:12-14
Thứ Ba, 6 Tháng 12, 2016

Thứ Ba sau CN II Mùa Vọng   
                                  

1.  Lời nguyện mở đầu

Lạy Chúa là Thiên Chúa của chúng con,
Chúa đang ở gần bên chúng con
Trong Đức Giêsu Kitô, Con Một Chúa.
Khi chúng con đi lạc hướng,
Chúa đi tìm chúng con cho đến khi tìm thấy chúng con.
Xin Chúa hãy đưa chúng con trở về bên Chúa,
Xin cho chúng con thấy đường đi đến Chúa
Và đến với nhau
Nhờ Người là đường của chúng con,
Đức Giêsu Kitô, Con của Chúa và là Chúa của chúng con,
Đấng hằng sống với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần,
Một Thiên Chúa, đến muôn thuở muôn đời.

2.  Phúc Âm – Mátthêu 18:12-14

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng:  “Chúng con nghĩ sao?  Nếu ai có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao?  Nếu người đó tìm được, thì quả thật Thầy bảo chúng con, người đó sẽ vui mừng vì con chiên đó hơn chín mươi chín con chiên không thất lạc.  Cũng vậy, Cha chúng con ở trên trời không muốn để một trong những kẻ bé nhỏ này phải hư đi.” 

3.  Suy Niệm  

 Một dụ ngôn không phải là một giáo lý để được tiếp nhận một cách thụ động hay là chỉ để giữ lại trong trí nhớ, mà nó là một lời mời gọi tham gia vào việc khám phá ra chân lý.  Đức Giêsu bắt đầu bằng câu hỏi:  “Chúng con nghĩ sao?”  Một dụ ngôn là một câu hỏi với một câu trả lời không được xác định.  Câu trả lời còn tùy thuộc vào phản ứng và sự tham gia của người nghe.  Vì thế, chúng ta hãy tìm kiếm câu trả lời cho bài dụ ngôn chiên lạc này.
-  Chúa Giêsu kể một câu chuyện rất ngắn và trong một cách rất đơn giản:  một người chăn chiên có một trăm con chiên, mà lạc mất một con, người đó đã bỏ chín mươi chín con trên núi và đi tìm con chiên lạc.  Và Chúa Giêsu hỏi:  “Các con nghĩ sao?”  Có nghĩa là:  “Các con có sẽ làm như thế không?”  Câu trả lời của các mục tử và của những người khác đang lắng nghe Chúa Giêsu kể câu chuyện này sẽ là gì?  Liệu họ có sẽ cũng làm như thế không?  Câu trả lời của tôi cho câu hỏi của Chúa Giêsu là gì?  Chúng ta hãy suy nghĩ kỹ trước khi trả lời.
-  Nếu bạn có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì bạn sẽ làm gì?  Chúng ta không nên quên rằng núi non là nơi rất khó lên xuống, với những vách núi đá, nơi mà những thú dữ trú ngụ và bọn trộm cướp ẩn náu.  Và bạn không thể quên rằng bạn đã chỉ lạc mất có một con chiên, và vì thế, bạn vẫn còn có chín mươi chín con!  Bạn chỉ mất mát rất ít.  Liệu bạn có sẽ bỏ rơi chín mươi chín con chiên kia trên núi không?  Một người với một chút suy nghĩ bình thường có sẽ hành động như người mục tử trong câu chuyện dụ ngôn của Chúa Giêsu không?  Hãy suy nghĩ cho kỹ!
 Những người chăn chiên đang lắng nghe trong câu chuyện của Chúa Giêsu, có lẽ đã suy nghĩ và nhận xét:  “Chỉ có kẻ chăn chiên thiếu chín chắn mới hành động như thế!”  Cách chắc chắn, họ sẽ hỏi lại Chúa Giêsu:  “Thưa Ngài Giêsu, xin thứ lỗi cho chúng tôi, nhưng kẻ chăn chiên nào mà Ngài đang nói tới thế?  Kẻ nào mà đi làm những chuyện như thế thì thật là đồ ngốc!
-  Chúa Giêsu đáp lời:  “Vị Mục Tử này là Thiên Chúa, Chúa Cha của chúng ta, và con chiên lạc là các con!”  Nói cách khác, người đi làm việc này là Thiên Chúa, được thúc đẩy bởi tình yêu cao cả dành cho những kẻ bé mọn, cho những người nghèo khó, những kẻ bị khinh chê!  Chỉ có tình yêu tuyệt vời mới có khả năng làm được những việc đến độ ngông cuồng như vậy.  Tình yêu mà Thiên Chúa yêu thương chúng ta vượt hẳn mọi sự thận trọng và lý lẽ khôn ngoan của loài người.  Tình yêu của Thiên Chúa liên lụy đến những việc ngốc nghếch.  Tạ ơn Chúa!  Nếu không có những việc ngông cuồng như thế này, thì chúng ta sẽ bị hư mất!
                                                                                                                                                                                
4.  Một vài câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân 

-  Bạn hãy đặt mình trong trường hợp con chiên lạc và làm sinh động đức tin và niềm cậy trông của bạn.  Bạn đang là con chiên đó!   
 Bạn hãy đặt mình vào vị trí của người chăn chiên và minh xác xem tình yêu thương của bạn dành cho những kẻ bé mọn có thật hay không.    

5.  Lời nguyện kết

Hát lên mừng Chúa một bài ca mới,
Hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu!
Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh!
Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ. 
(Tv 96) 



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét