06/12/2016
Thứ Ba tuần 2 mùa vọng
Bài Ðọc I: Is 40, 1-11
"Thiên Chúa an ủi dân
Người".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Chúa ngươi phán: Hỡi dân Ta, hãy
an tâm, hãy an tâm! Hãy nói với Giêrusalem, và kêu gọi rằng: Thời nô lệ đã chấm
dứt, tội lỗi đã được ân xá, Chúa đã ban ơn nhiều gấp hai lần tội lỗi.
Và có tiếng kêu trong hoang địa
rằng: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa chúng ta trong hoang địa cho ngay
thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm
cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và vinh quang Chúa sẽ xuất
hiện, mọi người sẽ được thấy vinh quang Thiên Chúa, vì Ngài đã phán. Có tiếng bảo:
"Hãy hô lên!", và tôi nói: "Tôi sẽ hô lên điều gì?" Mọi xác
phàm như cỏ dại; mọi vinh quang của nó đều như hoa ngoài đồng. Cỏ dại đã khô,
hoa đã tàn, vì hơi Chúa đã thổi trên chúng. Vì chưng, dân là cỏ dại: Cỏ dại đã
khô, hoa đã tàn, mà lời Chúa chúng ta tồn tại đến muôn đời.
Hỡi ngươi là kẻ đem tin mừng cho
Sion, hãy trèo lên núi cao. Hỡi ngươi là kẻ đưa tin mừng cho Giêrusalem, hãy mạnh
dạn cất tiếng. Hãy cất tiếng cao, đừng sợ! Hãy nói cho các dân thành thuộc chi
họ Giuđa rằng: Ðây Thiên Chúa các ngươi, đây Chúa là Thiên Chúa các ngươi sẽ đến
trong quyền lực, và cánh tay Người sẽ thống trị. Người mang theo những phần thưởng
chiến thắng, và đưa đi trước những chiến lợi phẩm. Người chăn dắt đoàn chiên
Người như một mục tử. Người ẵm những chiên con trên cánh tay, ôm ấp chúng vào
lòng, và nhẹ tay dẫn dắt những chiên mẹ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 95, 1-2. 3 và 10ac.
11-12. 13
Ðáp: Thiên Chúa chúng ta sẽ đến trong uy quyền (Is 40,
9-10).
Xướng: 1) Hãy ca mừng Thiên Chúa
bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên
Chúa, hãy chúc tụng danh Người. - Ðáp.
2) Hãy tường thuật vinh quang
Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. Hãy công bố giữa chư dân rằng:
Thiên Chúa ngự trị, Người cai quản chư dân theo đường đoan chính. - Ðáp.
3) Trời xanh hãy vui mừng và địa
cầu hãy hân hoan. Biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên; đồng nội và muôn
loài trong đó hãy mừng vui. - Ðáp.
4) Các rừng cây hãy vui tươi hớn
hở, trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu.
Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh và chư dân cách chân thành. - Ðáp.
Alleluia: Lc 3, 4. 6
Alleluia, alleluia! - Hãy dọn đường
Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng; và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của
Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 18, 12-14
"Chúa không muốn những kẻ
bé nhỏ phải hư đi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Các con nghĩ sao? Nếu ai có một trăm con chiên mà lạc mất một
con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con chiên
lạc sao? Nếu người đó tìm được, thì quả thật, Thầy bảo các con, người đó sẽ vui
mừng vì con chiên đó hơn chín mươi chín con chiên không thất lạc. Cũng vậy, Cha
các con ở trên trời không muốn để một trong những kẻ bé nhỏ này phải hư
đi".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Phải Tha Thứ Luôn Luôn
Sống ở trên đời, ai cũng mong ước
mình gặp được nhiều sung túc, hạnh phúc và nhất là gặp được nhiều may mắn thành
công. Ai cũng muốn là mình gặp được mối tình thông cảm cho đến đỉnh cao của tiền
tài, danh vọng. Ai cũng sợ thất bại, sợ gian khổ cùng cực cất đầu không lên được
với những người xung quanh. Dù rằng ai cũng tự an ủi mình bằng câu: "Thất
bại là mẹ thành công". Ðau khổ nhiều, con người mới thấy giá trị đích thực
của hạnh phúc. Có gian nan vất vả nhiều, con người mới cảm thấy giá trị của đau
khổ, mới đánh giá chính xác về sự thành công từ những nhẫn nhục, chịu đựng, âm
thầm làm việc sau bao nhiêu ngày tháng. Nếu như con người từ nhỏ đến lớn sống
hoàn hảo như một vị thánh, người ấy chưa chắc đã cảm thấy mình hạnh phúc nếu
không phải là người đặc biệt Thiên Chúa gìn giữ. Vì thế theo thông thường chúng
ta không ai thoát khỏi những lầm lỗi, không khía cạnh này thì vướng mắc khía cạnh
khác, không nặng thì nhẹ, không phải khuyết điểm lầm lỗi nặng hay nhẹ, cố tình
hay vô tình nhưng quan trọng là chúng ta có nhận ra được khuyết điểm sai lỗi của
chính mình hay không? Và khi nhận ra được khuyết điểm sai lỗi ấy, chúng ta có sửa
đổi, rút kinh nghiệm cho lần sau hay không?
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa
Giêsu nói với các môn đệ rằng: "Nếu ai trong các ngươi có một trăm con
chiên mà bị lạc mất một con thì người đó không bỏ chín mươi chín con trên núi để
đi tìm con chiên lạc ấy sao?" Ðó là điều an ủi cho chúng ta, vì khi lầm lỗi,
con người thường ít khi tha thứ hoặc có tha thứ cho nhau thì vẫn có thành kiến
không tốt về người đó, nghĩa là chúng ta có ý nghĩ không tốt, bớt sự niềm nở tự
nhiên trước đó.
Từ thái độ đó thường làm cho người
có lỗi mang một tâm trạng tự ti mặc cảm, vì dù sao đi nữa thì trong tâm trạng
đó con người cũng không có cái nhìn hồn nhiên, vui vẻ lạc quan yêu đời như trước
khi họ chưa lầm lỗi. Khi đã sống trong tình trạng nghi kỵ lẫn nhau, nhìn nhau
không thân thiện, chúng ta sẽ mắc vào một câu nói của một triết gia nọ:
"Tha nhân là hỏa ngục của tôi". Ai cũng nhìn nhau bằng cặp mắt hận
thù, ganh tị, hững hờ, chê bai lẫn nhau. Bao nhiêu cặp mắt hận thù, ganh tị, hững
hờ, chê bai lẫn nhau. Bao nhiêu cặp mắt hình như cứ soi mói vào chúng ta, xét
xem để rồi bắt lỗi chúng ta thì chẳng hỏa ngục là gì? Có bị như thế chúng ta mới
cảm nghiệm được tình yêu bao la dung thứ của Thiên Chúa đối với chúng ta hôm
nay: "Người chăn chiên sẽ bỏ chín mươi chín con trên núi để đi tìm con
chiên lạc, khi tìm được rồi người chăn chiên sẽ vui mừng vì con chiên đó hơn
chín mươi chín con chiên không bị lạc".
Thiên Chúa đã dạy chúng ta không
những phải tha thứ cho nhau bảy lần mà là bảy mươi lần bảy, nghĩa là phải tha
thứ luôn luôn. Và trong một đoạn Tin Mừng khác Chúa Giêsu nói: "Nếu trong
một ngày người anh em con phạm đến con bảy lần và bảy lần người ấy đến nói với
con rằng tôi hối hận thì con cũng phải tha cho nó". Khi thấy điều đó khó
thực hiện được nên người môn đệ của Chúa đã thưa: "Xin Thầy ban thêm lòng
tin cho chúng con". Ðó là Lời Chúa nhắn nhủ dạy bảo chúng ta, còn đối với
Thiên Chúa Ngài càng phải khoan dung tha thứ hơn, yêu thương chúng ta nhiều hơn
nữa bằng một tình thương tha thứ vô cùng.
Trong dụ ngôn "Người Con
Hoang Ðàng Trở Về" sau những tháng ngày ăn chơi trác táng thì bấy giờ nó
suy nghĩ và thành tâm ăn năn thống hối trở về để xin cha tha thứ. Nhưng khi
nhìn thấy con từ đàng xa, chưa kịp nghe con nói lên lời xin lỗi thì người cha
đã bảo gia nhân đem áo mặc cho cậu, lấy nhẫn đeo vào tay cậu. Qua những cử chỉ
yêu thương mặn nồng như thế đã nói lên tình thương của cha vẫn luôn luôn yêu
thương con cái và người cha vẫn coi cậu như người con trong nhà. Vì thế, ông
nói với gia nhân hãy làm thịt con bê béo để mừng con đã chết nay được sống lại.
Tình thương của người cha bao la đã bỏ qua tất cả mọi lỗi lầm của đứa con hoang
đàng trở về.
Trong đoạn Tin Mừng nói về một
người mắc nợ ông vua như sau: Có một người mắc nợ ông vua kia đến mười ngàn nén
bạc nhưng anh không có gì để trả nợ. Chủ ra lệnh bán anh và vợ con cùng tất cả
gia sản anh để trả nợ. Anh liền sấp mình xuống dưới chân chủ mà van lơn:
"Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn rồi tôi sẽ trả cho ngài tất cả".
Người chủ động lòng thương trả tự do và tha nợ cho anh ta. Khi ra về anh ta gặp
một người bạn mắc nợ anh ta một trăm nén bạc, anh ta tóm lấy bóp cổ người ấy mà
nói:Hãy trả nợ cho ta, khi ấy người bạn sấp mình dưới chân và nói: Cho tôi khất
một kỳ hạn. Nhưng anh ta không nghe, bắt người bạn đó tống giam vào ngục cho đến
khi trả xong nợ. Người xung quanh thấy cảnh tượng thương tâm đó thuật lại với
người chủ và người chủ đã bắt trao anh cho lý hình hành hạ cho đến khi trả hết
nợ một ngàn nén bạc của anh.
Chúng ta đôi khi cũng thế, lòng
Chúa khoan dung yêu thương, tha thứ cho chúng ta không biết bao nhiêu, vậy mà đối
với anh em ta lại xét nét, chê bai, xử tệ, không tha thứ cho nhau dù chỉ là những
lầm lỗi không đáng kể gì trước mặt Chúa là người Cha đầy tình thương dung thứ.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người
chúng con cảm nhận được lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa để chúng con đáp
lại tình thương nhỏ bé của chúng con đối với Ngài. Xin Chúa cho chúng con biết
tha thứ cho nhau không những bảy lần nhưng là bảy mươi lần bảy, nghĩa là tha thứ
cho nhau luôn luôn trong suốt cuộc sống. Amen.
Veritas
Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba, Tuần II MV, Năm Lẻ
Bài đọc: Isa
40:1-11; Mt 18:12-14.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tha thứ
Con người thường có khuynh hướng
yêu những người đáng yêu và lọai bỏ những người đáng ghét; nhưng nếu con người
cứ theo khuynh hướng này, thì chẳng mấy chốc con người sẽ hết người để yêu, vì
người nào cũng là tập hợp của cả cái đáng yêu và cái đáng ghét. Một tình yêu
chân thật đòi mọi người phải biết yêu thương tha thứ cho tha nhân như Thiên
Chúa luôn yêu thương tha thứ cho con người.
Các Bài đọc hôm nay đều xoay
quanh chủ đề yêu thương và tha thứ. Trong Bài đọc I, Tiên Tri Isaiah ví Thiên
Chúa như Mục Tử: Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh
tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đặt câu hỏi cho khán giả: “Ai có một trăm con chiên
mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm
con chiên lạc sao?” Một con chiên lạc có thể không gây sự quan tâm cho con người,
nhưng là một quan tâm cho Thiên Chúa. Chúa Giêsu chính là Mục Tử Tốt Lành, Ngài
xuống trần để tìm những chiên lạc về cho Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Mọi người đã xúc phạm đến Thiên Chúa.
1.1/ Dân chúng bị lưu đày vì đã xúc
phạm đến Thiên Chúa: Đền Thờ bị phá hủy,
Thành Jerusalem bị san phẳng, vua quan và dân chúng bị lưu đày vì đã phạm tội
và khinh thường những lời Chúa cảnh cáo qua các tiên tri. Chúa có quyền ngỏanh
mặt để kẻ thù trừng trị đích đáng dân phản nghịch; nhưng Ngài không nỡ để dân
phải chết, vì Ngài là Thiên Chúa yêu thương. Ngài phải sửa phạt để thanh luyện
tội lỗi, nhưng luôn quan tâm và gởi các sứ giả đến khích lệ dân trong thời gian
lưu đày, như trình thuật của Tiên Tri Isaiah hôm nay: “Thiên Chúa anh em phán:
"Hãy an ủi, an ủi dân Ta: Hãy ngọt ngào khuyên bảo Jerusalem, và hô lên
cho Thành: thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong, vì Thành
đã bị tay Đức Chúa giáng phạt gấp hai lần tội phạm."” Thành ở đây là
Jerusalem, được nhân cách hóa để chỉ Israel.
1.2/ Tội sẽ được tha nếu dân biết
ăn năn xám hối:
(1) Dân phải chuẩn bị đường cho
Chúa tới: Vì dân đã phạm tội nên Thiên Chúa rời xa họ. Để được Thiên Chúa trở lại,
họ phải thanh tẩy mọi tội lỗi đã xúc phạm đến Ngài; vì Thiên Chúa là Đấng Thánh
Thiện, Ngài không thể ở trong những tâm hồn tội lỗi. Thiên Chúa gởi sứ giả của
Ngài tới tận nơi lưu đày để kêu gọi và giúp dân ăn năn trở lại. TT Isaiah tường
thuật: “Có tiếng hô: "Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa
đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung
lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng
bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu. Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện,
và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng Đức Chúa đã tuyên phán."”
(2) Tội nặng nhất là tội không
biết kính sợ Thiên Chúa: Trong hầu hết các Sách Khôn Ngoan, các tác giả đều
tuyên xưng: “Kính sợ Đức Chúa là nguồn gốc mọi khôn ngoan.” Vì thế, không biết
kính sợ Thiên Chúa là nguồn gốc của mọi điên rồ. Đọan văn kế tiếp nói lên sự rồ
dại của con người: “Có tiếng nói: "Hãy hô lên!" Tôi thưa: "Phải
hô lên điều gì?" "Người phàm nào cũng đều là cỏ, mọi vẻ đẹp của nó
như hoa đồng nội. Cỏ héo, hoa tàn khi thần khí Đức Chúa thổi qua. Phải, dân là
cỏ: cỏ héo, hoa tàn, nhưng lời của Thiên Chúa chúng ta đời đời bền vững."”
Con người là cỏ hoa mà nghĩ mình
sống không cần đến Thiên Chúa. Ngay từ đầu Sách, Tiên Tri đã kết án sự rồ dại
này, và coi dân phản nghịch còn thua lòai bò lừa: “Trời hãy nghe đây, đất lắng
tai nào, vì Đức Chúa phán: "Ta đã nuôi nấng đàn con, cho chúng nên khôn lớn,
nhưng chúng đã phản nghịch cùng Ta. Con bò còn biết chủ, con lừa còn biết cái
máng cỏ nhà chủ nó. Nhưng Israel thì không biết, dân Ta chẳng hiểu gì” (Isa
1:2-3).
1.3/ Thiên Chúa sẽ đón nhận và chăn
dắt dân nếu họ biết ăn năn trở lại: Thời
gian Lưu Đày là thời gian thuận tiện để Israel biết ăn năn xét mình, và nhận ra
họ không thể sống mà không có sự hiện diện của Thiên Chúa. Khi họ biết phục
tùng Thiên Chúa, Ngài sẽ làm cho họ những điều mà họ không bao giờ ngờ tới; vì
Ngài nắm trong tay mọi chủ quyền. Tiên Tri Isaiah nhìn thấy trước 2 điều sẽ xảy
ra khi dân biết ăn năn trở lại:
(1) Tương lai gần: Chúa sẽ cho
dân hồi hương để tái thiết lại Đền Thờ và xứ sở: “Hỡi kẻ loan tin mừng cho
Sion, hãy trèo lên núi cao. Hỡi kẻ loan tin mừng cho Jerusalem, hãy cất tiếng
lên cho thật mạnh. Cất tiếng lên, đừng sợ, hãy bảo các thành miền Judah rằng:
“Kìa Thiên Chúa các ngươi!" Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn
chủ quyền. Bên cạnh Người, này công lao lập được, trước mặt Người, đây sự nghiệp
làm nên.”
(2) Tương lai xa: Chúa sẽ gởi Đấng
Thiên Sai đến để cai trị dân Ngài: “Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của
Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy
chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt.”
2/ Phúc Âm: Cha của anh em
không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.
Con người có thể đặt câu hỏi:
Làm sao Thiên Chúa có thể biết và quan tâm đến tất cả mọi người trong thế giới
này? Chỉ trong 3 câu ngắn ngủi của Tin Mừng Matthêu, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy
quyền năng và sự quan tâm của Thiên Chúa đến tất cả mọi người.
2.1/ Thiên Chúa luôn tìm kiếm, dù
chỉ một con chiên lạc: Chúa Giêsu đặt câu hỏi
với con người: "Anh em nghĩ sao? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi
lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao?”
Đối với con người, một con chiên lạc không đáng kể gì, vì vẫn còn 99 con chiên
khác; nhất là đối với những con chiên không chịu vâng lời, cố tình đi lạc.
Nhưng đối với Thiên Chúa, Ngài để 99 con chiên lại để đi tìm con chiên lạc, cho
đến khi tìm được.
2.2/ Ngài vui mừng khi tìm thấy con
chiên lạc: Không những đi tìm con chiên lạc,
“và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con
chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc. Cũng vậy, Cha của anh em,
Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thế giới hôm nay đề cao chủ
nghĩa cá nhân: chỉ quan tâm đến những gì ích lợi cho mình, và gạt bỏ những gì
gây gánh nặng cho cuộc sống: người già, bệnh nhân, kẻ thù. Nếu Thiên Chúa cũng
lọai bỏ như con người, làm sao chúng ta có cơ hội được cứu độ?
- Như lời Kinh Lạy Cha chúng ta
đọc hằng ngày: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha cho những người có
lỗi với chúng con;” chúng ta phải tha thứ cho nhau trước khi xứng đáng được
Thiên Chúa tha thứ.
- Cách tốt nhất để dễ tha thứ
cho tha nhân là năng lãnh nhận Bí-tích Hòa Giải. Mỗi khi xét mình trước khi
xưng tội, chúng ta nhận ra rất nhiều cái đáng ghét nơi con người của mình. Điều
này làm chúng ta nhìn lỗi lầm của tha nhân với lòng bao dung hơn, vì họ cũng yếu
đuối tội lỗi như mình. Người không năng xét mình xưng tội rất dễ kết án tha
nhân, vì họ tưởng mình không có tội.
Linh mục Anthony Đinh Minh
Tiên, OP
06/12/16 THỨ BA TUẦN 2 MV
Th. Ni-cô-la, giám mục
Mt 18,12-14
Th. Ni-cô-la, giám mục
Mt 18,12-14
Suy niệm: Năm Thánh
Lòng Chúa Thương Xót kết thúc nhưng hẳn bạn vẫn chưa quên khẩu hiệu “Misericordes
Sicut Pater” (Thương Xót Như Chúa Cha) cùng với biểu tượng Chúa Giê-su vác trên vai một con người trông như đang vác con chiên, hai con người nhưng chỉ có ba con mắt. Đó là “ánh mắt đầy yêu thương của Chúa” đã giúp Da-kêu, Mát-thêu, Ma-đa-lê-na đổi đời, đã đánh động tâm hồn của Phê-rô và bao người lầm đường lạc lối được ơn hoán cải. Ánh mắt bộc lộ tấm lòng thương xót của Chúa Cha trên trời “không muốn một ai phải hư mất”. Chúng ta cũng phải nhìn nhau bằng “con mắt thứ ba,” nhìn nhau bằng cái nhìn của Chúa,
cái nhìn yêu thương tha thứ, cái nhìn cảm thông, quảng đại, và từ ánh mắt đó, chúng ta sẵn sàng bằng hành động dấn thân phục vụ.
Mời Bạn: Mùa Vọng, mùa trông đợi Chúa đến. Chỉ khi chúng ta yêu mến ai, chúng ta mới mong đợi người đó đến. Chúa Cha yêu thương luôn yêu thương đi tìm kiếm và đem những người con đi xa lạc trở về, chúng ta cũng phải sẵn sàng mở lòng mình ra để đón nhận lòng thương xót của Chúa, đồng thời cũng mở lòng ra với anh em để cùng với họ quay trở về với Chúa.
Sống Lời Chúa: Nhìn bằng “ánh mắt của Chúa”, tức là đối xử với nhau bằng lòng nhẫn nại và bao dung.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Cha đầy yêu thương, bao lâu chúng con lạc xa Cha là bấy lâu Cha tìm kiếm chúng con. Cha đau buồn khi thấy chúng con chìm sâu trong bóng tối tội lỗi. Cha ban cho chúng con Người Con Một để tìm và cứu chúng con. Chúng con yêu mến và tạ ơn Cha. Amen.
Không muốn ai hư mất (6.12.2016 – Thứ ba Tuần 2 Mùa Vọng)
Chúng ta chẳng thể mừng Lễ Giáng sinh nếu còn một người đang lạc ở đâu đó. Nếu chịu mất công đi tìm về, chúng ta mới được hưởng niềm vui trọn vẹn.
Suy niệm:
Chăn chiên là một nghề đã
có từ lâu.
Nhiều nhà lãnh đạo dân Do
Thái như Môsê, Đavít, đều làm nghề này.
Trên những đồng cỏ mênh
mông, giữa trời và đất, chỉ có chiên và mục tử,
nên giữa đôi bên có một
sự thân thiết và hiểu biết nhau thật gần gũi.
Chính vì thế trong Cựu
Ước, Thiên Chúa hay ví mình với người chăn chiên.
Đàn chiên là dân Do Thái,
là dân riêng Ngài rất mực quý yêu:
“Như mục tử, Chúa chăn
giữ đoàn chiên của Chúa…
Lũ chiên con, Người ấp ủ
vào lòng,
bầy chiên mẹ cũng tận
tình dẫn dắt” (Is 40,11).
Như Thiên Chúa, Đức Giêsu
cũng ví mình với người mục tử tốt lành.
“Tôi biết chiên của tôi
và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10, 14).
Sự hiểu biết thân thương
này mạnh đến độ
Ngài dám hy sinh mạng
sống mình cho đoàn chiên (Ga 10, 15).
Sau khi chết và phục
sinh, Đức Giêsu muốn Simon nhận sứ mạng mục tử.
Ngài mời ông chăm sóc và
chăn dắt chiên của Ngài (Ga 21, 15-17).
Như thế đoàn chiên mới
của Đức Giêsu lúc nào cũng được bảo vệ.
Qua bao thế kỷ Giáo Hội
vẫn không ngừng có những mục tử mới,
nối gót Simon Phêrô để
phục vụ và hiến mạng vì đoàn chiên.
Nhưng Đức Giêsu không dạy
người mục tử chỉ lo cho cả đoàn,
mà quên chăm sóc cho từng
con chiên một.
Ngài mời ta để ý đến tập
thể lớn, nhưng không được quên từng cá nhân nhỏ.
Có khi chỉ một con chiên
lạc lại khiến người mục tử bận tâm lo lắng
đến nỗi để chín mươi chín
con trên núi mà đi tìm con bị mất (c. 12).
Không phải vì coi thường
chín mươi chín con không bị lạc,
nhưng vì người mục tử
không muốn mất con nào.
Con chiên lạc lại có chỗ
đứng đặc biệt trong trái tim mục tử.
Chúng ta ai cũng có kinh
nghiệm về chuyện tìm lại được điều đã mất.
Khi mất thì đứng ngồi
không yên,
khi tìm thấy thì bình an
và niềm vui òa vỡ.
Người mục tử lo âu, vất
vả tìm kiếm con chiên lạc,
nhưng khi tìm được rồi
thì niềm vui là vô bờ.
Có thể nói còn vui hơn
chuyện chín mươi chín con không bị lạc (c. 13).
Dường như người ta bắt
đầu quý một điều từ khi mất điều đó.
Có khi một người bắt đầu
hiện diện từ khi người ấy vắng mặt và mất đi.
Cha không muốn cho một ai
trong những kẻ bé mọn này phải hư mất (c. 14).
Cha muốn cho mọi người
được cứu độ và không muốn mất một ai (1 Tm 2, 4).
Mùa Vọng là thời gian
chúng ta nhìn lại những người bé mọn quanh ta,
những người từ lâu đã bỏ
nhà thờ, những người mất lòng tin vào Chúa.
Mỗi người chúng ta phải
là mục tử cho nhau, chăm sóc nhau, quý nhau,
khởi đi từ những người
trong gia đình, trong nhóm bạn thân quen.
Chúng ta quý nhau vì
Thiên Chúa quý từng người chúng ta.
Chúng ta chẳng thể mừng
Lễ Giáng sinh nếu còn một người đang lạc ở đâu đó.
Nếu chịu mất công đi tìm
về, chúng ta mới được hưởng niềm vui trọn vẹn.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Khi làm người, Chúa đã
nhận trái đất này làm quê hương.
Chúa đã ban nó cho chúng
con như một quà tặng tuyệt vời.
Nếu rừng không còn xanh,
dòng suối không còn sạch,
và bầu trời vắng tiếng
chim.
thì đó là lỗi của chúng
con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến làm người để
tôn vinh phận người,
vậy mà thế giới vẫn có
một tỷ người đói,
bao trẻ sơ sinh bị giết
mỗi ngày khi chưa chào đời,
bao kẻ sống không ra
người, nhân phẩm bị chà đạp.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đến đem bình an cho
người Chúa thương,
vậy mà trái đất của chúng
con chưa một ngày an bình.
Chiến tranh, khủng bố,
xung đột, có mặt khắp nơi.
Người ta cứ tìm cách giết
nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu ở Belem,
Chúa đã cứu độ và chữa
lành thế giới bằng tình yêu khiêm hạ,
nhưng bất công, ích kỷ và
dối trá vẫn thống trị địa cầu.
Chúa đến đem ánh sáng,
nhưng bóng tối vẫn tràn lan.
Chúa đến đem tự do, nhưng
con người vẫn bị trói buộc.
Đó là lỗi của chúng con.
Vì lỗi của chúng con,
chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại,
và giấc mơ của Chúa sau
hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu.
Mỗi lần đến gần máng cỏ
Belem,
xin cho chúng con nghe
được lời thì thầm gọi mời của Chúa
để yêu trái đất lạnh giá
này hơn,
và xây dựng nó thành mái
ấm cho mọi người.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
6 THÁNG MƯỜI HAI
Sinh Bởi Thánh Thần
“Thánh Thần sẽ ngự xuống trên
bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” (Lc 1,35). Giáo Hội nhận Đức
Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa, làm nguyên mẫu (prototype) của mình. Chân lý này được
diễn tả bởi Công Đồng trong chương cuối Hiến Chế Giáo Hội. Hôm nay, một lần nữa,
chúng ta ý thức về chân lý này.
“Thánh Thần sẽ ngự xuống trên
bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà”. Trong ánh sáng của những lời
ấy, Mẹ Thiên Chúa đã không được nhìn thấy như là nguyên mẫu và là hình ảnh của
Giáo Hội đó sao?
Giáo Hội được khai sinh qua biến
cố Chúa Thánh Thần hiện xuống vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Chúa Thánh Thần ngự xuống
trên các Tông Đồ khi các vị đang tề tựu trong Căn Gác Thượng cùng với Đức
Ma-ri-a. Giáo Hội được khai sinh khi “quyền năng Đấng Tối Cao” tuôn tràn Thánh
Thần trên các Tông Đồ để giúp họ vượt thắng những yếu đuối của mình và khỏi vấp
ngã khi phải đương đầu với sự bách hại vì Tin Mừng.
Mừng kính Đức Ma-ri-a Vô Nhiễm,
phụng vụ dẫn chúng ta trở về với buổi ban đầu của lịch sử sáng tạo và cứu độ.
Thật vậy, thậm chí phụng vụ đưa chúng ta trở về trước cả buổi bình minh sáng tạo
nữa.
- suy tư 366 ngày của Đức
Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope
John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 06-12
Thánh Nicôla giám mục
Is 40,1-11; Mt 18,12-14.
Lời suy niệm: “Cha của anh
em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư
mất.”
Thiên Chúa là Cha của chúng ta,
vì yêu thương mỗi một người trong chúng ta, mà Ngài đã tạo dựng nên chúng ta với
ân sủng của Ngài, và Ngài hy vọng vào tương lai của mỗi người, sẽ được hưởng hạnh
phúc với Ngài. Nhưng với ơn ban tự do, khôn ngoan và suy tính của mỗi người
cùng cách sử dụng ân sủng Ngài ban cho, con người có thể sống đi ra ngoài ước
muốn của Ngài. Chúa Giêsu biết trước thực tại của mỗi người, nên Chúa đã loan
báo điều ước muốn của Chúa Cha.
Lạy Chúa Giêsu. Chúa cho chúng
con biết Chúa Cha luôn thể hiện tình yêu bảo vệ, tình yêu tìm kiếm, tình yêu
tha thứ và vui mừng khi tìm gặp lại chúng con. Xin cho mỗi người trong chúng
con luôn cảm nhận được tình yêu này để sống xứng danh là con cái của Ngài.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 06-12: Thánh NICÔLA
Giám Mục - (Thế kỷ IV)
Thánh Nicôla, vị đại thánh bình
dân, nhưng chỉ tìm được tiểu sử 200 năm sau khi Ngài chết. Người ta có thể nói
rằng: Ngài đích thực là giám mục Myra, đã hiện ra với vua Constantinô trong một
giấc mơ. Sau đó dường như các nhà chép sữ lại lẫn lộn với Nicola người Simon đã
bị tù dưới thời Diocletianô, đã xây một tu viện và được chôn cất tại vương cung
thánh đường thành Myra. Trừ sự kiện trên, nảy sinh ra nhiều huyền thoại và hơn
nghìn năm sau, thánh Nicôla nhân hậu đã thành danh tiếng khắp thế giới.
Huyền thoại kể lại rằng, ở
Patara, thuộc tỉnh Lycia, hai vợ chồng giàu có Anna và Euphêmiô vì không con đã
cố gắng tìm an ủi trong công việc từ thiện. Thiên Chúa chúc lành cho lòng bác
ái của họ. Cuối cùng họ có được một mụn con và đăt tên cho con là Nicôla, có
nghĩa là "sự chiến thắng của dân". Đây cũng là tên cậu Ngài, vị giám
mục Myra.
Ông cậu đã tiên đoán rằng:
Nicôla sẽ là "Mặt trời soi chiếu thế gian". Khi mới tắm rửa lần đầu,
con trẻ đặc biệt này đã chắp tay, đứng trong thau nước hai giờ liền, mắt hướng
về trời. Thứ tư và thứ sáu, Ngài không chịu bú cho tới chiều để ăn chay. Chị vú
nuôi sợ Ngài chết, nhưng trái lại, Ngài đã trở nên một con trẻ kiêu hùng.
Nicôla có nhiều đức tính tốt như
một trẻ em gương mẫu. Cha mẹ mất sớm. Nicôla thừa hưởng một gia tài kếch xù.
Nhưng Ngài lại coi tất cả tài sản này như của Chúa cho vay. Người phân phát cho
những người bất hạnh và thực hiện đức bác ái như một sự tế nhị dễ thương. Chẳng
hạn một người cha có ba cô con gái, ông tính cho con làm nghề bất lương để có
tiền cưới hỏi. Nhưng rồi đêm kia, ông thấy ba túi vàng chuyển qua cửa sổ, và có
thể làm lễ cưới hỏi cách lương thiện cho các cô. Khi biết được người cho, ông đến
xin thánh Nicôla cầu cho ơn tha thứ cho dự tính đáng chúc dữ của mình. Rồi bất
kể sự ngăn cấm của thánh nhân, ông đã kể lại khắp nơi cử chỉ bác ái của thánh
nhân đã thực hiện để cứu 3 người phụ nữ khỏi cảnh bất lương như thế nào.
Nicôla đã ao ước hiến đời mình
cho Thiên Chúa. Ông cậu giám mục của Ngài khi sắp chết đã truyền chức và đặt
Ngài làm bề trên tu viện thánh Sion. Khi Ngài du hành qua Thánh địa, cơn bão nổi
lên, các hành khách run sợ, Nicôla cầu nguyện cho họ và các cơn sóng dịu xuống,
con tàu êm đềm theo đuổi cuộc hành trình. Những cuộc can thiệp khác nữa làm cho
thánh Nicôla trở thành Đấng bảo trợ những người vượt biển. Các thủy thủ làm chứng
rằng khi bị đắm chìm, nhớ cầu tới Ngài là thấy Ngài đến cầm tay lái đưa tới cảng,
rồi biến đi...
Khi những người thoát nạn tới
nhà nguyện tu viện tạ ơn, người ta ngạc nhiên vì thấy vị cứu tinh của mình đang
chìm đắm trong kinh nguyện như không hề rời bỏ nơi này. Họ không cầm nổi những
lời tán tụng biết ơn xuất phát tự cõi lòng, nhưng thánh nhân bảo họ: "Hãy
chỉ nên ngợi khen Chúa về cuộc cứu thoát này, bởi vì đối với tôi, tôi chỉ là một
tội nhân và một đầy tớ vô dụng".
Và Ngài đã cho biết rằng, nguy
hiểm họ vừa trải qua là hình phạt vì các tội kín, cũng như sự hối lỗi của các
thủy thủ đã cứu thoát họ.
Nicôla xuống Alexandria là nơi
Ngài đã chữa lành các bệnh nhân, rồi đi thăm thánh Antôn ở Ai cập. Sau cùng,
Ngài đến Giêrusalem kính các nơi thánh và trải qua ít tuần trong hang mà Thánh
Gia đã dừng lại khi trốn qua Ai cập. Nơi đây, sẽ xây cất một thánh đường thánh
Nicôla. Vừa mới trở về Myra, nơi các tu sĩ đang nóng lòng chờ đợi cha họ trở về,
Ngài đã tăng gấp một cách lạ lùng đống bánh cho cả trăm người ăn.
Giám mục Myra qua đời, các giám
mục miền Lycia cân nhắc để chọn vị mục tử mới. Một sứ giả từ trời xuống báo tin
cho vị niên trưởng biết, người được chọn là linh mục Nicôla ngày mai sẽ tới mhà
thờ trước hết. Trời vừa sáng, Nicôla tới nhà thờ theo lòng sốt sắng và nghe
loan báo mình làm giám mục. Ngài muốn chạy trốn, nhưng phải theo ý nguyện của Đấng
Cao Cả hơn mình, trời cao chúc lành cho Ngài: dịp lễ đầu tay, thánh Nicôla đã
làm cho một em bé bị phỏng sống lại. Từ kỷ niệm này, người ta hay kêu cầu thánh
nhân những khi gặp nguy hiểm vì lửa.
Trở thành mục tử cả dân, thánh
nhân rất cưng chiều những người bị áp bức, mồ côi, bênh hoạn và tù tội hơn. Ban
đêm, Ngài cầu nguyện, nghỉ một chút trên đất, ăn ngày một bữa, mặc áo quần
khiêm tốn khác với hình ảnh ngày nay nhiều. Những y phục lộng lẫy theo hình vẽ ấy,
Ngài chỉ mặc vào những ngày đại lễ.
Đời sống tín hữu xáo trộn vì những
cuộc bách hại: vị giám mục bị lưu đày, đánh đập. Cuộc trở lại của vua
Constantinô đem lại tự do. Trên đường về, Ngài rao giảng Chúa Kitô, cải hóa
lương dân, phá đổ các đền thờ và ngẫu tượng. Ngài làm nhiều phép lạ như mưa.
Các thế hệ tương lai, còn kể lại huyền thoại của ba đứa trẻ bị một đồ tể tham
lam độc ác cắt cổ và để trong thùng muối ướp thịt đã sống lại nhờ lời cầu nguyện
của thánh Nicôla.
Các truyện có nhiều thêm thắt
như: Truyện người gian giảo có cây gậy đầy vàng, truyện đứa trẻ bị quỉ giả bộ
ăn xin bóp cổ, nhưng đã được thánh nhân cứu sống, truyện thánh nhân dàn xếp giữa
thày thuốc với bệnh nhân hiếm muộn con cái, hứa tặng chén vàng mà khi được lại
không giữ lời hứa. Gần với sự thực hơn là việc các nhà buôn lúa gạo ở Sycily nhờ
sự bao bọc lạ lùng của giám mục đã nuôi những người đói mà không giảm thiểu của
dự trữ. Vua Constantinô cũng mơ thấy thánh nhân đến gặp để cứu cuộc xử tội bất
công của ba viên chức. Sau đó các người bị giữ kêu cầu Ngài giải cứu và được nhận
lời bằng một phép lạ. Thế là các nạn nhân bị xử oan hay kêu cầu Ngài.
Sau khi hoàn tất bao nhiêu việc
lành thiêng liêng lẫn vật chất, thánh Nicôla muốn vào cõi đời đời. Bảo vệ giáo
thuyết công giáo tinh tuyền, Ngài đã chống lại lạc giáo tham dự cộng đồng
Nicea. Khi thấy sắp kết thúc cuộc đời. Ngài muốn lui về tu viện, nơi mà buổi
thiếu thời Ngài đã tự hiến cho Thiên Chúa, và chính tại nơi đây, Ngài phú dâng
linh hồn trong tay Chúa.
Năm 1087, Myra rơi vào tay người
Thổ, người ta vội đưa hài cốt vị thánh về Bari gần Naples. Từ đó, huyền thoại đời
Ngài lại lan rộng. Mỗi miền nói theo cách của mình. Dân ca Đông phương coi Ngài
như một vị Chúa trên trời. Đối với người Nga, Ngài là thừa kế thần linh lo chuyện
gặt hái. Siberia cho Ngài là người chế tạo rượu "bia".
Các vua nước Pháp sùng kính
Ngài. Các chủ tịch luật sư đoàn cầm gậy có hình thánh Nicôla. Bên tây phương, lễ
thánh Nicôla trở thành lễ của thiếu nhi vì làm sao các em lại không yêu mến vị
thánh nhân hậu đã cứu ba đứa trẻ đi mót lứa được ? Vị giám mục đầy huyền bí này
sau cùng đã trở thành ông già Noel ngày nay .
(daminhvn.net)
06 Tháng Mười Hai
Hai Cánh Cửa Sổ
Từ cánh cửa sổ nhìn vào thiên
nhiên, người ta có thể có nhiều cái nhìn khác nhau về cuộc sống.
Trong một vở kịch của Samuel
Beckett, một nhân vật đã kể lại như sau: "Tôi biết có một tên chán đời lúc
nào cũng nghĩ rằng ngày tận thế đang đến. Tôi thường đến thăm hắn trong dưỡng
trí viện. Tôi nắm tay hắn và dìu hắn đến bên cửa sổ. Tôi nói với hắn:
"Nhìn kìa, cả một cánh đồng bắp xanh tươi... Nhìn kìa, những cánh bướm
đang phất phới. Còn gì đẹp bằng!". Nhưng hắn gỡ tay tôi ra và trở về góc
phòng. Mặt mày hắn hớt hải tái mét. Tất cả những gì tôi chỉ cho hắn chỉ là một
đống tro tàn xám xịt".
Có một cánh cửa sổ khác từ đó
người ta chỉ có thể nhìn thấy cảnh đẹp mà thôi. Ðó là cánh cửa sổ nhỏ tại một
nhà nguyện ở phía Nam Ái Nhĩ Lan. Tất cả mọi cánh cửa sổ trong nhà nguyện này đều
được làm bằng kính trên đó có vẽ Ðức Kitô và các môn đệ của Ngài. Duy chỉ có một
cánh cửa sổ là không có hình vẽ. Xuyên qua tấm kính trong suốt của cánh cửa sổ
này, người ta có thể nhìn thấy một quang cảnh thật tươi mát, đó là một cái hồ
nước trong xanh nằm giữa những ngọn đồi cỏ lúc nào cũng xanh tươi. Bên dưới
cánh cửa sổ, người ta đọc được câu kinh thánh như sau: "Trời cao tường thuật
vinh quang Chúa. Thanh không kể ra sự nghiệp của Ngài".
Câu chuyện của hai cánh cửa sổ
trên đây gợi lên cho chúng ta vần thơ: Hai người cùng nhìn xuyên qua chấn song
cửa của nhà tù. Một người chỉ thấy có bùn nhơ, một người lại nhìn thấy những vì
sao.
Mùa Vọng là thời gian của hy vọng.
Chúng ta được mời gọi để đặt tất
cả tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ bỏ cuộc. Thiên
Chúa không bao giờ thất vọng về con người. Tiếp theo bao nhiêu vấp phạm và phản
bội của con người, Thiên Chúa vẫn đeo đuổi chương trình của Ngài. Người vẫn tiếp
tục yêu thương con người. Nơi hình ảnh đã hơn một lần hoen ố vì tội lỗi, Thiên
Chúa vẫn nhìn thấy phản chiếu vẻ đẹp cao sang của chính Ngài. Xuyên qua cánh cửa
sổ nhỏ của mỗi người, Thiên Chúa vẫn còn nhìn thấy cảnh đẹp của lòng người.
Chúng ta cũng được mời gọi để tiếp
tục tin tưởng nơi con người. Dù thấp hèn tội lỗi đến đâu, dù hung hãn độc ác đến
đâu, mỗi một con người đều là hình ảnh cao vời của Thiên Chúa, mỗi một con người
đều xứng đáng để tiếp tục tin tưởng, được yêu thương.
Tin tưởng phó thác nơi Thiên Chúa,
tin yêu nơi con người, chúng ta cũng được mời gọi để không thất vọng về chính bản
thân. Ðau khổ có chồng chất, tội lỗi có ngập tràn, mỗi người chúng ta vẫn là đối
tượng của một tình yêu cá biệt... Thiên Chúa yêu thương tôi, Thiên Chúa đang thực
hiện cho tôi những gì là thiện hảo nhất: đó phải là tư tưởng cơ bản hướng dẫn tất
cả Mùa Vọng của chúng ta. Từ bên cánh cửa sổ của tâm hồn nhìn vào cuộc đời,
chúng ta hãy nhận ra những vì sao của hy vọng, những cánh đồng xanh tươi của lạc
quan.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina: Mátthêu 18:12-14
Thứ Ba, 6 Tháng 12, 2016
Thứ Ba sau CN II Mùa Vọng
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa là Thiên Chúa của chúng
con,
Chúa đang ở gần bên chúng con
Trong Đức Giêsu Kitô, Con Một
Chúa.
Khi chúng con đi lạc hướng,
Chúa đi tìm chúng con cho đến
khi tìm thấy chúng con.
Xin Chúa hãy đưa chúng con trở về
bên Chúa,
Xin cho chúng con thấy đường đi
đến Chúa
Và đến với nhau
Nhờ Người là đường của chúng
con,
Đức Giêsu Kitô, Con của Chúa và
là Chúa của chúng con,
Đấng hằng sống với Chúa Cha và
Chúa Thánh Thần,
Một Thiên Chúa, đến muôn thuở
muôn đời.
2. Phúc Âm – Mátthêu
18:12-14
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: “Chúng con nghĩ sao? Nếu ai có một trăm con
chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên
núi, để đi tìm con chiên lạc sao? Nếu người đó tìm được, thì quả thật
Thầy bảo chúng con, người đó sẽ vui mừng vì con chiên đó hơn chín mươi chín con
chiên không thất lạc. Cũng vậy, Cha chúng con ở trên trời không muốn
để một trong những kẻ bé nhỏ này phải hư đi.”
3. Suy Niệm
- Một dụ ngôn không phải là một giáo lý để được tiếp
nhận một cách thụ động hay là chỉ để giữ lại trong trí nhớ, mà nó là một lời mời
gọi tham gia vào việc khám phá ra chân lý. Đức Giêsu bắt đầu bằng
câu hỏi: “Chúng con nghĩ sao?” Một dụ ngôn là một câu hỏi
với một câu trả lời không được xác định. Câu trả lời còn tùy thuộc
vào phản ứng và sự tham gia của người nghe. Vì thế, chúng ta hãy tìm
kiếm câu trả lời cho bài dụ ngôn chiên lạc này.
- Chúa Giêsu kể một câu chuyện rất ngắn và
trong một cách rất đơn giản: một người chăn chiên có một trăm con
chiên, mà lạc mất một con, người đó đã bỏ chín mươi chín con trên núi và đi tìm
con chiên lạc. Và Chúa Giêsu hỏi: “Các con nghĩ
sao?” Có nghĩa là: “Các con có sẽ làm như thế
không?” Câu trả lời của các mục tử và của những người khác đang lắng
nghe Chúa Giêsu kể câu chuyện này sẽ là gì? Liệu họ có sẽ cũng làm
như thế không? Câu trả lời của tôi cho câu hỏi của Chúa Giêsu là
gì? Chúng ta hãy suy nghĩ kỹ trước khi trả lời.
- Nếu bạn có một trăm con chiên mà lạc mất một
con, thì bạn sẽ làm gì? Chúng ta không nên quên rằng núi non là nơi
rất khó lên xuống, với những vách núi đá, nơi mà những thú dữ trú ngụ và bọn trộm
cướp ẩn náu. Và bạn không thể quên rằng bạn đã chỉ lạc mất có một
con chiên, và vì thế, bạn vẫn còn có chín mươi chín con! Bạn chỉ mất
mát rất ít. Liệu bạn có sẽ bỏ rơi chín mươi chín con chiên kia trên
núi không? Một người với một chút suy nghĩ bình thường có sẽ hành động
như người mục tử trong câu chuyện dụ ngôn của Chúa Giêsu không? Hãy
suy nghĩ cho kỹ!
- Những người chăn chiên đang lắng nghe trong câu
chuyện của Chúa Giêsu, có lẽ đã suy nghĩ và nhận xét: “Chỉ có kẻ
chăn chiên thiếu chín chắn mới hành động như thế!” Cách chắc chắn, họ
sẽ hỏi lại Chúa Giêsu: “Thưa Ngài Giêsu, xin thứ lỗi cho chúng tôi,
nhưng kẻ chăn chiên nào mà Ngài đang nói tới thế? Kẻ nào mà đi làm
những chuyện như thế thì thật là đồ ngốc!
- Chúa Giêsu đáp lời: “Vị Mục Tử này
là Thiên Chúa, Chúa Cha của chúng ta, và con chiên lạc là các con!” Nói
cách khác, người đi làm việc này là Thiên Chúa, được thúc đẩy bởi tình yêu cao
cả dành cho những kẻ bé mọn, cho những người nghèo khó, những kẻ bị khinh
chê! Chỉ có tình yêu tuyệt vời mới có khả năng làm được những việc đến
độ ngông cuồng như vậy. Tình yêu mà Thiên Chúa yêu thương chúng ta
vượt hẳn mọi sự thận trọng và lý lẽ khôn ngoan của loài người. Tình
yêu của Thiên Chúa liên lụy đến những việc ngốc nghếch. Tạ ơn
Chúa! Nếu không có những việc ngông cuồng như thế này, thì chúng ta
sẽ bị hư mất!
4. Một vài câu hỏi
gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
- Bạn hãy đặt mình trong trường hợp con chiên lạc
và làm sinh động đức tin và niềm cậy trông của bạn. Bạn đang là con
chiên đó!
- Bạn hãy đặt mình vào vị trí của người chăn chiên và
minh xác xem tình yêu thương của bạn dành cho những kẻ bé mọn có thật hay
không.
5. Lời nguyện kết
Hát lên mừng Chúa một bài ca mới,
Hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể
địa cầu!
Hát lên mừng Chúa, chúc tụng
Thánh Danh!
Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn
Người cứu độ.
(Tv 96)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét