12/06/2017
Thứ Hai tuần 10 thường niên
Bài Ðọc I: (Năm I) 2
Cr 1, 1-7
"Thiên Chúa an
ủi chúng tôi để chính chúng tôi có thể an ủi những ai lâm cảnh gian
truân".
Khởi đầu thư thứ hai của
Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Phaolô, Tông đồ của Ðức
Giêsu Kitô do ý Thiên Chúa, và anh Timôthêu kính gởi Hội thánh Thiên Chúa tại
Côrintô và hết thảy các thánh ở khắp miền Acaia: Nguyện xin ân sủng và bình an
của Thiên Chúa, Cha chúng ta, và của Chúa Giêsu Kitô, ở cùng anh em.
Chúc tụng Thiên Chúa
là Cha Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha nhân từ cùng là Thiên Chúa mọi niềm
an ủi, là Ðấng an ủi chúng tôi trong mọi nỗi gian truân, để chính chúng tôi có
thể an ủi những ai lâm cảnh gian truân, với niềm an ủi mà Thiên Chúa đã an ủi
chúng tôi. Bởi vì cũng như các nỗi đau khổ của Ðức Giêsu Kitô chan chứa trong
chúng tôi thể nào, thì nhờ Ðức Kitô, chúng tôi cũng được an ủi chứa chan thể ấy.
Nếu chúng tôi chịu gian truân là để anh em được an ủi và được cứu rỗi; nếu
chúng tôi được an ủi là để anh em được an ủi; nếu chúng tôi được uỷ lạo là cho
anh em được uỷ lạo và được cứu rỗi; niềm an ủi đó sẽ làm cho anh em kiên nhẫn
chịu các nỗi đau khổ mà chính chúng tôi cũng đang chịu, hầu cho niềm hy vọng của
chúng tôi về anh em được vững mạnh, (vì) biết rằng nếu anh em thông phần vào
các nỗi đau khổ, thì anh em cũng sẽ thông phần vào niềm an ủi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 33, 2-3.
4-5. 6-7. 8-9
Ðáp: Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi cho biết Chúa
thiện hảo nhường bao (c. 9a).
Xướng: 1) Tôi chúc tụng
Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn
tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. - Ðáp.
2) Các bạn hãy cùng
tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa
đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ. - Ðáp.
3) Hãy nhìn về Chúa để
các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và
Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. - Ðáp.
4) Thiên thần Chúa hạ
trại đồn binh chung quanh những người sợ Chúa và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm
thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao. Phúc đức ai tìm nương
tựa ở nơi Người. - Ðáp.
Alleluia: 1 Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! -
Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống
đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 5, 1-12
"Phúc cho những
ai có tinh thần nghèo khó".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy
đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần
Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng: "Phúc cho những ai có tinh thần
nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. - Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được
Ðất Nước làm cơ nghiệp. - Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. -
Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. - Phúc cho
những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. - Phúc cho những ai có
lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. - Phúc cho những ai ăn ở
thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. - Phúc cho những ai bị bách hại
vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ".
"Phúc cho các con
khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các
con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con
sẽ trọng đại ở trên trời. Người ta cũng đã từng bắt bớ các tiên tri trước các
con như vậy".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Tám mối
phúc thật
Có lẽ người Công giáo
nào cũng thuộc nằm lòng Tám Mối Phúc Thật, và có lẽ nhiều người ngoài Kitô giáo
cũng đã ít hay nhiều nghe nói đến bản Hiến Chương này. Cũng giống như bản thân
Chúa Giêsu, Tám Mối Phúc Thật là dấu chỉ của sự mâu thuẫn. Nếu đối với người
Công giáo và nhiều bậc vĩ nhân của nhân loại, Tám Mối Phúc Thật là nguồn cảm hứng
cho cuộc sống cao thượng; thì đối với một số người khác, như triết gia Nietzsch
chẳng hạn, Tám Mối Phúc Thật chỉ là một lô những đức tính của loài vật, bởi vì
chỉ có loài vật mới cúi đầu khuất phục và nhẫn nhục chịu đựng; đối với một số
khác nữa, Tám Mối Phúc Thật chỉ là những lời hứa hão về một thứ thiên đàng ảo
tưởng, hay nói theo ngôn ngữ của Karl Marx, đó chỉ là thuốc phiện ru ngủ quần
chúng. Vậy đâu là tinh thần đích thực của Tám Mối Phúc Thật?
Bản văn Giáo Hội cho
chúng ta lắng nghe hôm nay là của thánh Mátthêu. Chúa Giêsu chỉ công bố Tám Mối
Phúc Thật một lần duy nhất, nhưng được hai tác giả ghi lại; dĩ nhiên, với hai
cái nhìn khác nhau nhưng bổ túc cho nhau. Cái nhìn của Luca có tính xã hội:
Luca giải thích các mối phúc thật dưới ánh sáng giáo huấn của Chúa Giêsu về
nghèo khó và việc sử dụng của cải trần thế, để từ đó đề cao giai cấp những người
nghèo khổ trong xã hội; với Luca, những người nghèo thật sự là những tín hữu
tiên khởi của Giáo Hội. Trái lại, Mátthêu quan tâm đến khía cạnh luân lý nhiều
hơn: nếu Luca đề cao giai cấp cùng khổ, thì Mátthêu nhấn mạnh đến tinh thần
nghèo khó: "Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó", do đó theo Mátthêu,
con người vào được Nước Trời không đương nhiên vì tình trạng nghèo khó, mà vì
thái độ tinh thần của họ; cũng trong cái nhìn ấy, Mátthêu đáng giá về sự đói
khát: nếu Luca nói đến những nạn nhân của bất công, tức những người đói khát
cơm bánh thực sự, thì Mátthêu lại nhấn mạnh đến sự đói khát công lý nơi con người.
Tổng hợp hai cái nhìn
khác nhau của Luca và Mátthêu, chúng ta có thể đưa ra bài học về sứ mệnh của
Giáo Hội trong trần thế. Nước Chúa mà Giáo Hội loan báo không chỉ là Thiên Ðàng
trong thế giới mai hậu, nhưng đang đến trong cuộc sống tại thế này, qua những
giá trị như công bình bác ái, huynh đệ, liên đới. Chính trong những thực tại trần
thế mà con người phải tìm kiếm và xây dựng những thực tại Nước Trời.
Niềm tin của người
Kitô hữu thiết yếu hướng về cuộc sống mai hậu: mọi nỗ lực của người Kitô hữu nhằm
minh chứng cho mọi người về tính cách siêu việt của cuộc sống và định mệnh của
con người. Sống trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian, sống giữa thế
gian, nhưng con người phải nhìn về Quê hương đích thực là Thiên Quốc. Tuy
nhiên, niềm tin hướng về cuộc sống mai hậu ấy không thể làm cho người Kitô hữu
xao lãng với những nhiệm vụ trần thế của họ. Họ phải xác tín rằng chính qua những
thực tại trần thế, họ mới có thể gặp được những giá trị của Nước Trời; chính
qua những thực tại trần thế, họ mới đạt được cứu cánh vĩnh cửu của họ. Ðây quả
là một thách đố lớn lao cho người Kitô hữu ở mọi thời.
Một trong những nguyên
nhân khiến người Kitô hữu bị bách hại là bởi vì con người không hiểu được sứ điệp
của Tin Mừng. Chúa Giêsu đã bị chống đối và cuối cùng bị treo trên Thập giá là
bởi vì những người đương thời không hiểu được sứ điệp và con người của Ngài. Ðó
cũng chính là thân phận của người Kitô hữu trong trần thế, nhưng chính khi bị
bách hại mà vẫn kiên trì trong niềm tin của mình, người Kitô hữu mới thể hiện
được ý nghĩa sứ điệp của Tin Mừng.
Chúa Giêsu đã chẳng
nói: khi nào Ta bị giương cao, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta sao? Ðó là sức mạnh
và nét hấp dẫn của Tám Mối Phúc Thật mà Chúa Giêsu không chỉ rao giảng, mà còn
thể hiện cho đến cùng. Chết để cho sứ điệp Tin Mừng được đón nhận, đó là nghịch
lý của Tám Mối Phúc Thật. Cái chết ấy được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày của
người Kitô hữu, nghĩa là hăng say phục vụ, sống quảng đại, liêm khiết, sống bác
ái yêu thương, ngay cả chấp nhận những thua thiệt miễn là không đánh mất niềm
tin của mình.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 11 TN1,
Năm lẻ
Bài đọc: 2
Cor 6:1-10; Mt 5:38-42.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Những đòi hỏi
của người môn đệ Đức Kitô
Làm môn đệ ai là mong
muốn được trở nên giống người đó. Làm môn đệ của Đức Kitô là chúng ta phải cố gắng
học hỏi cuộc đời của Ngài, và diễn tả cách sống động bằng chính cuộc đời của
chúng ta, để những người khác cũng muốn trở thành môn đệ của Ngài. Các Bài Đọc
hôm nay tập trung trong những lời dạy dỗ và cố gắng đáp ứng những đòi hỏi của
người môn đệ Đức Kitô. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô khuyên các tín hữu đừng để
các ân huệ Thiên Chúa ban trở nên vô hiệu, họ phải biết cách dùng nó cho việc
phục vụ Tin Mừng như ông đã từng làm. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đòi hỏi các môn
đệ của Ngài không chỉ giữ Luật công bằng như người xưa; nhưng còn phải sống luật
yêu thương, để chứng tỏ cho người ta biết các ông là môn đệ Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chịu đựng đau khổ cho Nước Chúa trị đến.
1.1/ Đừng để ân huệ của
Thiên Chúa ban trở nên vô hiệu:
(1) Các tín hữu phải
biết sinh lời cho Chúa: Ân huệ Chúa ban cho con người không phải giữ lại để hưởng
thụ, nhưng để cho việc phục vụ và loan báo Tin Mừng. Thánh Phaolô nhận thức rõ
được điều này, nên ông khuyên các tín hữu: ''Vì được cộng tác với Thiên Chúa,
chúng tôi khuyên nhủ anh em: anh em đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa, thì đừng
để trở nên vô hiệu. Quả thế, Chúa phán rằng: Ta đã nhận lời ngươi vào thời Ta
thi ân, phù trợ ngươi trong ngày Ta cứu độ. Vậy, đây là thời Thiên Chúa thi ân,
đây là ngày Thiên Chúa cứu độ.''
(2) Noi gương Phaolô:
Nhìn lại công cuộc rao giảng Tin Mừng của mình, Phaolô tâm sự với các tín hữu,
mục đích không phải để đánh bóng cá nhân, nhưng để các tín hữu bắt chước ông
như ông đã bắt chước Đức Kitô: "Phần chúng tôi, chúng tôi chẳng làm gì gây
cớ cho ai vấp phạm, để không người nào có thể đàm tiếu về công việc phục vụ của
chúng tôi. Trái lại, trong mọi sự, chúng tôi luôn chứng tỏ mình là những thừa
tác viên của Thiên Chúa.'' Trong khi phục vụ Tin Mừng, Phaolô đã phải chịu khó
khăn đến từ mọi phía, Phaolô liệt kê những áp lực này như sau:
+ Phải chịu đựng những
áp lực đến từ bên trong: căng thẳng, sợ hãi, lo âu.
+ Phải chịu đựng những
áp lực đến từ bên ngoài: đòn vọt, tù đày, chống đối.
+ Phải hy sinh chịu đựng
khi rao giảng: lao nhọc, mất ngủ, mất ăn.
Khi phải đương đầu với
những áp lực khó khăn này, chúng tôi đều rất mực kiên trì chịu đựng
(u`pomonh/|). Chúa Giêsu cũng đã báo trước cho các môn đệ biết những khó khăn
mà các ông phải đương đầu với; nhưng Ngài hứa với các ông: Đừng sợ! vì Thầy ở
cùng anh em.
1.2/ Người rao giảng phải
được trang bị đầy đủ để sẵn sàng đối phó với nghịch cảnh: Thánh Phaolô chắc đã quá quen với binh giáp của người
chiến sĩ Rôma, nên khi mô tả hình ảnh nhà rao giảng, ông dựa trên những binh
giáp này. Hai khí cụ chính người chiến sĩ cần có là khiên thuẫn để bảo vệ thân
mình và gươm giáo để tấn công địch thù. Tương tự, nhà rao giảng cũng cần có 4 đức
tính để bảo vệ mình và 4 vũ khí để giao chiến.
(1) Những đức tính và
vũ khí người môn đệ phải có:
- 4 đức tính phải sở hữu
để tự vệ như thuẫn đỡ khiên che: trong sạch để không bị lôi cuốn vào lối sống của
thế gian, khôn khéo để biết cách đương đầu với con người và thích ứng với những
hoàn cảnh khác nhau, nhẫn nhục để chịu đựng mọi gian khổ và xỉ nhục, và có lòng
nhân hậu để thông cảm và tha thứ.
- 4 vũ khí cần thiết để
tấn công như gươm giáo:
+ một tinh thần thánh
thiện để thánh hóa đời, chứ không để đời lôi cuốn.
+ một tình thương
không giả dối: để yêu thương và cho đi cách vô vị lợi.
+ lời chân lý: thông
hiểu và nhiệt thành rao giảng Tin Mừng.
+ sức mạnh của Thiên
Chúa: người môn đệ tin vào sức mạnh của Thiên Chúa, chứ không cậy dựa vào sức
mình. Nói như thánh Phaolô: "Chúng tôi lấy sự công chính làm vũ khí tấn
công và tự vệ, khi vinh cũng như khi nhục, lúc được tiếng tốt cũng như khi mang
tiếng xấu.''
(2) Những thái độ tự
tin người môn đệ phải có: Bên cạnh các vũ khí được trang bị, người chiến sĩ cần
có một thái độ tự tin khi giao chiến. Nếu không có thái độ tự tin, người chiến
sĩ sẽ dễ đầu hàng trước nghịch cảnh. Một cách tương tự, nhà rao giảng cũng phải
có thái độ vững tin nơi Thiên Chúa và nơi mình. Dựa trên kinh nghiệm cá nhân,
thánh Phaolô liệt kê một số những thái độ tự tin nhà rao giảng cần có:
- bị coi là giả hiệu
(impostor), nhưng kỳ thực chúng tôi chân thành;
- bị coi là vô danh,
nhưng kỳ thực chúng tôi được mọi người biết đến;
- bị coi là sắp chết,
nhưng kỳ thực chúng tôi vẫn sống;
- bị coi như trừng phạt,
nhưng kỳ thực không bị giết chết;
- bị coi như phải ưu
phiền, nhưng kỳ thực chúng tôi luôn vui vẻ;
- bị coi như nghèo
túng, nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao người trở nên giàu có;
- bị coi như không có
gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất cả.
2/ Phúc Âm: Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt
đi.
2.1/ Đòi hỏi tối thiểu của
Luật công bằng: "Anh em đã nghe Luật dạy
rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng." Đây là Luật Talionis xưa nhất trên thế
giới, được tìm thấy trong Bộ Luật Hammurabi, khỏang 2250 BC. Luật này cũng được
tìm thấy trong Cựu Ước ít là 3 lần (Exo 21:23-25, Lev 24:19-20, Deut 19:21). Mấy
điều quan trọng về Luật này cần lưu ý: (1) Nó ngăn cấm việc gia tăng báo thù;
(2) Nó được thi hành bởi quan án và ngăn cấm việc báo thù cá nhân; (3) Nó không
được thi hành theo nghĩa đen, nhưng được tính bằng tiền bồi thường; và (4) nó
không phải là tất cả Luật của Cựu Ước, vì vẫn còn những luật yêu thương và tha
thứ (Lev 19:18, Pro 25:21, Lam 3:30).
2.2/ Sự hoàn thiện của Luật
Yêu Thương: "Còn Thầy, Thầy bảo anh em:
đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má
bên trái ra nữa; nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho
nó lấy cả áo ngoài; nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy
hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi."
Chúa Giêsu không bảo chúng ta hiểu theo nghĩa đen, nhưng Ngài muốn dạy chúng ta
3 nguyên tắc chính yếu của luân lý Kitô Giáo: (1) Người môn đệ không bao giờ được
khinh bỉ hay tìm cách báo thù người đã gây thiệt hại cho họ; (2) Người môn đệ
không bao giờ được đòi hỏi quyền mình phải được hưởng; (3) Người môn đệ không
bao giờ được vịn vào quyền và tự do để làm những gì mình thích, nhưng phải luôn
nghĩ tới bổn phận phải làm để giúp tha nhân và xây dựng Nước Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta là những
môn đệ của Đức Kitô; vì thế, chúng ta phải cố gắng học hỏi và minh họa đời sống
của Đức Kitô trong chính bản thân mình cho người khác nhận ra và tin vào Ngài.
- Chúng ta không thể bằng
lòng với việc giữ cẩn thận Thập Giới, vì đó chỉ là nhưng điều kiện tối thiểu;
nhưng phải đáp ứng đòi hỏi của giới luật yêu thương để chinh phục con người về
cho Thiên Chúa.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
Mt
5,1-12
NGHÈO
LÀ MỐI PHÚC
“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì
Nước Trời là của họ.”(Mt 5,3)
Suy
niệm: Con người trần thế tìm
mọi cách để dành cho bằng được giàu sang, quyền thế, cho dù phải gây thù chuốc
hận, cho dù phải gây ra những cuộc chiến tương tàn khốc hại... Đang khi đó,
Chúa Giê-su lại coi nghèo là một mối phúc. Chắc chắn, Ngài không ủng hộ thứ nghèo
làm giảm phẩm giá con người. Ngài muốn con người có được sự giàu sang vĩnh cửu:
được cả Nước Trời làm gia nghiệp, chứ không phải thứ giàu sang chỉ đem lại cho
con người niềm hạnh phúc chóng vánh, tạm thời ở đời này. Để đạt được thứ giàu
sang bền vững ấy phải biết làm cho mình nghèo đi những thứ của cải tạm bợ và
giả trá. Nghèo có phúc là: - nắm giữ chức quyền nhưng không tham quyền cố vị
trái lại phục vụ trong khiêm tốn; - làm ra của cải vật chất nhưng không bị lệ
thuộc vào chúng, trái lại biết “hằng ngày dùng đủ” và cảm thông chia sẻ với
nhau trong tình anh em. Nghèo như thế, chiến tranh, hận thù mới biến mất, và
thế giới này chỉ còn có tình mến chan hoà. Nghèo như thế mới là mối phúc.
Mời Bạn: “Trong thế giới chúng
ta, tiền, lợi nhuận, sự khao khát của cải vật chất phá hỏng mọi tương quan, đức
nghèo chọn lựa cách tự nguyện trong đoàn kết và chia sẻ dạy ta lòng biết ơn và
biết sống cách vô vị lợi, cậy trông và phó thác” (Sr Christianne, fmm). Lời
chia sẻ đó có làm cho chúng ta suy nghĩ để sống nghèo như mối phúc của Chúa
Giê-su không? Bạn hãy chia sẻ mục đích sống nghèo mà bạn sẽ chọn lựa.
Sống Lời Chúa: Trong tương quan với
người khác, ta nghĩ đến tình nghĩa hơn là tư lợi.
Cầu
nguyện: Lạy Chúa, con xin ký
thác đường đời con cho Chúa. Amen.
(5 phút Lời Chúa)
Phúc thay (12.6.2017 – Thứ hai Tuần 10 Thuờng niên)
Chúng ta có thể viết thêm những mối phúc mới qua những kinh nghiệm trong cuộc đời Kitô hữu.
Suy niệm:
Đức Đạt-lai Lạt-ma, vào mùa thu năm 1994 tại thủ đô
nước Anh,
đã được mời chia sẻ về
giáo huấn của Chúa Giêsu trong các sách Tin Mừng.
Một trong những bài chia
sẻ đầu tiên là về các Mối Phúc.
Theo ngài các Mối Phúc
dường như nói về nghiệp (karma), về nhân quả.
“Nếu bạn hành động như
thế, thì bạn sẽ chịu hậu quả như thế.
Nếu bạn không hành động
như thế, thì bạn cũng chẳng chịu hậu quả như thế.
Vậy rõ ràng nguyên lý
nhân quả nằm ở trong giáo huấn của các Mối Phúc.”
Thật ra các Mối Phúc của
Kitô giáo lại không bắt nguồn từ nguyên lý nhân quả,
dù mới đọc ta có cảm
tưởng như vậy.
Các Mối Phúc bắt đầu bằng
chữ “Phúc thay”,
kế đến nói lên ai là
người được hưởng phúc ấy,
cuối cùng nêu lên lý do
hay nền tảng của hạnh phúc ấy bằng chữ “vì”.
Hạnh phúc đích thật của
người Kitô hữu không phải là “quả” tự nhiên
do “nhân” là việc lành
phúc đức của họ.
Dù sống tốt đến mấy đi
nữa, thì “nhân” ấy cũng không thể sinh “quả” ấy được.
“Quả” hạnh phúc của Kitô
giáo là quà tặng lớn của Thiên Chúa cho con người.
Điều này được diễn tả qua
những lối dùng động từ ở thể thụ động:
“sẽ được ủi an, sẽ được
no thỏa, sẽ được xót thương, sẽ được gọi.”
Trước
khi giảng về các Mối Phúc, Đức Giêsu đã loan báo:
“Hãy
hối cải, vì Nước Trời đã gần bên” (Mt 4, 17).
Nước
Trời người Do thái mong đợi đã đến với sự hiện diện của Đức Giêsu.
Quà
tặng nhưng không của Thiên Chúa đã được trao ban,
chẳng
phải do công sức của con người.
Hãy
mở lòng ra đón lấy Nước ấy bằng cách hối cải, bỏ đời sống cũ.
Nhưng
hơn thế nữa, còn phải đón nhận một lối sống mới cho phù hợp.
Bài
giảng trên Núi, và các Mối Phúc, cho thấy hướng sống
của
những ai muốn đón nhận quà tặng Nước Trời với bao hạnh phúc kèm theo.
Để
nhận được quà tặng vô giá ấy, để được hưởng hạnh phúc vô bờ ấy,
cần
cung kính đưa hai tay để đón lấy với lòng khiêm hạ và biết ơn.
Sống
theo các Mối Phúc là có thái độ trân trọng cung kính ấy.
Không
đưa tay thì cũng chẳng được quà.
Nhưng
không phải cứ đưa tay là có quà,
nếu
Thiên Chúa không muốn cho trước khi ta xin.
Kitô
giáo không dựa trên nguyên lý nhân quả.
Cung
kính đưa tay là sống nghèo khó, cậy dựa vào Thiên Chúa,
là
hiền lành, là chịu sầu khổ, chịu bách hại vì Đức Kitô.
Cung
kính đưa tay là có lòng thương xót, có tinh thần xây dựng hòa bình,
là
làm tất cả mọi sự với quả tim trong sáng, không chút vẩn đục.
Khi
làm như thế chúng ta hy vọng được chạm đến Thiên Chúa,
thậm
chí được nếm biết Nước Trời ngay từ đời này (cc. 3. 10).
Chúng
ta có thể viết thêm những mối phúc mới
qua
những kinh nghiệm trong cuộc đời Kitô hữu.
Có
bao niềm vui lớn nhỏ mỗi ngày mà ta cảm nhận khi sống lời dạy của Giêsu.
Chỉ khi ấy ta mói thấy
thật sự lời của Ngài là Tin Mừng.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của
Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập
tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống
của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm
toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa
sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng
qua chúng con,
để những người chúng con
tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang
hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết
rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói
suông,
nhưng bằng cuộc sống
chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy
tình yêu của Chúa.
(Thánh Têrêxa Calcutta)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
12 THÁNG SÁU
Chúng Ta Quyết Định
Vận Mệnh Của Chính Mình
Công Đồng Vatican II
diễn tả cùng sự thật ấy về con người bằng những ngôn từ vừa bất hủ vừa rất
chính xác đối với thời đại hôm nay: “Con người chỉ có thể quay về với sự thiện
một cách tự do … Phẩm giá con người đòi họ phải hành động theo sự lựa chọn ý thức
và tự do” (MV 17). “Nhờ có nội giới, con người vượt trên mọi vật. Khi quay về với
lòng mình tức là họ trở về với nội giới thâm sâu này, ở đó Thiên Chúa, Đấng thấu
suốt tâm hồn, đang chờ đợi họ; và cũng chính nơi đó con người tự định đoạt về vận
mệnh riêng của mình dưới con mắt của Thiên Chúa” (MV 14).
Sự tự do đích thực của
con người là sự tự do đặt nền tảng trên sự thật. Từ nguyên thủy, sự tự do này
đã mạc khải hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người. Vâng, sự thật giải phóng con
người để con người trở nên chính mình một cách viên mãn trong Đức Kitô.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 12-6
2Cr 1, 1-7; Mt
5,1-12.
Lời suy niệm: “Phúc thay ai
xây dựng hòa bình, vì họ được gọi là con Thiên Chúa.”
Thiên Chúa là tình
yêu, và Ngài đã sáng tạo mọi loài trong tình yêu, Ngài cho biết tất cả đều tốt
đẹp. Nhưng con người đã phạm tội bất phục tùng với Ngài, nên trong chính con
người luôn có sự bất an, cái thiện và cái ác luôn đối đầu với nhau tạo nên một
cuộc chiến tranh trong chính mình, nảy sinh ra sự bất hòa giữa con người với
nhau và với các tạo vật khác. Nên những ai làm công việc giải hòa đem lại hòa
bình, là đang cọng tác với Thiên Chúa trong việc sáng tạo của Ngài. Điều này
Chúa Giêsu xác nhận đây là một phúc được gọi là người con Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Thế giới
ngày hôm nay, đâu đâu cũng đang diễn ra chiến tranh với nhiều lại vũ khí tối
tân giết chết con người và các sinh vật khác, hủy hoại thiên nhiên. Xin Chúa
ban cho nhân loại có thêm thật nhiều người ra tay xây dựng hòa bình, để tất cả
nhân loại được sống trong hòa bình thực sự, vui hưởng sự bình an của Chúa đã
ban cho.
Mạnh Phương
12 Tháng Sáu
Ngọn Lửa Không Hề Tắt
Tong tác phẩm Ðại Học
Máu, văn sĩ Hà Thúc Sinh cũng giống như văn hào Nga Solzenitzyn ghi lại thân phận
tù đày của các tù nhân Việt Nam trong các trại học tập. Nhưng giữa những đọa
đày cùng cực của kiếp người, Hà Thúc Sinh vẫn có cái nhìn lạc quan về thân phận
con người. Con người bị bạo hành ở những mức độ vô nhân nhất mà vẫn khôi hài,
cười đùa, bỡn cợt được.
Trong tác phẩm đầu
tay của ông có tựa đề "Hai chị em", Hà Thúc Sinh đã nêu bật được hình
ảnh con người tranh đấu lạc quan, chẳng còn biết gì để sợ, sẵn sàng kịch liệt
chống lại định mệnh để tự thắng và tự cứu mình... Hai chị em Lan và Trực bị đắm
tàu trong một cuộc vượt biên đầy nguy hiểm. Là hai người duy nhất còn sống sót,
họ trôi dạt và tấp vào một hoang đảo giữa Thái Bình Dương. Trong nguyên một tuần
lễ, tác giả đề cao sức chịu đựng, tinh thần tháo vát của hai chị em. Sau một tuần
lễ chịu đựng, người chị ngã bệnh, Trực bèn kết bè để ra khơi mong tìm lại được
chiếc ghe đắm trên đó còn chút ít lương thực, thuốc men và quần áo. Khi ra đi,
anh đã nhóm đã nhóm được một ngọn lửa trên núi cao vừa làm dấu hiệu để kêu gọi
sự chú ý của thuyền bè qua lại trong vùng, vừa lấy đó như ngọn hải đăng để còn
có thể quay lại đảo... Nhưng anh đã ra đi và không bao giờ trở lại hoang đảo...
Sóng to gió lớn có lẽ đã chôn vùi anh giữa lòng đại dương. Người chị tất tả chạy
ra bãi cát giữa cơn giông bão để réo gọi tên em.
Tác giả đã kết thúc
câu chuyện như sau: "Nếu có thuyền bè chạy qua eo biển, một vùng hoang đảo
trên Thái Bình Dương những ngày biển lặng sau đó, chú mục, người ta có thể nhìn
thấy một ngọn lửa. Ngịn lửa ấy đốt bập bùng trên một triền núi, khi lớn, khi nhỏ,
khi tỏ, khi mờ. Nhưng có điều chắc chắn là nó chưa hề tắt".
Sống là một cuộc chiến
đấu không ngừng. Chiến đấu chống lại với những khắc nghiệt của thiên nhiên, chống
lại không biết bao nhiêu kẻ thù, chống lại với chính bản thân đầy ươn hèn, xấu
xa.
Nhưng người Kitô hữu
không phải là một thứ anh hùng khắc kỷ, tự chiến đấu một mình và tin ở sức mạnh
vô song của ý chí. Chúa Giêsu đã chiến đấu, nhưng Ngài không là một anh hùng của
một ý chí sắt đá. Sức mạnh duy nhất của Ngài chính là Thiên Chúa. Lương thực của
Ngài chính là Thánh ý Chúa Cha. Khí giới của Ngài là sự kết hiệp với Chúa Cha.
Qua ba cơn cám dỗ,
Chúa Giêsu đã luôn luôn qui chiếu vào Lời Chúa. Lời của Chúa là khí giới, là
thuẫn đỡ của Ngài.
Tôi sống nhưng không
phải là tôi sống, mà chính là Ðức Kitô sống trong tôi. Ðó phải là ý lực sống của
chúng ta. Chúng ta cũng hãy nói: tôi chiến đấu, nhưng không phải là tôi chiến đấu,
mà chính Ðức Kitô chiến đấu trong tôi. Sức mạnh của Kitô giáo, bản chất của
Kitô giáo không phải là tổng số của các tín hữu, mà chính là Sự Sống của Ðức
Kitô đang châu lưu trong từng người tín hữu.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét