13/06/2017
Thứ Ba tuần 10 thường
niên
Thánh Antôn Pađôva, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh.
Lễ nhớ
*
Chào đời khoảng cuối thế kỷ 12, tại Lít-bon, Bồ-đào-Nha, nhập hội kinh sĩ thánh
Augustinô, nhưng sau khi làm linh mục được ít lâu, thánh Antôn hâm mộ lý tưởng
sống Tin Mừng của thánh Phanxicô. Người đã đến Át-xi-di, sống bên cạnh thánh
Phanxicô (năm 1221).
Với tài năng giảng thuyết ngoại thường, người được phái qua
Pháp là nơi các giáo thuyết của phái Ca-tha đang hoành hành. Người lập một tu
viện ở Bơ-ri-vơ La Gai-ác. Thánh nhân là người đầu tiên trong dòng dạy thần học
cho anh em. Người qua đời tại Pađôva sau khi giảng tĩnh tâm mùa Chay tại đó
(năm 1231).
Bài Ðọc I: (Năm I) 2
Cr 1, 18-22
"Ðức Giêsu
không phải vừa "Có" lại vừa "Không", nhưng nơi Người chỉ
"Có" mà thôi".
Trích thư thứ hai của
Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, xin
Thiên Chúa là Ðấng trung tín, chứng giám cho rằng lời nói của chúng tôi đối với
anh em không phải là vừa "Có" lại vừa "Không". Quả thế, Con
Thiên Chúa là Ðức Giêsu Kitô, Ðấng mà tôi, Silvanô và Timôthêu đã rao giảng nơi
anh em, Người không phải vừa "Có" lại vừa "Không"; trái lại,
nơi Người chỉ là "Có" mà thôi. Bởi chưng bao nhiêu lời hứa của Thiên
Chúa đã thành "Có" ở nơi Người. Vì thế, nhờ Người mà chúng tôi hô lên
lời "Amen" tôn vinh Thiên Chúa. Vậy Ðấng đã làm cho chúng tôi và anh
em được đứng vững trong Ðức Kitô, và đã xức dầu cho chúng ta, chính là Thiên
Chúa, Ngài đã ghi dấu trên mình chúng ta, và đã ban vào lòng chúng ta bảo chứng
của Thánh Thần.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118, 129.
130. 131. 132. 133. 135
Ðáp: Lạy Chúa, xin tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền
hậu của Chúa (c. 135a).
Xướng: 1) Kỳ diệu thay
những lời Ngài nghiêm huấn, bởi thế linh hồn con vẫn tuân theo. - Ðáp.
2) Sự mạc khải lời
Ngài soi sáng, và dạy bảo những người chưa kinh nghiệm. - Ðáp.
3) Con há miệng để hút
nguồn sinh khí, vì con ham muốn những chỉ thị của Ngài. - Ðáp.
4) Xin Chúa nhìn lại
thân con và thương xót, như Chúa quen xử với những người yêu mến danh Chúa. -
Ðáp.
5) Xin hướng dẫn con
bước theo lời răn của Chúa, và chớ để điều gian ác thống trị trong mình con. -
Ðáp.
6) Xin tỏ cho tôi tớ
Ngài thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! -
Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống".
- Alleluia.
Phúc Âm: Mt 5, 13-16
"Các con là sự
sáng thế gian".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các môn đệ rằng: "Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta
biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ
còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó. Các con là sự sáng thế gian. Một
thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp
đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người
trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ
xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Muối và Ánh
Sáng
Muối là để làm gia vị,
đèn là để soi sáng. Với hai hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn nói lên sứ mệnh của
Giáo Hội trong trần thế. Ngay từ đầu lịch sử của mình, Giáo Hội đã ý thức về sứ
mệnh ấy. Giáo Hội là muối và ánh sáng của thế giới, bởi vì là Thân Thể của Ðấng
là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống. Giáo Hội luôn xác tín rằng tất cả chân lý về
Thiên Chúa và về con người đã được Chúa Giêsu mạc khải và ủy thác cho Giáo Hội.
Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội bày tỏ cho nhân loại biết con người là ai? Con
người bởi đâu mà đến? Con người sẽ đi về đâu? Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội
chứng tỏ cho con người cùng đích của cuộc sống, đó là sống với Thiên Chúa.
Các tín hữu tiên khởi
đã xác tín về điều đó, cuộc sống bác ái yêu thương của họ đã là muối và ánh
sáng cho nhiều người. Những tiến bộ về khoa học, văn hóa, kinh tế và ngay cả
chính trị tại Âu Châu thời Trung Cổ quả là thể hiện vai trò muối và ánh sáng của
Giáo Hội. Không ai có thể vai trò hạt nhân về phát triển của các Tu viện Công
giáo. Văn minh Tây phương, dù muốn hay không, vẫn là văn minh Kitô giáo. Những
giá trị tinh thần mà nhân loại đạt được ngày nay, như tự do, dân chủ, nhân quyền,
đều là những giá trị xuất phát từ Kitô giáo. Qua những giá trị tinh thần ấy,
chúng ta có thể nói rằng muối của Giáo Hội đã ướp được phần lớn trái đất, ánh
sáng của Giáo Hội đã chiếu soi vào những góc tối tăm của tâm hồn.
Tuy nhiên, hình ảnh muối
và ánh sáng vẫn luôn gợi lên cho chúng ta cái tư thế nhỏ bé của Giáo Hội. Người
ta chỉ cần một lượng nhỏ muối để ướp một lượng lớn thực phẩm, một cái đèn nhỏ
cũng đủ để chiếu dọi một khoảng không gian lớn. Phải chăng với hình ảnh của muối
và ánh sáng, Chúa Giêsu không muốn ám chỉ tới cái vị thế đàn chiên nhỏ bé là
Giáo Hội? Ðã qua hơn 2,000 năm lịch sử, các môn đệ Chúa Giêsu đã đi khắp thế giới
để rao giảng cho mọi dân tộc. Nếu xét về con số, thì thực tế không thể chối cãi
là hơn 2/3 nhân loại vẫn chưa trở thành môn đệ Chúa Giêsu, và càng ngày xem chừng
những người mang danh hiệu Kitô càng nhỏ lại, nếu so với những người ngoài Kitô
giáo.
Muối và đèn soi vốn là
những hình ảnh gợi lên cho chúng ta cái tư thế thiểu số của Giáo Hội trong trần
thế, nhưng lại mời gọi chúng ta xác tín về sứ mệnh vô cùng to tát của Giáo Hội.
Bằng mọi giá, Giáo Hội phải ướp mặn thế giới, phải chiếu soi trần gian bằng
chính chân lý cao cả mà Chúa Giêsu đã mạc khải và ủy thác cho mình. Cả vận mệnh
nhân loại tùy thuộc sứ mệnh của Giáo Hội, do đó không có lý do nào cho phép
Giáo Hội xao lãng sứ mệnh ấy. Thánh Phaolô đã nói lên sự khẩn thiết của sứ mệnh
ấy như sau: "Gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện, cũng phải luôn luôn
rao giảng Tin Mừng của Chúa".
Ðã có một lúc Giáo Hội
gặp nhiều dễ dàng và thuận tiện trong việc thực thi sứ mệnh: cả một quốc gia, cả
một lục địa đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Thế nhưng, cũng có biết bao thời kỳ Giáo
Hội bị khước từ, bị bách hại, đây chính là lúc không thuận tiện mà thánh Phaolô
nói đến và cũng là lúc Giáo Hội càng phải rao giảng mạnh mẽ và kiên quyết hơn.
Chính vì là thiểu số, và là một thiểu số bị loại trừ và bách hại, Giáo Hội lại
càng phải ý thức hơn về vai trò là muối và ánh sáng của mình.
Một trong những nguy
cơ lớn nhất đối với Giáo Hội chính là thỏa hiệp: thỏa hiệp để được một chút dễ
dãi, thỏa hiệp để được một chút đặc quyền đặc lợi. Thực ra, đã là thỏa hiệp tức
là đánh mất một phần căn tính của mình: thay vì muối để ướp cho mặn, thì muối lại
đánh mất chất mặn của mình đi; đã là đèn dùng để soi sáng thì đèn lại bị đặt dưới
đáy thùng; thay vì rao giảng lời chân lý, Giáo Hội thỏa hiệp để chỉ còn rao giảng
lời của những sức mạnh đang khống chế mình. Xét cho cùng, sứ mệnh của muối và
ánh sáng cũng chính là sứ mệnh của tiên tri. Số phận của tiên tri là số phận của
thiểu số, nhưng là thiểu số dám lên tiếng rao giảng chân lý, sẵn sàng tố cáo bất
công, và dĩ nhiên sẵn sàng hy sinh, ngay cả mạng sống mình.
Giáo Hội là muối và
ánh sáng thế gian. Mỗi Kitô hữu tự bản chất cũng là muối và ánh sáng của thế
gian. Họ sẽ đánh mất bản chất mặn của muối và tia sáng của ánh sáng, nếu chỉ vì
một chút lợi lộc vật chất, một chút dễ dãi, mà họ thỏa hiệp với những gì đi ngược
chân lý của Chúa Giêsu. Một cách cụ thể, người Kitô hữu sẽ không còn là muối và
ánh sáng, nếu theo dòng chảy của xã hội, họ cũng lọc lừa, móc ngoặc, dối trá.
Nguyện xin Chúa ban
thêm sức mạnh, để dù chỉ là một thiểu số, chúng ta vẫn luôn là muối có sức ướp
mặn xã hội, là đèn có sức chiếu soi xã hội.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Ba Tuần 10 TN1,
Năm lẻ
Bài đọc: 2
Cor 1:18-22; Mt 5:13-16.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người được trang bị để làm vinh danh Thiên Chúa.
Trong việc giao tiếp, danh giá của một người ảnh hưởng đến những gì họ nói và
làm; ví dụ, khán giả thường tin vào danh giá của diễn giả, trước khi họ có thể
tin vào những gì diễn giả nói. Nhưng danh giá là những gì diễn giả có được, chỉ
sau một thời gian chứng minh cho khán giả biết mình là người có thể tin cậy được.
Ngược lại, nếu khán giả nghi ngờ danh giá của diễn giả, họ sẽ không tin hay
không thèm nghe, những gì diễn giả trình bày. Trong việc rao giảng Tin Mừng
cũng thế, nhà rao giảng cần thiết lập danh giá của mình trước khi rao giảng Tin
Mừng cho khán giả. Nếu nhà rao giảng có một cuộc sống bê bối hay gian dối, ông
không thể làm cho người khác tin vào Tin Mừng ông rao giảng, vì "lời nói
lung lay, gương bày lôi cuốn."
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc Thiên Chúa đã trang bị cho con người đầy
đủ để họ có thể làm chứng cho Ngài. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô xác nhận rõ
ràng Đức Kitô đã làm cho tất cả những lời hứa của Thiên Chúa thành hiện thực.
Phaolô và các môn đệ của ông noi gương Đức Kitô để sống và làm chứng cho sự thật
này. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: anh em là muối để ướp và là
ánh sáng để soi sáng cho thế gian. Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt
thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của
anh em, Đấng ngự trên trời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Quả thật, mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là "có"
nơi Người.
1.1/ Đức Kitô là mọi tiếng
"có" của Thiên Chúa: Thánh Phaolô
xác quyết Đức Kitô hoàn thành những gì Thiên Chúa hứa với con người qua các Tổ-phụ
và Tiên-tri: "Quả thật, mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là "có"
nơi Người. Vì thế, cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên "Amen" để tôn
vinh Thiên Chúa." Một vài ví dụ dẫn chứng điều này: lời Thiên Chúa hứa ban
cho Abraham một giòng dõi đông như sao trên trời và như cát ngoài bãi biển, lời
hứa ban Đấng Thiên Sai qua các tiên tri, lời hứa ban ơn cứu độ cho tất cả mọi
dân tộc ... Tiếng "Amen" mà chúng ta thường thưa sau đoạn kết của các
kinh nguyện: "chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen"
có nghĩa "chớ gì được như thế." Vì Đức Kitô là nguồn mạch mọi ơn
lành, chúng ta xin những điều đó nhân danh Ngài, và ước mong Thiên Chúa sẽ ban
những điều chúng ta xin.
Ngược lại với Thiên Chúa, con người không luôn luôn giữ những gì mình hứa. Vì
thế, con người phải bắt chước Đức Kitô để luôn luôn biết nói, sống, và làm chứng
cho sự thật. Thánh Phaolô phân giải với các tín hữu Corintô: "Xin Thiên
Chúa trung thành chứng giám cho chúng tôi! Lời chúng tôi nói với anh em chẳng
phải vừa là "có" vừa là "không." Vì Đức Giêsu Kitô, Con
Thiên Chúa, Đấng mà chúng tôi, là Sylvano, Timothy, và tôi, rao giảng cho anh
em, đã không vừa là "có" vừa là "không," nhưng nơi Người chỉ
toàn là "có."" Khi con người trung thành giữ những gì Đức Kitô dạy,
họ làm chứng cho Ngài và cho Thiên Chúa.
1.2/ Thánh Thần là bảo chứng
mọi tiếng "có" của Thiên Chúa: Thiên
Chúa không những sai Đức Kitô để thực hiện những gì Ngài hứa với con người, mà
còn gởi Thánh Thần của Ngài tới để giúp con người có sức để hoàn thành những gì
Ngài đòi hỏi. Ví dụ, Đức Kitô đã chết để phục hồi sự sống cho con người; nhưng
để có sự sống này, Thiên Chúa đòi con người phải tin vào Đức Kitô và giữ những
điều răn Ngài dạy. Điều kiện này không phải dễ làm với sức con người; vì thế,
Thiên Chúa, qua lời cầu xin của Đức Kitô, đã gởi Thánh Thần xuống cho các tín hữu.
Thánh Phaolô xác nhận điều này: "Đấng củng cố chúng tôi cùng với anh em
trong Đức Kitô và đã xức dầu cho chúng ta, Đấng ấy là Thiên Chúa. Chính Người
cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thánh Thần vào lòng chúng ta làm bảo chứng."
Bảo chứng hay tiền đặt cọc (arrabon) bảo đảm lời hứa của một người là thật. Khi
Thiên Chúa gởi Thánh Thần, Ngài bảo đảm ơn cứu độ là của chúng ta, nếu chúng ta
chịu theo sự hướng dẫn của Thánh Thần; nhưng nếu chúng ta không theo sự hướng dẫn
của Ngài (như một người không chịu trả tiền nhà mỗi tháng), chúng ta sẽ không đạt
tới ơn cứu độ.
2/ Phúc Âm: Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ.
2.1/ Hai biểu tượng: Để dẫn chứng điều Thiên Chúa đã ban mọi ơn lành đầy đủ
cho con người để họ có thể làm vinh danh Thiên Chúa, Đức Kitô dùng hai hình ảnh
để cắt nghĩa cho các môn đệ:
(1) Muối: Hai công dụng chính của muối là ướp mặn thịt cá cho khỏi hư và thêm
gia vị cho thực phẩm. Muối không giữ vị mặn cho mình, nhưng được dùng cho các
thực phẩm khác. Chúa Giêsu tuyên bố: "Chính anh em là muối cho đời."
Muối không ướp mặn là muối vô dụng, như lời Chúa cảnh cáo: "Nhưng muối mà
nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc
quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi."
Một trong những điều chúng ta có thể so sánh với muối là tình yêu. Giống như muối
đến từ biển, tình yêu đến từ Thiên Chúa vì Ngài là tình yêu. Con người không phải
là nguồn tình yêu, nhưng nhận được tình yêu từ Thiên Chúa, qua Đức Kitô. Con
người không giữ tình yêu để chỉ yêu mình, nhưng là để yêu thương Thiên Chúa và
tha nhân. Nếu con người không biết yêu thương, con người không thể đạt đích điểm
của cuộc đời, và cũng không thể làm vinh danh Thiên Chúa.
(2) Ánh sáng: Hai công dụng chính của ánh sáng là soi sáng và sưởi ấm. Ánh sáng
không giữ sự sáng cho mình, nhưng để soi sáng cho người khác. Chúa Giêsu tuyên
bố: "Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không
tài nào che giấu được." Ánh sáng không chiếu soi, sẽ trở thành vô ích như
lời Chúa răn dạy: "Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng,
nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà."
Một trong những điều chúng ta có thể so sánh với ánh sáng là sự thật hay cuộc sống
ăn ngay ở lành theo lề luật Thiên Chúa dạy. Như ánh sáng đến từ nguồn sáng là mặt
trời, sự thật đến từ Đức Kitô, Lời của Thiên Chúa. Con người không phải là nguồn
sáng, hay sự thật, nhưng nhận được sự thật từ Đức Kitô. Con người không giữ sự
thật cho mình, nhưng sau khi biết sự thật, con người loan truyền sự thật cho
người khác; sống và làm chứng cho sự thật để người khác nhận ra Thiên Chúa. Con
người không biết sự thật không thể đạt đích điểm của cuộc đời, và không thể làm
vinh danh Thiên Chúa.
2.2/ Bổn phận làm vinh
danh Thiên Chúa: Sau khi được Thiên Chúa
trang bị tất cả những điều cần thiết, con người có bổn phận làm vinh danh Thiên
Chúa, như lời Chúa Giêsu dạy: "Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt
thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của
anh em, Đấng ngự trên trời."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đức Kitô là tiếng "có" và "Amen" của Thiên Chúa. Chúng ta
cũng phải noi gương Đức Kitô để luôn nói, sống, và làm chứng cho sự thật.
- Thánh Thần là tình yêu và sự thật. Trước khi có thể loan truyền và làm chứng
cho Thiên Chúa, chúng ta phải được thấm nhuần tình yêu và sự thật của Ngài.
- Chúng ta được trang bị đầy đủ là để làm vinh danh Thiên Chúa. Hãy làm cho mọi
người nhận biết Thiên Chúa là Chúa duy nhất và yêu thương con người.
Lm.Anthony ĐINH
MINH TIÊN, OP.
13/06/17
THỨ BA TUẦN 10 TN
Thánh An-tôn Pa-đô-va,
linh mục, tiến sĩ HT
Mt 5,13-16
ĐIỀU ƯỚC CỦA CHÚA
“Chính anh em là muối cho đời… Chính anh em
là ánh sáng cho trần gian.” (Mt 5,13.14)
Suy niệm: Dân Do Thái là dân
Chúa chọn, dân tộc thánh thiện dành riêng cho Thiên Chúa. Họ có giao ước, lề
luật thánh thiện, có các ngôn sứ đồng hành trong suốt dòng lịch sử. Biết bao
nhiêu tâm hồn nghèo khó, công chính sống đẹp lòng Thiên Chúa, được Chúa chúc
phúc. Chúa Giê-su biết rõ ơn gọi cao quí của dân tộc mình nhưng Ngài cũng thấy
rõ những thối nát trong làm ăn buôn bán, điều hành xã hội và cả trong việc thờ
phượng: cầu nguyện phô trương, giữ luật hình thức… Ngài rao giảng Tin Mừng,
hiến thân chịu chết để chuộc tội cho con người hầu mang lại cho họ ơn cứu rỗi.
Khi nói với các môn đệ: “Các con là muối cho đời… Các con là ánh sáng
cho trần gian,” Chúa Giê-su muốn các môn đệ của Ngài tiếp nối sứ vụ
của Ngài, mang đến cho trần gian một thuốc chữa công hiệu và cần thiết cho họ.
Mời Bạn: Làm muối cho đời, làm ánh sáng cho trần gian là làm cho Tin Mừng thấm nhập
vào trong cuộc sống, các cơ chế gia đình, xã hội, văn hóa để biến đổi từ bên
trong. Để trở thành sứ giả Tin Mừng, chúng ta phải để cho Tin Mừng thấm nhập và
biến đổi chính con người chúng ta trước hết, để Chúa sống và hoạt động nơi
chúng ta.
Sống Lời Chúa: Tôi siêng năng đọc Lời Chúa. Nhờ Lời Chúa, tôi nhận ra những gì nơi tôi hay
chung quanh tôi cần thay đổi cho phù hợp với Tin Mừng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin dâng
Chúa con người của con với những thương tích, tội lỗi và hèn yếu. Xin Chúa ban
Thánh Thần xuống thanh luyện và biến đổi con nên giống Con Chúa hầu con có thể
cùng với Ngài làm muối đất, làm ánh sáng cho trần gian.
(5 phút Lời Chúa)
Muối cho đời (13.6.2017 – Thứ ba Tuần 10 Thuờng niên)
Chỉ khi môn đệ mang Ánh sáng của Đức Giêsu, và trở nên ánh sáng, khi ấy họ mới có thể giúp thế giới này bừng sáng.
Suy niệm:
Người ta thường định
nghĩa Kitô hữu là người tin vào Đức Kitô,
là người sống mầu nhiệm
Vượt Qua với Đức Kitô, Con Một Thiên Chúa,
hay đơn giản là người bạn
của Ngài.
Chẳng thể nào nói đến
Kitô hữu mà không nói đến mối dây với Đức Kitô.
Nhưng trong bài Tin Mừng
hôm nay, khi nói chuyện với các môn đệ,
những người vừa được nghe
các Mối Phúc,
Đức Giêsu lại đưa ra một
định nghĩa khác về họ.
“Các
con là muối cho trái đất” (c. 13).
“Các con là ánh sáng cho
thế giới” (c. 14).
Thế giới này, trái đất
này, nằm trong định nghĩa về người Kitô hữu.
Không có Kitô hữu sống lơ
lửng giữa trời và đất.
Họ thuộc về trời và thuộc
về đất, về thế giới hiện tại và thế giới mai sau.
Họ được sai vào thế giới
này để phục vụ bằng cách biến đổi.
Muối có nhiều công dụng.
Muối dùng để bảo quản cho
khỏi hư, để nêm nếm cho đậm đà, để bón phân.
Muối cần cho sự sống
thường ngày con người.
Đức Giêsu dùng hình ảnh
muối để áp dụng cho các môn đệ.
Họ cần cho trái đất này,
Như muối thấm vào đồ ăn,
họ phải có ảnh hưởng tích cực trên trái đất.
Điều làm cho muối là
muối, đó là vị mặn.
Muối trở nên nhạt thì
đánh mất chính mình rồi, chẳng đáng gọi là muối nữa.
Đức Giêsu tự nhận mình là
Ánh sáng cho thế giới (Ga 8, 12; 9,5; 12, 46).
Bây giờ Ngài mạnh dạn gọi
các môn đệ là ánh sáng cho thế giới.
Thế giới hôm nay đã được
điện khí hóa khắp nơi.
Nhưng bóng tối và bóng mờ
thì chỗ nào cũng có.
Cả bên ngoài lẫn bên
trong tim con người.
Bóng tối thật là một
quyền lực đáng sợ mà con người phải đối diện.
Chỉ khi môn đệ mang Ánh
sáng của Đức Giêsu, và trở nên ánh sáng,
khi ấy họ mới có thể giúp
thế giới này bừng sáng.
Thành thánh Giêrusalem ở
trên núi, không sao giấu được.
Ngọn đèn được thắp lên
cũng không để lấy thùng che lại.
Căn tính của người Kitô
hữu cũng vậy.
Tự nó bừng sáng, tự nó
quyến rũ, tự nó hồn nhiên tỏa hương.
Đừng sợ để người khác
thấy điều tốt nơi mình,
nếu điều đó đưa người ta
đến chỗ nhận biết và tôn vinh Thiên Chúa.
Một phần ba thế giới là
Kitô hữu,
bảy phần trăm người Việt
Nam là Công giáo.
Chúng ta có thể làm được
nhiều điều cho thế giới hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Vua vũ trụ,
nếu Chúa là vua của hơn
bốn trăm ngàn linh mục,
nếu Chúa là vua của bảy
trăm ngàn nữ tu,
nếu Chúa là vua của hơn
một tỉ người công giáo,
thì thế giới này sẽ đổi
khác,
Hội Thánh sẽ đổi khác.
Chúng con không phải là
một lượng men quá nhỏ.
Nếu khối bột chẳng được
dậy lên,
thì là vì men đã mất phẩm
chất.
Chúng con phải chịu trách
nhiệm
về sự dữ trên địa cầu:
có nhiều sự dữ do chính
chúng con gây ra.
Chúng con chỉ kêu cầu cho
Nước Chúa mau đến,
nhưng lại không chịu xây
dựng Nước ấy trên trần gian.
Lạy Chúa Giêsu Vua vũ
trụ,
chúng con thường cố ý thu
hẹp vũ trụ của Chúa,
giữ chặt Chúa ở trong nhà
thờ,
nên nhiều nơi vẫn vắng
bóng Chúa,
dù Chúa đã đến trái đất
này từ 2000 năm.
Chúng con sợ Chúa đến làm
phiền chúng con,
và không cho chúng con
được yên ổn.
Ước gì một tỉ người công
giáo
chịu để Chúa chi phối đời
mình
và đưa Chúa đi vào những
nơi Chúa chưa hề đến.
Như thế vũ trụ này
trở thành vũ trụ của
Thiên Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
13 THÁNG SÁU
Hơn Hết Mọi Loài Thụ Tạo
Chúng ta vừa nới mô tả khuôn mặt độc đáo của
con người trong tư cách là kẻ có thể hiểu biết và suy lý để đạt đến sự thật
trong tận bản chất mọi sự. Con người có thể tự do chọn lựa làm điều đúng và
tốt. Như vậy, con người được mời gọi nhận định những nhu cầu đích thực của đồng
loại mình và thiết lập công lý. Và, thông thường, con người được mời gọi đảm
nhận đời sống hôn nhân, trong đó người này tự nguyện trao hiến chính mình cho
người kia và xây dựng một cộng đồng hiệp thông nhân vị. Chính mối hiệp nhất này
là nền móng của gia đình và xã hội.
Nhưng tất cả không chỉ có vậy. con người còn
được mời gọi đi vào trong một giao ước với Thiên Chúa. Quả thật, con người
không chỉ là một tạo vật của Đấng Tạo Hóa mà còn là hình ảnh của Thiên Chúa.
Mối quan hệ đặc biệt này giữa Thiên Chúa và con người làm cho việc thiết lập
giao ước trở thành có thể. Chúng ta nhận ra giao ước này trong trình thuật về
cuộc sáng tạo ở ba chương đầu Sách Sáng Thế. Chính sáng kiến đi trước của Thiên
Chúa, Đấng Sáng Tạo, lập nên giao ước này. Và giao ước này vẫn không thay đổi
xuyên qua lịch sử cứu độ cho đến khi Thiên Chúa thiết lập giao ước vĩnh cửu với
con người trong Đức Giêsu Kitô.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ
nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by
Pope John Paul II
13 Tháng Sáu
Hãy Mai Táng Chính Mình
Một vị linh mục nọ đã có một sáng kiến
rất ngộ nghĩnh để đánh động giáo dân trong giáo xứ. Một buổi sáng Chúa Nhật nọ,
dân chúng bỗng nghe một lời rao báo như sau: "Một nhân vật trong giáo xứ
vừa qua đời. Tang lễ sẽ được cử hành vào sáng thứ Tư tới". Nghe lời loan
báo ấy, cả giáo xứ nhốn nháo lên. Người nào cũng muốn biết con người quan trọng
ấy là ai.
Ðúng ngày tang lễ, mọi người trong giáo
xứ nườm nượp kéo nhau đến nhà thờ. Từ cung thánh cho đến cuối nhà thờ, không
còn một chỗ trống. Người ta đến không phải để cầu nguyện cho người quá cố cho
bằng để nhìn mặt lần cuối cùng con người mà ai cũng muốn biết.
Sau thánh lễ, vị linh mục đến mở nắp
quan tài để cho mọi người đến chào từ biệt lần cuối cùng người quá cố. Ai ai
cũng sắp hàng để nhìn cho kỳ được người chết. Nhưng ai cũng đều ngạc nhiên, bởi
vì thay cho thi hài của người chết, mỗi người chỉ nhìn thấy trong quan tài một
tấm gương và dĩ nhiên, khi cúi nhìn vào quan tài, mỗi người chỉ nhìn thấy dung
nhan của mình mà thôi.
Chờ cho mọi người làm xong nghi thức từ
biệt ấy, vị linh mục mới giải thích: "Như anh chị em đã có thể nhận thấy,
tôi đã cho đặt vào trong quan tài một tấm kính. Con người mà anh chị em nhìn
thấy trong quan tài không ai khác hơn là chính mỗi người trong chúng ta. Vâng,
đúng thế, thưa anh chị em, mỗi người chúng ta cần phải mai táng chính mình...
Thánh lễ vừa rồi đã được cử hành cho tất cả chúng ta".
Bắt đầu sứ mệnh công khai của Ngài bằng
cử chỉ dìm mình xuống dòng nước sông Giodan, Chúa Giêsu muốn loan báo cho mọi
người thấy rằng Ngài đã vâng phục Ý� Chúa Cha để đi vào Cái
Chết và nhờ đó cứu rỗi nhân loại. Một cách nào đó, mầu nhiệm của Sự Chết và Sống
lại đã được diễn tả qua việc Chúa Giêsu dìm mình trong dòng nước.
Thiết lập Phép Rửa như cửa ngõ để đưa
chúng ta vào cuộc sống trường sinh, Chúa Giêsu cung muốn chúng ta tham dự vào
mầu nhiệm chết và sống lại của Ngài. Dìm mình trong nước của Phép Rửa, chúng ta
khởi đầu cuộc sống Kitô hữu bằng chính cái chết. Sống đối với chung ta có nghĩa
là chết: chết cho những khuynh hướng xấu, chết cho những đam mê xấu, chết cho
tội lỗi, chết cho ích kỷ, chết cho hận thù. Cuộc sống do đó đối với chúng ta
cũng là một cuộc mai táng liên lỉ. Cũng như hạt lúa rơi xuống đất phải thối đi,
cũng thế chúng ta phải chấp nhận chôn vùi con người cũ tội lỗi của chúng ta.
Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét