Trang

Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2019

01-12-2019 : (phần II) CHÚA NHẬT I MÙA VỌNG năm A


01/12/2019
 CHÚA NHẬT TUẦN 1 MÙA VỌNG NĂM A
(phần II)


Phụng Vụ Lời Chúa: Chúa Nhật I Mùa Vọng A
(Is 2,1-5; Rm 13,11-14; Mt 24,37-44)
CANH THỨC CHỜ ĐỢI CHÚA
“Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (Mt 24,42).
Chúa Giêsu đã đến qua mầu nhiệm nhập thể và Người sẽ lại đến qua mầu nhiệm quang lâm. Mùa Vọng nhắc nhớ các tín hữu về ngày Chúa nhập thể làm người; đồng thời hướng họ đến sự đợi chờ ngày Chúa đến trong vinh quang. Các bài đọc lời Chúa hôm nay cho thấy người tín hữu phải chờ đợi ngày Chúa đến với tâm tình nào.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1:
Ngôn sứ Isaia đệ nhất loan báo một thời hòa bình vĩnh cửu trong tương lai, trong đó muôn dân nước sẽ tập hợp đến núi Nhà Đức Chúa. Và nhờ sự phân xử của Chúa mà muôn dân được hưởng thái bình.
Ngôn sứ mở ra một quang cảnh phổ quát của ơn cứu độ trong tương lai, trong đó muôn dân nước sẽ tập hợp về núi Nhà Đức Chúa. Dù Đức Chúa là “Thiên Chúa của Giacóp”, nhưng “dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi” (x. Is 2,2-3). Không chỉ dân riêng được Chúa tuyển chọn mới có quyền đến thờ lạy Thiên Chúa trên núi thánh tại Giêrusalem, mà tất cả mọi dân nước đều được mời gọi đến phụng thờ Thiên Chúa, vì nhà của Chúa là nhà cầu nguyện của muôn dân (x. Is 56,6-8). Đồng thời, từ Giêrusalem, Thiên Chúa sẽ dạy người ta về đường lối của Người và nhờ sống theo đường lối của Chúa, người ta mới có hoà bình đích thật.
Quả vậy, thánh luật của Chúa là tiêu chuẩn mà Người sẽ dùng để làm trọng tài phân xử cho các dân tộc. Thánh luật của Người dựa trên nền tảng “chính trực công minh” và lòng “yêu thương nồng nhiệt” (x. Is 9,6), nên sự phân xử của Người vừa dựa trên sự công bằng, đúng đắn, nghiêm minh, vừa dựa trên tình thương nồng nàn. Sự công minh và tình thương của Thiên Chúa thôi thúc người ta đi theo đường lối của Người và nhờ giữ thánh luật của Chúa mà người ta sẽ sống với nhau trong cảnh thái bình (Is 2,4; x. 11,6-9). Như thế, nền hoà bình thật sự của các quốc gia không đặt nền tảng trên các loại vũ khí hay nghề chinh chiến mà trên nền tảng thánh luật của Chúa.
Dù là “nhà Giacóp”, dân riêng của Chúa, hay bất cứ dân nước nào, nếu đi trong ánh sáng của thánh luật Chúa, trên nền tảng “công minh chính trực” và “lòng thương”, thì sẽ tìm được nền hoà bình đích thật.
2. Bài đọc 2:
Đặt trong viễn tượng cánh chung, thánh Phaolô khuyên nhủ các tín hữu Rôma hãy tỉnh thức, bằng cách sống đạo đức, thánh thiện theo khuôn mẫu Đức Kitô.
Trước hết, thánh Phaolô nói về “ngày Thiên Chúa cứu độ đã gần hơn trước kia”. Ngày cứu độ đã bắt đầu khi Đức Kitô chết và sống lại, nhưng ơn cứu độ chỉ được hoàn tất trọn vẹn khi Người trở lại trong ngày quang lâm. Trong khi chờ đón ngày Đức Kitô trở lại (x. 1 Tx 3,12; 1 Cr 1,8), người tín hữu được mời gọi sống tỉnh thức. Đây là lời mời gọi cấp bách vì thời gian đang qua đi, “đêm sắp tàn, ngày gần đến” (Rm 13,12) nhưng không ai biết chắc lúc nào Người sẽ đến trong vinh quang (Mt 24,42; 25,13) để xét xử kẻ sống và kẻ chết (Kinh Tin Kính).
Sau nữa, tác giả thư Rôma hối thúc các tín hữu hãy “loại bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu” (Rm 13,12). Thật vậy, một trong những cách tỉnh thức là đứng về phía sự sáng, dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa (x. Ep 6,10-11), “mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ” (1 Tx 5,8), mà sống cuộc đời công chính (x. Rm 6,13). Sự công chính là thứ vũ khí của ánh sáng, giúp chiến đấu chống lại những gì là đen tối trong lòng con người và trong thế giới này.
Cuối cùng, các Kitô hữu được mời gọi “mặc lấy Chúa Kitô” (Rm 13,14). Qua Bí tích Rửa tội, các tín hữu thuộc về Chúa Kitô, được kết hợp với Người và trở nên giống hình ảnh của Người. Như thế, mặc lấy Đức Kitô là trở nên giống như Người, hoạ lại đời sống của Người, nghĩa là không chiều theo bản tính tự nhiên mà ăn uống quá độ, chơi bời dâm đãng hay cãi cọ ghen tương (Rm 13,13). Trái lại, các tín hữu được thúc đẩy sống đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày, nghĩa là sống ngay thẳng, thánh thiện.
3. Bài Tin Mừng:
Tác giả Tin Mừng Mátthêu dùng hình ảnh trong Cựu Ước nhằm cho thấy tính cách bất ngờ của ngày “Con Người quang lâm” và mời gọi độc giả “hãy canh thức” vì “chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.
Trước hết, Chúa Giêsu dùng biến cố trong Cựu Ước để cho thấy tính cách bất ngờ của ngày Chúa Giêsu trở lại. Thật vậy, trong khi thiên hạ vẫn đang mải mê “ăn uống, cưới vợ, lấy chồng”, không hay biết ngày ông Nôê và gia đình vào tàu vì tin vào lời của Thiên Chúa, thì nước hồng thuỷ ập tới bất ngờ và tiêu diệt tất cả (x. St 6,13-22). Thiên Chúa đã từng tiêu diệt những kẻ sống trong tội lỗi cách bất ngờ thế nào trong biến cố ông Nôê, thì Người cũng có thể trừng phạt những ai không chuẩn bị sẵn sàng như thế trong ngày Đức Kitô quang lâm.
Sau nữa, Tin Mừng cho thấy số phận con người sẽ không giống nhau trong ngày đó. Dù là đàn ông hay đàn bà, đang ở ngoài đồng hay đang xay bột, thì sẽ có người “được đem đi” và cũng có kẻ “bị bỏ lại”, có người được ân thưởng thì cũng có kẻ bị trừng phạt. Người ta không thể biết được lúc nào Chúa Kitô sẽ lại đến trong vinh quang, nhưng số phận của mỗi người vào lúc đó sẽ khác nhau tùy thuộc vào cách sống trong hiện tại. Nếu người ta có sự chuẩn bị thì đó là ngày họ “được đem đi” cùng với Đức Kitô; trái lại, nếu không có sự chuẩn bị trong cuộc sống hiện tại thì đó là ngày họ “bị bỏ lại”.
Cuối cùng, tác giả Tin Mừng Mátthêu cho thấy sự cần thiết phải ở trong trạng thái canh thức và sẵn sàng để ngày Chúa Kitô trở lại không là một sự bất ngờ. Thật vậy, như chủ nhà không thể biết giờ nào kẻ trộm đến, nên nếu muốn nhà của mình an toàn thì không còn cách nào khác là phải luôn ở trong trạng thái canh thức; cũng vậy, giờ Chúa Kitô quang lâm sẽ không phải là một sự bất ngờ nếu người ta ở trong trạng thái sẵn sàng chờ đón Người.
II. GỢI Ý ÁP DỤNG:
1/ Ơn cứu độ mở rộng cho tất cả mọi dân mọi nước. Tất cả những ai sống theo đường lối thánh chỉ của Thiên Chúa đều được mời gọi đến để hưởng nền hoà bình viên mãn. Hoà bình theo đường lối của Thiên Chúa đặt nền tảng trên sự công minh, chính trực và yêu thương. Hơn ai hết, tất cả các Kitô hữu đều có bổn phận xây dựng hoà bình theo đường lối của Thiên Chúa bằng chính đời sống ngay thẳng và yêu thương.
2/ Thánh Phaolô phác hoạ viễn tượng cánh chung khi Đức Kitô trở lại để đưa ơn cứu độ đến hồi viên mãn. Trong khi chờ đợi ngày đó, các tín hữu được mời gọi sống tỉnh thức bằng cách “mặc lấy Chúa Kitô”, trở nên giống như Người. Sống giữa thế giới với biết bao nhiêu cám dỗ, các Kitô hữu dễ bị lôi kéo hướng chiều về những chuyện của thế gian. Nhờ “mặc lấy Chúa Kitô”, mặc lấy lối sống của con cái ánh sáng, sống theo chân lý Tin Mừng, họ mới có thể thoát khỏi những lôi kéo của sức mạnh bóng tối sự dữ, làm cho họ không còn tỉnh thức đợi chờ Chúa Kitô quang lâm.
3/ Tin Mừng Mátthêu cho thấy tính bất ngờ của ngày Chúa đến và mời gọi các tín hữu ở trong tư thế canh thức và sẵn sàng. Thật không dễ dàng canh thức chờ đợi mà không biết chính xác lúc nào Đấng mình chờ đợi sẽ đến để sẵn sàng nghênh đón, vì bất cứ sự chờ đợi nào cũng có thể làm cho người ta mệt mỏi, nản lòng mà mất cảnh giác. Tuy vậy, nếu mỗi Kitô hữu tin rằng Chúa Kitô là Đấng đáng cho mình đợi chờ, hy vọng và sự đợi chờ đi kèm với lòng yêu mến thì mới giúp người tín hữu kiên tâm cho đến cùng để được cứu độ (x. Mt 10,22).
III. LỜI NGUYỆN CHUNG:
Chủ tếAnh chị em thân mến! Bước vào một chu kỳ phụng vụ mới, Giáo Hội mời gọi chúng ta phải luôn tỉnh thức sẵn sàng chờ đợi Chúa đến. Đó chính là tâm tình để sống Mùa Vọng, là thời gian chuẩn bị mừng đại lễ Giáng Sinh và hướng về ngày Chúa quang lâm. Với tâm tình hân hoan chào đón Chúa, chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:
1. Hội Thánh có sứ mạng mời gọi mọi người “bước đi trong ánh sáng của Chúa.” Chúng ta hiệp ý cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội Thánh luôn tích cực sống và làm chứng cho Tin Mừng, giúp con người thời đại tin nhận Đức Giêsu Kitô là ánh sáng thế gian.
2. Thiên Chúa sẽ quy tụ các dân tộc trong nước Người, để hưởng bình an đời đời. Chúng ta hiệp ý cầu nguyện cho những người đang hoang mang lạc hướng vì thiếu niềm tin trong cuộc sống, được ơn nhận biết chỉ có Thiên Chúa mới đem lại ý nghĩa cho đời người.
3. Thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu hãy từ bỏ những hành vi đen tối và mang lấy khí giới sự sáng. Chúng ta hiệp ý cầu nguyện cho mọi Kitô hữu biết hướng về ngày Chúa quang lâm bằng một thái độ tích cực: tránh xa tội lỗi và canh tân đời sống theo tinh thần Phúc Âm.
4. Chúa Giêsu nói: “Hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến.” Chúng ta hiệp ý cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn sống tinh thần tỉnh thức, bằng việc siêng năng tham dự thánh lễ, lãnh nhận các bí tích, và tích cực làm việc lành.
Chủ tếLạy Chúa là Cha rất nhân từ, xin thương nhận những ý nguyện của cộng đoàn chúng con, và ban ơn Thánh Thần giúp chúng con luôn vững lòng tin cậy nơi Chúa trong mọi hoàn cảnh. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.


Sợi Chỉ Đỏ Chúa Nhật  1 Mùa Vọng Năm A
CHỦ ĐỀ :
HÃY SẴN SÀNG
CHO MỘT TƯƠNG LAI TỐT ĐẸP

“Anh em hãy sẵn sàng”
(Mt 24,44)
Sợi chỉ đỏ :
– Tương lai tốt đẹp được khơi lên bởi ngôn sứ Isaia (Bài đọc I)
– Nghĩ đến nó, tác giả Tv 121 hân hoan hát mừng Thiên Chúa (Đáp ca)
– Đức Giêsu khuyên hãy tỉnh thức sẵn sàng chờ đón nó (Bài Tin Mừng)
– Thánh Phaolô giải thích thế nào là tỉnh thức sẵn sàng (Bài đọc II)

I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Hôm nay Giáo Hội bước vào Mùa Vọng. Vọng là chờ, là mong. Nhưng chúng ta chờ mong điều gì ? Phải chăng là mong chờ Lễ Giáng sinh ? Thưa không, chúng ta không mong chờ một lễ vui, mà mong chờ chính Chúa sẽ đến với chúng ta. Khi Ngài đến, Ngài sẽ mang cho chúng ta bình an, hạnh phúc. Tuy nhiên chúng ta hãy nhớ rằng những ơn lành ấy chỉ đến với những ai đã chuẩn bị lòng mình sẵn sàng. Vậy kể từ hôm nay, mỗi người chúng ta hãy tích cực chuẩn bị tâm hồn, vì ơn cứu độ của Chúa đã đến gần.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
– Một năm phụng vụ đã trôi qua, hôm nay bắt đầu một năm phụng vụ mới. Phải chăng trong năm phụng vụ vừa qua chúng ta đã có phần thờ ơ, ươn lười, nhiều lầm lỗi ?
– Xã hội ngày nay đầy dẫy sự xấu. Phải chăng chúng ta cũng có phần tạo nên tình trạng ấy ?
– Chúng ta cũng mong rằng thế giới sẽ tốt hơn, con người sẽ thương yêu nhau hơn. Nhưng chúng ta có làm gì cho tương lai ấy mau đến không ?
III. LỜI CHÚA
1.     Bài đọc I (Is 2,1-5) :
Vào hậu bán thế kỷ VIII trước công nguyên, vương quốc Giuđa khá thịnh vượng về mặt vật chất, nhưng lại rất suy đồi về mặt đạo đức. Trước tình trạng ấy, ngôn sứ Isaia một mặt thẳng thắn vạch tội dân và kêu gọi họ ăn năn sám hối, mặt khác loan báo rằng nếu dân trở lại thì Thiên Chúa sẽ ban cho họ một tương lai tốt đẹp.
Tương lai ấy được Isaia diễn tả bằng những hình ảnh thi vị :
– Đó sẽ là thời dân Thiên Chúa được tôn vinh : “Núi Nhà Chúa sẽ được xây trên đỉnh các núi”. Mà dân Thiên Chúa được tôn vinh cũng có nghĩa là Thiên Chúa được tôn vinh, vì chính nhờ đức tin của họ mà các dân tộc trên mặt đất sẽ biết tới Chúa và tôn thờ Ngài : “Nhiều dân tộc sẽ đến và nói rằng : Hãy đến, chúng ta hãy lên núi Chúa và lên nhà của Giacóp”.
– Khi mọi người đã biết tôn thờ Chúa thì đó cũng sẽ là một thời thái bình : “Người ta sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm. Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa”.
2. Đáp ca (Tv 121)
Tâm tình đầy lạc quan hy vọng của Isaia được diễn tả qua Tv 121 : “Ôi tôi sung sướng biết bao khi nghe nói : Chúng ta sẽ về nhà Chúa”
3. Bài Tin Mừng (Mt 24,37-44)
Đức Giêsu cho biết Ngày tốt đẹp ấy sắp đến. Nhưng Ngài đặc biệt lưu ý ba điều :
a/ Ngày ấy sẽ đến một cách không ai ngờ cũng như chuyện Hồng thuỷ thời Nôe : thiên hạ cứ mải mê với những chuyện thế tục “Người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Nôe vào tàu mà người ta cũng không ngờ”.
b/ Trong Ngày ấy, số phận loài người sẽ phân thành hai hạng khác nhau : có người sẽ “được đem đi” (được tiếp nhận), nghĩa là được nhận vào hưởng tương lai hạnh phúc với Chúa, nhưng có người sẽ “bị bỏ lại”, nghĩa là không được hưởng hạnh phúc ấy (Chú ý : một số bản Việt ngữ đã dịch ngược nghĩa là “bị đem đi” và “được để lại”).
c/ Được tiếp nhận hay bị bỏ rơi là do người ta có chuẩn bị sẵn sàng hay không. Vì thế Đức Giêsu kết luận : “Vậy các con phải sẵn sàng”
4. Bài đọc II (Rm 13,11-14)
Thánh Phaolô nói rằng Ngày tươi sáng đó rất gần rồi : “Giờ đây phần rỗi của chúng ta gần đến… Đêm sắp tàn, ngày gần đến”. Và Ngài giải thích thế nào là tỉnh thức sẵn sàng :
a/ Trước hết, tỉnh thức sẵn sàng là “từ bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu”. Nghĩa là phải tích cực chiến đấu để loại trừ sự dữ và cổ vũ cho sự thiện.
b/ Kế đó, tỉnh thức sẵn sàng là thay đổi cách sống : Hãy bỏ nếp sống cũ theo xác thịt, thể hiện trong việc ăn uống say sưa, chơi bời dâm đãng, tranh chấp ganh tị, lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt ; thay vào đó bằng một cuộc sống mới theo gương Đức Giêsu Kitô.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1.     Phải biết nuôi hy vọng
Alan Platon là một nhà văn Nam Phi, tác giả một quyển sách nhan đề Cry the Beloved Country trong đó ông mô tả hoàn cảnh khốn khổ của nước Nam Phi dưới chế độ phân biệt chủng tộc apartheid. Platon có một giấc mơ : ông mơ có một ngày mà mọi người dân trong đất nước của ông đều được đối xử công bình và bình đẳng. Và để thực hiện giấc mơ ấy, ông đã lao mình vào chính trị, đấu tranh suốt mấy mươi năm để xoá bỏ chế độ apartheid ấy. Nhiều người cho rằng mơ ước và việc làm của Platon là không thể nào thực hiện được. Nhưng ông vẫn kiên trì vì tin rằng ngày mơ ước ấy sẽ đến. Chỉ tiếc là ông đã chết trước khi thấy được ngày đó, nhưng lịch sử chứng minh rằng ông đã đúng.
Ngôn sứ Isaia còn có một giấc mơ táo bạo hơn nữa : Ông mơ tới ngày các nước sẽ không còn tuốt gươm chém giết lẫn nhau nữa, người ta sẽ lấy gươm rèn thành lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm, và mọi người sẽ bước đi trong ánh sáng của Chúa. Thật là một giấc mơ tuyệt vời ! Có người cho rằng giấc mơ ấy sẽ đến khi Đấng Messia đến. Người khác cho rằng nó chỉ sẽ đến khi Đấng Messia lại đến lần thứ hai. Có kẻ nói nó sẽ chẳng bao giờ đến, đó chỉ là nằm mơ giữa ban ngày. Nhưng vẫn có người tin rằng thế nào nó cũng đến nên miệt mài theo đuổi như Alan Platon trong chuyện trên.
Một chuyện khác : Một người thợ săn nghe nói tới một con chim đặc biệt có đôi cánh rộng màu trắng rực rỡ. Đó là con chim đẹp nhất trong các loài chim trên mặt đất. Vì thế người thợ săn không quản ngại đường xa, trèo đồi vượt suối đi tìm nó hết ngày này sang ngày khác, tháng này đến tháng nọ, năm này đến năm kia. Một lần anh đã may mắn thấy được bóng dáng nó ở một khoảng cách rất xa. Nhưng chỉ thoáng thấy là nó bay đi mất. Anh vẫn kiên trì đi tìm. Một ngày kia anh nhặt được một cọng lông trắng của nó. Rồi anh chết đi mà không bao giờ bắt được con chim mơ ước của mình.
Cuộc săn tìm của người thợ săn là hình ảnh của loài người tìm kiếm hòa bình. Giấc mơ toàn thế giới vui hưởng thái bình của Isaia có thể không thực hiện được nhưng nó không chỉ đơn thuần là nằm mơ giữa ban ngày, mà giống như một ngọn núi mà ta mơ có ngày sẽ đứng trên đó. Dĩ nhiên muốn thế thì ta không thể cứ ngồi một chỗ mà mơ, hoặc ước chi nó từ trên trời hạ thấp xuống tận chân ta. Ta phải leo, phải có chương trình và kiên trì làm theo chương trình ấy, cho dù có chậm chạp và lâu dài.
Ngay cả khi giấc mơ thái bình ấy sẽ không bao giờ được thực hiện trọn vẹn trên toàn thế giới đi nữa, thì việc theo đuổi giấc mơ ấy cũng có ảnh hưởng tốt trên đời ta. Điều quan trọng không phải là đạt được mục đích mà là sống có mục đích. Nhiều khi, có một mục đích tốt cho đời mình thì kể như đủ, miễn là không bao giờ ta bỏ mục đích ấy.
Thế giới ngày nay nhờ khoa học kỹ thuật tiến bộ có thể làm được hầu như mọi điều, nhưng lại bất lực không tạo ra hòa bình được : bất hòa khắp nơi, trên bình diện lớn như nước này với nước nọ, dân này với dân nọ ; hoặc trên bình diện nhỏ như nhóm này với nhóm kia, người này với người khác. Mỗi kitô hữu có thể góp phần mình vào việc thực hiện giấc mơ thái bình của Isaia, bằng những cố gắng xoá bỏ óc kỳ thị, sự đố kỵ, ích kỷ, chia rẻ nhau… ; bằng cách gieo rắc hòa thuận, cảm thông, hợp tác…
Chúng ta cũng nên biết rằng chúng ta không cô đơn trong những cố gắng ấy, mà có Chúa giúp ta : Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi sai Con Một của Ngài đến ở với loài người chúng ta, thiết lập Nước Thiên Chúa ở trần gian này, và cùng đồng hành với chúng ta trong nỗ lực leo lên đỉnh núi thái bình.
2.                 “Đây là lúc chúng ta phải thức dậy”
Lời Thánh Phaolô trong bài đọc II làm cho chúng ta giật mình. Phải chăng chúng ta đang ngủ vùi ?
Đúng vậy, dù mắt chúng ta vẫn mở nhưng thực sự chúng ta đang ngủ trong bóng tối mịt mù :
– Chúng ta ngủ vì “những việc làm đen tối”
– Chúng ta ngủ vì cứ “chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng”
– Chúng ta ngủ vì lòng đầy “tranh chấp đố kỵ”
– Chúng ta ngủ vì chỉ “lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt”.
Nhưng Thánh Phaolô nhắc nhở rằng : “Đêm sắp tàn, ngày gần đến” và “Giờ đây, phần rỗi chúng ta gần đến, hơn lúc chúng ta mới tin đạo”, vậy “Đây là lúc chúng ta phải thức dậy”.
– “Hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày”
– Hãy “cầm lấy khí giới của sự sáng” để chiến đấu chống lại những sức mạnh của tối tăm tội lỗi.
– Hãy cởi bỏ con người cũ thiên về những dục vọng xác thịt để “mang lấy Đức Giêsu Kitô”.
3.                 Hai người, hai số phận
“Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi”.
Đức Giêsu chỉ nói tình trạng như thế thôi chứ không nói rõ lý do tại sao. Tuy nhiên chúng ta có thể biết lý do qua câu chuyện Ngài kể về thời ông Nôe : Ông Nôe chính là người được tiếp nhận, nhờ ông đã tỉnh táo nghe được lời Chúa báo sắp có nạn Hồng thuỷ, và ông đã tích cực chuẩn bị đóng tàu. Còn mọi người khác là những kẻ bị bỏ rơi, vì họ chẳng để ý tới việc gì khác ngoài cuộc sống vật chất, “ăn uống, dựng vợ gả chồng”. Những bận tâm đó đã chiếm hết tâm trí họ rồi, còn tâm trí đâu mà để ý đến lời Chúa. Giả như ông Nôe có kể lại cho họ nghe lời cảnh báo của Chúa thì họ cũng không tin và còn cho là chuyện viễn vông, không thiết thực như chuyện “ăn uống, dựng vợ gả chồng”.
Trong cuộc sống của chúng ta, giữa những bề bộn lo lắng về vật chất, thế tục, Lời Chúa vẫn vang lên để nhắc chúng ta phải biết quan tâm đến nhiều việc khác thuộc phương diện tinh thần, phương diện siêu nhiên, phương diện đời đời… Ai tỉnh táo thì nghe được và sẽ “được tiếp nhận”, kẻ nào mãi thờ ơ thì như “đàn gãy tai trâu” và sẽ “bị bỏ lại”.
4.                 Chúa cấm con thất vọng
* Hãy cố gắng, dù yếu đuối ngã sa, con hãy xin Chúa thứ tha và tiếp tục tiến. Trên võ đài, trong vận động trường quốc tế, các lực sĩ cũng lắm lần ngã quỵ, bị nhiều cú đấm, bị thương tích, nhưng cứ vùng dậy, cứ hy vọng, họ đã đoạt giải vô địch quốc tế (ĐHV 971)
Cha Charles de Foucauld có để lại mấy giòng sau đây. Đọc kỹ, con sẽ thấy phấn khởi tâm hồn và lấy lại được niềm tin, nhất là những lúc hầu như con thất vọng :
– “Dù con xấu xa, dù con tội lỗi, con cũng trông cậy vững chắc rằng con sẽ được lên trời. Chúa cấm con thất vọng về điều đó”.
– “Dù con bội bạc cách mấy, khô khan cách mấy, hèn nhát cách mấy, lợi dụng ơn Chúa cách mấy. Chúa cũng vẫn bắt con phải hy vọng được sống đời đời dưới chân Chúa trong tình thương và sự thánh thiện”.
– “Chúa cấm con ngã lòng trước sự khốn nạn của con. Chúa không cho con nói ‘Tôi không thể đi tới được, đường lên trời khó khăn quá, tôi phải thụt lùi và trở xuống chỗ thấp”
– “Trước những sa ngã trở đi trở lại của con, Chúa lại cấm không cho con nói : “Tôi không hề sửa mình được, tôi không có sức để nên thánh, tôi không xứng đáng để vào thiên đàng…”
– “Vậy Chúa muốn con phải trông cậy Chúa luôn, vì Chúa ra lệnh và vì con phải tin ở tình thương và quyền năng của Chúa” (ĐHY NVT, Trên đường lữ hành)
5.                 Thức dậy
Ở Mêhicô, giáo phận của Đức Cha Samuel Ruiz có tới 80 % giáo dân là người da đỏ bản xứ. Bản thân ngài nổi tiếng là người bênh vực cho dân da đỏ. Nhưng không phải tự nhiên mà ngài làm được việc đó đâu. Trong một buổi nói chuyện ở Nhà thờ Chính tòa Westminster Mùa Chay 1996, ngài đã thố lộ tâm sự như sau : “Suốt 20 năm làm giám mục giáo phận này, tôi như một con cá đang ngủ (sleeping fish), nghĩa là mắt vẫn mở nhưng chẳng thấy gì. Tôi còn hãnh diện vì giáo phận có nhiều nhà thờ và giáo dân đông đúc. Rồi một hôm tôi gặp cảnh một người da đỏ bị trói vào một thân cây và bị ông chủ dùng roi quất túi bụi vì lý do người này không chịu làm thêm 8 giờ phụ trội nữa.” Chính cái biến cố đó đã làm cho Đức Cha Samuel Ruiz “thức dậy”. Từ đó trở đi, Ngài hăng hái tranh đấu cho quyền lợi người da đỏ.
Chuyện trên cho ta thấy hai điều : 1/ Thiên Chúa có nhiều cách để kêu gọi người ta thức dậy ; 2/ Và cũng có nhiều cách thức dậy : thức dậy về thể xác (thôi ngủ), thức dậy về xã hội, thức dậy về đạo đức v.v.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến
Mùa Vọng, mùa Xuân của năm phụng vụ, là thời gian chuẩn bị đón mừng Đức Kitô, Con Thiên Chúa đến lần thứ nhất với loài người, vừa hướng lòng trông đợi Người đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Trong niềm khát khao trông chờ Chúa ngự đến, chúng ta cùng tin tưởng nguyện xin.
1- Hội Thánh được Chúa Giêsu thiết lập / và trao ban sứ mạng rao giảng mọi nước mọi dân biết Thiên Chúa là Tình yêu. / Người yêu thương và muốn cứu độ hết thảy mọi người. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh / luôn làm tròn sứ mạng cao quý nhưng hết sức khó khăn này.
2- Khát vọng sâu xa nhất của con người thời nay / là được sống trong hòa bình và thịnh vượng. / Nhưng chiến tranh vẫn bùng nổ ở nhiều nơi trên thế giới / gây ra biết bao cảnh tang thương. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lòng bác ái yêu thương thâm nhập mọi sinh hoạt trần thế / để mọi người biết thương yêu và tôn trọng nhau hơn.
3- Thánh Phaolô kêu gọi : / “Hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày / không chè chén say sưa / không chơi bời dâm đãng / cũng không cãi cọ ghen tương” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai tin Chúa / biết luôn ghi nhớ và thực hiện lời mời gọi của vị tông đồ dân ngoại / để có thể trở nên muối ướp mặn đời / và ánh sáng chiếu soi trần gian.
4- Đức Giêsu nhắc nhở các môn đệ : / “Anh em hãy canh thức / vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến”. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn sẵn sàng đón Chúa ngự đến / bằng một đời sống sốt sắng thờ phượng Chúa và chan hòa tình bác ái yêu thương.
CT : Lạy Chúa, vì yêu thương thế gian, Chúa đã ban Con Một xuống thế làm người, sống kiếp phàm nhân, nên giống chúng con trong mọi sự, trừ tội lỗi. Xin cho tất cả chúng con thiết tha trông chờ Con Chúa ngự đến, biết chuẩn bị xứng đáng tâm hồn, để đón mừng mầu nhiệm Giáng sinh cao cả. Chúng con cầu xin…
(Phần “Lời nguyện cho mọi người” của Năm A này được trích từ Báo Công giáo và Dân tộc, số đặc biệt Giáng sinh năm Phụng vụ A, 1998-1999)
VI. TRONG THÁNH LỄ
– Nên dùng Kinh nguyện Thánh Thể 3, nhấn mạnh một số nơi :
. (Sau lời tung hô sau truyền phép) : “Vì vậy lạy Cha, giờ đây chúng con tưởng nhớ… đồng thời mong đợi Người lại đến, chúng con dâng lên Cha hy lễ hằng sống và thánh thiện này…”
. (Sau truyền phép, đoạn 4) : “Lạy Cha, xin cho hy lễ hòa giải này… Còn những con cái Cha đang tản mát bốn phương trời, xin thương quy tụ tất cả về với Cha…”
– Trước Kinh Lạy Cha : Trong niềm hy vọng về một tương lai tốt đẹp “danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, chúng ta hãy sốt sắng dâng lên Thiên Chúa là Cha chúng ta lời kinh Lạy Cha sau đây :
– Chúc bình an : Ngôn sứ Isaia đã mơ đến ngày thế giới không còn chiến tranh, người ta sẽ lấy gươm giáo rèn thành lưỡi hái lưỡi cày. Chúng ta hãy chúc cho nhau được bình an và trở thành những người xây dựng hòa bình cho cuộc sống.
– Trước lúc rước lễ : “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng đã đến xóa tội trần gian và sẽ lại đến thăm viếng chúng ta, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”.
VII. GIẢI TÁN
Dùng công thức ban phúc lành cuối lễ long trọng của Mùa Vọng (Sách lễ Rôma, xuất bản 1992, trang 575)
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI

Lectio Divina: Chúa Nhật I Mùa Vọng (A)
Hãy luôn sẵn sàng
Thiên Chúa có thể đến với chúng ta bất cứ lúc nào
Mt 24:37–44 


1.  Lời nguyện mở đầu

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.   Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa.  Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.  Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự Phục Sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình.  Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con.  Amen

2.  Bài Đọc 

a)  Chìa khóa cho bài đọc: 

Trong phần Phụng Vụ của Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, Giáo Hội đặt trước chúng ta một trích đoạn bài giảng của Chúa Giêsu về ngày tận thế.  Mùa Vọng có nghĩa là Trông Đợi.  Đây là thời gian chuẩn bị cho sự xuất hiện của Con Người vào đời sống chúng ta.  Chúa Giêsu khuyên nhủ chúng ta hãy tỉnh thức.  Người đòi hỏi chúng ta phải chú ý tới các sự kiện để khám phá trong đó dấu hiệu giờ khắc Con Người xuất hiện.
Vào đầu Mùa Vọng, thật là quan trọng phải thanh tẩy quan niệm của chúng ta và ôn lại cách đọc các sự kiện trong ánh sáng của Lời Chúa.  Và điều này không có gì đáng ngạc nhiên, bởi vì Thiên Chúa đến không báo trước, vào lúc mà chúng ta không mong đợi nhất.  Để cho chúng ta thấy phải nên chú ý tới các sự kiện như thế nào, Chúa Giêsu nhắc lại trận đại hồng thủy thời ông Nô-e.
Trong lúc đọc bài Tin Mừng, chúng ta hãy chú ý tới những sự so sánh mà Chúa Giêsu dùng để chuyển tải sứ điệp của Người.
   
b)  Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:

Mt 24:37-39:  Con Người sẽ đến giống như những gì đã xảy ra trong thời ông Nô-e
Mt 24:40-41:  Chúa Giêsu áp dụng sự so sánh để giảng cho những người đang lắng nghe
Mt 24:42:  Lời kết luận:  “Hãy tỉnh thức”; “Hãy canh phòng”.
Mt 24:43-44:  Một tỷ dụ để khuyên người ta nên cảnh giác.

c)  Phúc Âm:

37 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng:  “Trong thời ông Nô-e xảy ra thế nào, thì lúc Con Người đến cũng như vậy. 38 Cũng như trong những ngày trước nạn đại hồng thủy, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày Nô-e vào tàu, 39 mà người ta cũng không ngờ, thình lình đại hồng thủy đến và cuốn đi tất cả, thì khi Con Người đến, cũng sẽ xảy ra như vậy. 40 Khi ấy sẽ có hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi.  41 Và có hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, còn người kia bị bỏ rơi.
42 Vậy hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con đến. 43 Nhưng các con phải biết điều này là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta sẽ canh phòng, không để cho nó đào ngạch khoét vách nhà mình. 44 Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến.”

3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện  

Để cho Lời của Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý 

Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.

i)  Phần nào của bài Tin Mừng đánh động bạn nhất?  Tại sao?    
ii)  Ở đâu, khi nào và lý do tại sao Chúa Giêsu giảng bài giảng này?    
iii)  Chúa Giêsu khuyên nhủ chúng ta phải cảnh giác như thế nào, việc cảnh giác bao gồm những gì?
iv)  “Một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi”.  Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta điều gì với lời khẳng định này?   
v)  Vào thời thánh Mátthêu, trong một nghĩa nào đó, cộng đoàn Kitô hữu đã mong đợi sự xuất hiện của Con Người.  Và ngày nay, chúng ta chờ đợi sự xuất hiện của Chúa Giêsu theo cách nào?
vi)  Theo bạn, đâu là trọng tâm hay nguồn gốc của lời giáo huấn này của Chúa Giêsu?    

5.  Dành cho những ai muốn đào sâu vào chủ đề

a)  Bối cảnh bài giảng của Chúa Giêsu: 

Tin Mừng theo thánh Mátthêu – Trong sách Tin Mừng của thánh Mátthêu có năm bài giảng tuyệt vời, như thể đó là một ấn bản mới của năm cuốn sách Luật Môisen.  Đoạn Tin Mừng mà chúng ta đang suy gẫm trong Chúa Nhật tuần này là một phần của Bài Giảng thứ năm của cuốn sách Luật Mới này.  Mỗi một bài trong tất cả bốn bài giảng trước đó soi sáng một khía cạnh khẳng định của Vương Quốc Thiên Chúa được công bố bởi Đức Giêsu.  Bài thứ nhất:  Công lý của Nước Trời và những điều kiện để được vào Nước Trời (Mt các chương 5-7).  Bài thứ hai:  Sứ vụ của các công dân Nước Trời (Mt chương 10).  Bài thứ ba:  Sự hiện hữu mầu nhiệm của Nước Trời trong đời sống người ta (Mt chương 13).  Bài thứ tư:  Đời sống Nước Trời trong cộng đoàn (Mt chương 18). Bài giảng thứ năm nói về sự cảnh giác trong quan điểm khẳng định Nước Trời đang đến.  Trong bài giảng cuối cùng này, Mátthêu nối tiếp bản đề cương của thánh Máccô (xem Mc 13:5-37), nhưng thêm vào một số bài dụ ngôn nói về sự cần thiết của việc cảnh giác và việc phục vụ, của sự đoàn kết và tình anh em.

Chờ đợi sự trở lại của Con Người – Ở cuối thế kỷ thứ nhất, các cộng đoàn đã sống trong mong đợi sự trở lại ngay lập tức của Chúa Giêsu (1Tx 5:1-11).  Họ căn cứ vào một số lời của thánh Phaolô ( 1Tx 4:15-18), có một số người đã ngưng làm việc vì nghĩ rằng Chúa Giêsu sắp trở lại đến nơi (2Tx 2:1-2; 3:11-12).  Họ tự hỏi:  “Khi Chúa Giêsu đến, liệu chúng ta có sẽ được cất thẳng lên Thiên Đàng như Người chăng?”  (xem 1Tx 4:17).  “Chúng ta có sẽ được tiếp nhận hay sẽ bị bỏ rơi?” (xem Mt 24:40-41).  Ngày nay, cũng có một bầu không khí tương tự như thế, trong đó có nhiều người tự hỏi:  “Tình trạng khủng bố này có phải là một dấu hiệu báo cho biết ngày tận thế đã gần kề không?”  Chúng ta phải làm gì để khỏi bị ngạc nhiên?”  Một đáp án cho câu hỏi và điều quan tâm này đến với chúng ta từ Lời của Chúa Giêsu mà Mátthêu chuyển đến cho chúng ta trong Tin Mừng của Chúa Nhật tuần này.

b)  Lời bình giải về đoạn Phúc Âm:

Mt 24:37-39:  Chúa Giêsu so sánh sự trở lại của Con Người với những ngày của trận lụt đại hồng thủy
“Trong thời ông Nô-e xảy ra thế nào, thì lúc Con Người đến cũng như vậy.”  Ở đây, để làm sáng tỏ lời kêu gọi phải cảnh giác, Chúa Giêsu nhắc tới hai cảnh trong Cựu Ước: ông Nô-e và Con Người.  “Những ngày thời ông Nô-e” có ý muốn nhắc tới thời kỳ đại hồng thủy (St 6:5-8:14).
Hình ảnh về “Con Người” xuất phát từ một thị kiến của tiên tri Đanien (Đn 7:13).  Trong thời ông Nô-e, đa số người ta đã sống mà không lo lắng bất kỳ một điều gì, không biết rằng giờ Thiên Chúa đã gần kề.  Cuộc sống vẫn tiếp tục “và họ đã không nhận thức được bất cứ điều gì cho đến khi cơn đại hồng thủy đến và nhận chìm tất cả”.  Và Chúa Giêsu kết luận:  “Khi Con Người đến thì cũng như vậy”.  Trong thị kiến của tiên tri Đanien, Con Người sẽ ngự giá mây trời mà đến một cách bất ngờ và sự xuất hiện của Người sẽ tiêu diệt mọi đế quốc thống trị, mà sẽ không có tương lai.

Mt 24:40-41:  Chúa Giêsu áp dụng sự so sánh để giảng cho những người đang lắng nghe lời Người.
“Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng:  một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi”.  Những chữ này không nên hiểu theo nghĩa đen.  Đó là một cách để nói lên số phận khác nhau mà người ta sẽ lãnh nhận tùy theo sự phán xét về các việc mà họ đã làm.  Một số người sẽ được tiếp nhận, nghĩa là, sẽ lãnh nhận ơn cứu rỗi, và những người khác sẽ không được nhận nó.  Đây là những gì đã xảy ra trong cơn đại hồng thủy:  “Ngươi hãy vào tàu, ngươi và cả nhà ngươi, vì Ta chỉ thấy ngươi là người công chính trước nhan Ta trong thế hệ này”  (St 7:1).  Ông Nô-e và gia đình ông đã được cứu rỗi.

Mt 24:42:  Chúa Giêsu đưa ra kết luận:  “Vậy hãy tỉnh thức”, phải canh phòng.
Thiên Chúa là Đấng quyết định giờ xuất hiện của Con Người.  Nhưng thời giờ của Thiên Chúa thì không được đo bằng chiếc đồng hồ hoặc năm tháng của chúng ta.  Đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, và ngàn năm cũng tựa một ngày (Tv 90; 2 Pr 3:8).  Thời gian của Thiên Chúa (kairos = kỳ hạn) thì độc lập với thời gian của chúng ta (cronos = ngày tháng).  Chúng ta không thể can thiệp vào thời gian của Thiên Chúa, nhưng chúng ta nên chuẩn bị cho giây phút mà giờ của Chúa trở thành hiện tại trong thời gian của chúng ta.  Nó có thể là ngày hôm nay, nó có thể là một ngàn năm nữa.

Mt 24: 43-44:  Sự so sánh:  Con Người sẽ đến vào lúc mà các con không ngờ.
Thiên Chúa đến khi chúng ta không ngờ nhất.  Nó cũng có thể xảy ra rằng Người đến và người ta không nhận thức được giờ khắc xuất hiện của Người.  Chúa Giêsu đòi hỏi hai điều:  việc luôn luôn cảnh giác chu đáo, và cùng lúc, sự dấn thân yên lặng của người sống trong bình an.  Thái độ này là dấu hiệu của sự trưởng thành vững chãi, trong đó mối quan tâm thận trọng được hòa lẫn với yên bình thanh thản.  Sự trưởng thành kế tiếp theo đó để kết hợp tính chất nghiêm trọng của thời điểm với việc nhận thức rằng mọi thứ đều tương đối.

c)  Phần phụ chú để hiểu rõ hơn về đoạn Tin Mừng:

Chúng ta nên thận trọng chuẩn bị cho bản thân như thế nào? – Đoạn Tin Mừng của chúng ta được dẫn trước bởi bài dụ ngôn cây vả (Mt 24:32-33).  Cây vả là biểu tượng của dân Do-Thái (Tl 9:10; Mt 21:18).  Trong việc xem xét cây vả, Chúa Giêsu yêu cầu các môn đệ hãy quan sát và phân tích các dữ kiện đang xảy ra.  Tưởng chừng như Chúa Giêsu đang nói với chúng ta:  “Các con nên học hỏi từ cây vả để đọc thấy các dấu hiệu của thời gian, và bằng cách này các con sẽ khám phá nơi đâu và khi nào Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử của chúng ta!”

Điều chắc chắn được chia sẻ với chúng ta bởi Đức Giêsu – Chúa Giêsu để lại cho chúng ta một điều chắc chắn gấp đôi để định hướng cho cuộc hành trình của chúng ta trong cuộc sống:  (1) nhất định ngày sau hết sẽ đến; (2) chắc chắn, không ai biết bất cứ điều gì về ngày hoặc giờ khắc của ngày tận thế.  “Còn về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay ngay cả Con Người cũng không; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi!” (Mt 24:36).  Mặc dù tất cả các ước đoán hoặc tính toán mà người ta có thể làm để đoán về ngày tận thế, không ai có thể tính toán một cách chắc chắn.  Điều có thể cho sự an bình không phải là sự hiểu biết về giờ phút của ngày tận thế, mà là Lời của Chúa Giêsu hiện diện trong đời sống. Thế giới này sẽ qua đi nhưng Lời Chúa sẽ không bao giờ qua đi (xem Is 40:7-8).

Bao giờ ngày tận thế sẽ đến? – Khi Kinh Thánh nói về “ngày mạt thế”, điều này không đề cập đến sự kết thúc của thế giới, nhưng về sự kết thúc của một thế giới.  Nó muốn đề cập đến sự kết thúc của thế gian này, nơi mà sự bất công và quyền lực của sự dữ thống trị; những điều làm cuộc đời trở thành cay đắng.  Thế giới bất công này sẽ đi đến chỗ kết thúc và thay vào đó sẽ là “một trời mới và một đất mới”, điều này được công bố bởi tiên tri Isaia (Is 65:15-17) và được dự kiến trong sách Khải Huyền (Kh 21:1).  Không ai biết khi nào hay cách nào thế giới này sẽ bị kết thúc (Mt 24:36), bởi vì không ai có thể mường tượng được Thiên Chúa đã dọn sẵn điều gì cho những ai yêu mến Người (1Cr 2:9).  Thế giới mới của cuộc-sống-không-có-cái-chết vượt trội tất cả mọi sự, giống như cây vượt quá hạt giống (1Cr 15:35-38).  Những Kitô hữu tiên khởi đã lo lắng để được hiện diện trong ngày tận thế này (2Tx 2:2).  Họ tiếp tục nhìn lên trời, chờ đợi sự quang lâm của Chúa Kitô (Cv 1:11).  Có một số người đã ngưng làm việc (2Tx 3:11).  Tuy nhiên “Anh em không cần biết kỳ hạn hoặc thời giờ Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv 1:7).  Cách duy nhất để đóng góp vào ngày cuối cùng sắp đến “để Thiên Chúa có thể ban cho thời kỳ an lạc” (Cv 3:20), và làm nhân chứng cho Tin Mừng ở khắp mọi nơi, cho đến tận cùng của trái đất (Cv 1:8).   

6.  Cầu Nguyện:  Thánh Vịnh 46 (45): 
“Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu!  Chúng ta chẳng sợ hãi gì!”
Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu và là sức mạnh của ta.
Người luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ khi ta phải ngặt nghèo.
Nên dầu cho địa cầu chuyển động,
núi đồi có sập xuống biển sâu,
dầu cho sóng biển ầm ầm sôi sục,
núi đồi có lảo đảo khi thủy triều dâng,
ta cũng chẳng sợ gì.

Một dòng sông chảy ra bao nhánh
đem niềm vui cho thành của Chúa Trời:
đây chính là đền thánh Đấng Tối Cao.
Thiên Chúa ngự giữa thành, thành không lay chuyển;
ngay từ rạng đông, Thiên Chúa thương trợ giúp.
Muôn dân náo động, muôn nước chuyển lay,
tiếng Người vang lên là trái đất rã rời.
Chính Chúa Tể càn khôn ở cùng ta luôn mãi,
Thiên Chúa nhà Giacóp là thành bảo vệ ta.

Đến mà xem công trình của CHÚA,
Đấng gieo kinh hãi trên mặt địa cầu.
Người chấm dứt chiến tranh trên toàn cõi thế,
cung tên bẻ gẫy, gươm giáo đập tan,
còn khiên thuẫn thì quăng vào lửa.
“Dừng tay lại: Hãy biết Ta đây là Thiên Chúa!
Ta thống trị muôn dân, thống trị địa cầu.”

Chính Chúa Tể càn khôn ở cùng ta luôn mãi,
Thiên Chúa nhà Gia-cóp là thành bảo vệ ta.

7.  Lời nguyện kết

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha.  Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa.  Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét