30/11/2019
Thứ Bảy tuần 34 thường niên
THÁNH ANRÊ, TÔNG ĐỒ.
Lễ kính.
* Thánh Anrê quê ở
Bétsaiđa. Ban đầu người là môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả, sau đó theo Chúa
Kitô. Người cũng đã dẫn em là thánh Phêrô đến gặp Chúa. Chính người cùng với
thánh Philipphê đã giới thiệu những người ngoại giáo với Chúa Kitô và đã cho biết
có một em bé mang theo bánh và cá khi những người nghe Chúa giảng không có gì
ăn. Sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, người đã đi loan báo Tin Mừng ở nhiều
nơi và đã bị đóng đinh thập giá ở A-khai-a.
BÀI ĐỌC I: Rm 10, 9-18
“Lòng tin có là nhờ nghe, còn
nghe thì dựa vào lời Đức Kitô”.
Trích thư Thánh
Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Nếu miệng ngươi tuyên
xưng Đức Giêsu là Chúa và lòng ngươi tin rằng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết
sống lại, thì ngươi sẽ được rỗi. Quả thế, tin trong lòng thì sẽ được công
chính, tuyên xưng ngoài miệng sẽ được cứu rỗi. Vì Thánh Kinh đã có nói: “Hễ ai
tin vào Người thì sẽ không phải hổ thẹn”. Bởi lẽ không có sự phân biệt người
Do-thái và Hy-lạp: Vì là cùng một Chúa của mọi người, Ngài rộng rãi đối với tất
cả mọi người khẩn xin cùng Ngài. Vì mọi kẻ cầu khẩn Danh Ngài, đều được cứu độ.
Nhưng người ta kêu cầu
thế nào được với Đấng mà họ không tin? Hoặc làm sao họ tin được Đấng họ không
nghe nói tới? Nhưng nghe thế nào được, nếu không có người rao giảng? Mà rao giảng
thế nào được, nếu không được ai sai đi? Như có lời chép rằng: “Cao quý thay
chân những người rao giảng sự bình an, rao giảng tin lành!” Nhưng không phải mọi
người đều suy phục Tin Mừng cả đâu. Vì Isaia nói rằng: “Lạy Chúa, nào có ai tin
lời chúng con rao giảng?”
Vậy lòng tin có là nhờ
nghe, còn nghe thì dựa vào lời Đức Kitô. Nhưng tôi xin hỏi: Phải chăng họ đã
không được nghe đến? Quả thật, tiếng của những vị đó đã vang dội ra khắp địa cầu,
và lời của những đấng ấy được truyền đến tận cùng thế giới. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 18, 2-3. 4-5
A+B=Tiếng chúng đã
vang cùng trái đất (c. 5a).
A=Trời xanh tường thuật
vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp của Người. Ngày này nhắc nhủ
cho ngày khác, đêm này truyền tụng cho đêm kia. – Đáp.
B=Đây không phải lời
cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai. Nhưng tiếng chúng
đã vang cùng trái đất, và lời chúng truyền ra khắp cõi địa cầu. – Đáp.
A+B=Tiếng chúng đã
vang cùng trái đất (c. 5a).
ALLELUIA: Ga 9, 19
Alleluia, alleluia!
– Chúa phán: “Các ngươi hãy theo Ta; Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những
ngư phủ lưới người ta”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 4, 18-22
“Các ông bỏ lưới mà đi theo Người”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, nhân lúc Chúa
Giêsu đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy hai anh em là Simon, cũng gọi là
Phêrô, và Anrê, em ông, cả hai đang thả lưới dưới biển, vì hai ông là ngư phủ.
Người bảo hai ông rằng: “Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở
thành những ngư phủ lưới người ta”. Lập tức hai ông bỏ lưới đó mà theo Người.
Đi xa hơn một đỗi, Người lại thấy hai anh em khác là Giacôbê con ông Giêbêđê,
và Gioan em ông đang vá lưới trong thuyền với cha là Giêbêđê. Người cũng gọi
hai ông. Lập tức hai ông bỏ lưới và cha mình mà đi theo Người. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Tông đồ trước
nhất, Anrê
Lễ Thánh Anrê là lễ
trước nhất trong lịch sử phụng vụ chư thánh, Ngài là người trước nhất đi theo Đức
Giêsu và là người trước nhất tuyên bố Đức Giêsu là Đấng Messia. Thánh Gioan kể nhiiều chi tiết về Thánh Anrê hơn Thánh
Matthêu cho chúng ta biết thái độ của Thánh Anrê.
Anrê là anh của Simon.
Ngài đã thuộc nhóm đạo đức của Thánh Gioan tiền hô. Ngài cùng với Thánh Gioan
đi tháp tùng Thánh Gioan Tiền Hô. Khi Thày thấy Đức Giêsu đi ngang qua, thày đã
nói: “Đây Chiên Thiên Chúa”. Anrê đã bỏ thày lại và đi theo Đức Giêsu, đến nơi ở
của Người và họ đã ở lại với Người từ ngày đó!”
Ngày hôm sau, khi em
mình là Simon, Ngài nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, rồi ông dẫn em mình đến
gặp Đức Giêsu”. (Ga 1, 41-42)
Theo truyền khẩu Ngài
chết ở Patras Hy Lạp, bị đóng đinh vào thập giá hình chữ X.
Ngày nay, ta luôn luôn
có cảm tưởng rằng để noi gương các thánh, chúng ta phải thực hành nhân đức đặc
sác của Ngài. Đúng thế! Nhưng suy nghĩ về các Thánh mà chúng ta biết điều thúc
dục chúng ta là luôn cầu nguyện theo gương các Ngài, như phụng vụ khêu gợi cho
chúng ta. Tờ kê khai các nhân đức của các Ngài thì dài vô tận và chúng ta sẽ
như chim chích vào rừng, nói thế không phải chuyện dỡn!
Nhưng thay vì lạc vào
rừng, tiên vàn ta hãy theo Thánh Anrê, cũng như các thánh, muốn dạy chúng ta
bài học độc nhất là: gặp gỡ Đức Ki-tô và yêu mến Người. Đó là đúng nhất. Không
còn bài học nào khác, cũng không phải tìm ai nữa, Ngài đã tìm được Đấng giải
thích cho lý trí của Ngài: “Tôi đã gặp được Đấng tôi yêu và yêu tôi”. “Tôi yêu
Người trọn vẹn vì lý do đó”.
Anrê nghĩa là dâng hiến,
là trung tín, là tất cả trong tình yêu, tình bạn khiêm tốn.
J.M.
Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Thánh Anrê Tông Đồ (Ngày 30 tháng 11)
Bài đọc: Rom
10:9-18; Mt 4:18-22.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đẹp thay bước chân những sứ giả
loan báo Tin Mừng!
Thánh Anrê Tông Đồ,
con của ông Jonah hay John (Mt 16:17; Jn 1:42), sinh tại Bethsaida, miền
Galilee (Jn 1:44). Ngài là anh em với thánh Phêrô (Mt 10:2; Jn 1:40). Cả hai
anh em đều làm nghề đánh cá, và khi được gọi bởi Chúa Giêsu, hai anh em đang sống
chung một nhà tại Capernaum (Mk 1:21, 29).
Tin Mừng Thứ Tư cho
chúng ta biết Anrê lúc đầu là môn đệ của John Baptist, và sau lời làm chứng của
thầy mình, Anrê đã đi theo Chúa Giêsu (Jn 1:35-40). Sau khi nhận ra Chúa Giêsu
chính là Đấng Thiên Sai, ông vội vã giới thiệu Ngài cho Phêrô, em mình (Jn
1:41), và cả hai trở thành những môn đệ của Đức Kitô. Hai ông bỏ mọi sự để đi
theo Chúa Giêsu (Mt 4:19-20; Mk 1:17-18; Lk 5:11).
Tên của hai anh em được
liệt kê vào Nhóm Mười Hai Tông-đồ trong Tin Mừng Nhất Lãm và CVTĐ (Mt 10:2-4;
Mk 3:16-19; Lk 6:14-16; Acts 1:13). Anrê luôn được kể là một trong bốn môn đệ đầu
tiên. Trong Tin Mừng Nhất Lãm, Anrê chỉ được nhắc tới một lần cùng với Phêrô,
Giacôbê và Gioan, khi các ông hỏi Chúa Giêsu về ngày mà Đền Thờ Jerusalem bị
phá hủy. Trong Phúc Âm Gioan, Anrê là người được nhắc tới trong phép lạ hóa
bánh ra nhiều để nuôi 5,000 người ăn (Jn 6:8-9), và khi một số người Hy-lạp đến
với Philip để xin cho họ gặp Chúa Giêsu, Philip đã chuyển lời của họ cho Anrê
(Jn 12:20-22).
Khi các Tông-đồ bắt đầu
nhận lệnh đi khắp tứ phương rao giảng Tin Mừng, thánh Jerome cho biết thánh
Anrê lúc đầu đã đi rao giảng tại Cappadocia, Galatia, Bithynia, và trong vùng
sa mạc Scythia; sau đó ngài tới Byzantium, Macedonia, Thessaly và Achaia. Truyền
thống tin ngài bị đóng đinh bởi Aegeas, Thống Đốc Rôma, tại Patrae trong miền
Achaia. Cuộc tử đạo của ngài xảy ra dưới thời hoàng-đế Nero (ngày 30 tháng 11
năm 60 AD). Di hài của ngài lúc đầu được giữ ở Constantinople, khi thành phố
này bị chiếm bởi người Pháp vào đầu thế kỷ 13, đức hồng y Phêrô của Capua đã
mang di hài của ngài về Ý và đặt trong thánh đường Amalfi. Thánh Anrê được tôn
làm quan thầy của Sô Viết và Tô Cách Lan.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tiếng các ngài đã dội khắp hoàn cầu, và thông điệp loan đi
tới chân trời góc biển.
1.1/ Lời Kinh Thánh giúp
con người nhận ra sự thật và tin tưởng nơi Thiên Chúa: Trình thuật hôm nay tiếp tục những gì thánh Phaolô đã
trình bày trong những chương trước về đề tài con người được nên công chính là
do bởi niềm tin vào Đức Kitô, chứ không do bởi việc giữ cẩn thận các Lề Luật.
Ngay trong câu đầu tiên, thánh Phaolô đã trình bày về việc làm sao con người có
thể tin tưởng nơi Thiên Chúa: “Vậy Kinh Thánh nói gì? Thưa: Lời Thiên Chúa ở gần
bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời đó chính là lời chúng tôi rao giảng
để khơi dậy đức tin.”
Thánh Phaolô muốn nhấn
mạnh hai điều trong câu này: thứ nhất, Thiên Chúa là tác nhân chính, Ngài đã đặt
Lời vào trong con người; thứ hai, Phaolô chỉ là người cộng tác với Thiên Chúa
trong việc rao giảng để khơi dậy đức tin nơi người nghe. Phaolô trích dẫn Sách
Đệ Nhị Luật 30:14 theo văn bản của MT. Có sự khác biệt giữa Bản Bảy Mươi và Bản
MT: Bản Bảy Mươi có thêm câu “và ngay trên tay bạn;” có lẽ tác giả của Bản Bảy
Mươi cũng muốn đến sự liên hệ giữa đức tin và hành động để biểu lộ đức tin.
Theo Phaolô, con người phải tin Đức Kitô trong lòng và tuyên xưng ngoài miệng:
Ngài đã được Thiên Chúa sai đến với con người để chịu chết và đã sống lại, thì
mới được hưởng ơn cứu độ.
1.2/ Thiên Chúa thương
xót tất cả những ai tin tưởng nơi Ngài: Ơn cứu
độ của Thiên Chúa được mở rộng cho tất cả những ai tin và kêu cầu danh của
Ngài; chứ không phải chỉ giới hạn trong vòng dân tộc Do-thái như nhiều người lầm
tưởng. Phaolô trích dẫn các Sách Tiên Tri, Isaiah 28:16 trong câu 11, và Joel
2:32 trong câu 13, để nói lên sự thật này. Đây là điều hợp lý và chứng tỏ tình
yêu Thiên Chúa dành cho mọi người. Phaolô kết luận: “Như vậy, không có sự khác
biệt giữa người Do-thái và người Hy-lạp, vì tất cả đều có cùng một Chúa, là Đấng
quảng đại đối với tất cả những ai kêu cầu Người.”
2/ Phúc Âm: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ
lưới người như lưới cá.”
2.1/ Chúa Giêsu mời gọi 4
môn đệ đầu tiên đi theo Ngài: Chúa Giêsu mời
gọi các ông hướng tới sứ vụ cao trọng hơn: mang ánh sáng chân lý của Thiên Chúa
và ơn cứu độ đến cho con người. Thoạt nghe trình thuật của Matthew, chúng ta có
thể thắc mắc: Làm sao 4 môn đệ đầu tiên này có thể đáp trả lời mời gọi của Chúa
Giêsu cách dứt khoát và nhanh chóng như thế? Bốn ông đều chắc chắn đã có cơ hội
nghe Chúa Giêsu rao giảng trong hội đường Capernaum và chung quanh vùng Biển Hồ
Galilee, đã chứng kiến các phép lạ Ngài làm, đã nghe dân chúng bàn tán về Ngài…
Tất cả những điều này làm các ông phải suy nghĩ nhiều đêm, để rồi hôm nay, khi
Ngài chính thức mời gọi: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những
kẻ lưới người như lưới cá;” các ông mới có thể bỏ mọi sự đi theo Ngài.
2.2/ Các môn đệ phải dứt
khoát đáp trả: Tuy thế, phản ứng dứt khoát của
các tông đồ cũng làm cho chúng ta phải kinh ngạc. Nghề nghiệp không dễ bỏ vì nó
liên quan đến vần đề sinh sống. Các ông chắc cũng thắc mắc: “Bỏ nghề rồi làm gì
ăn?” Bỏ cha già ở lại trên thuyền với lưới rách còn khó hơn. Ơn sinh thành phải
đền trả. Giờ đã đến lúc người cha già yếu phải sống nương tựa vào sức mạnh của
con, thế mà hai người con khỏe mạnh đành lòng để cha già ở lại để bước theo Đức
Kitô! Hơn nữa, chắc họ cũng phải nhìn lại con người mình và tự hỏi: Làm sao một
dân thuyền chài có thể mang ánh sáng chân lý tới cho con người? Chính họ cần được
ánh sáng chân lý chiếu soi trước hết.
Các ông có can đảm bước
đi theo tiếng gọi của Chúa Giêsu vì các ông được soi sáng để nhận ra đâu là điều
quan trọng trong cuộc đời. Các ông đi theo Chúa Giêsu vì các ông nhận ra có những
điều trong cuộc đời cao trọng hơn là nghề nghiệp và sự đáp trả công ơn sinh
thành bằng việc giúp đỡ phần xác. Chúa Giêsu phải có những điều có thể lấp đầy
những nỗi khao khát trong tâm hồn các ông. Các ông thấy dân chúng lũ lượt và
nhiệt thành đến với Chúa Giêsu để nghe Ngài dạy dỗ và chữa lành. Các ông cảm thấy
hãnh diện được trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, và việc tham gia vào sứ vụ cứu
độ của Chúa phải là điều đáng ao ước hơn cả.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Trong cuộc đời, có
những điều quan trọng hơn là công việc làm. Chúng ta hãy noi gương thánh Anrê để
đi tìm sự thật, và sau khi đã tìm thấy, loan báo sự thật này cho mọi người.
– Trong tiến trình đem
con người đến với Thiên Chúa, con người chỉ là khí cụ Thiên Chúa dùng để rao giảng.
Để con người hoán cải và tin vào Thiên Chúa, con người cần ơn thánh hoạt động cả
bên trong lẫn bên ngoài.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
30/11/2019 – THỨ BẢY TUẦN 34 TN
Th. An-rê, tông đồ
Mt 4,18-22
ƠN GỌI VÀ GIA ĐÌNH
Chúa Giê-su đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy hai
anh em kia là Si-mon, cũng gọi là Phê-rô, và người anh ông là An-rê… Người gọi
các ông… Lập tức các ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. (Mt 4,18-20)
Suy niệm: Trong số mười hai tông đồ
thì có đến hai cặp là anh em với nhau: cặp Phê-rô và An-rê, cặp Gio-an và
Gia-cô-bê. Đặt mình trong bối cảnh của Tin Mừng mới thấy việc Chúa Giê-su kêu gọi
các ông phát sinh lắm vấn đề thật bức xúc. Là những lao động chính trong nhà,
các ông đồng loạt bỏ lưới bỏ thuyền để đi theo Đức Giê-su theo kiểu “cầm cày
không ngoái cổ lại đàng sau,” chắc hẳn các ông đã để lại không ít khó khăn cho
công việc làm ăn của cả gia đình, chưa kể đến những tình cảm quyến luyến. Các
ông quảng đại bỏ mọi sự theo Chúa đã đành mà thân nhân của các ông cũng phải hy
sinh lớn lao để hiến dâng các ông cho Chúa. Tin Mừng còn cho biết gia đình các
ông sau này vẫn tiếp tục hỗ trợ cho thầy trò các ông trên đường truyền giáo nữa
(x. Mt 8,15; Mt 27,56).
Mời Bạn: Giáo Hội Việt Nam vốn được
tiếng là giàu ơn gọi. Thế nhưng theo đà phát triển của xã hội hiện nay, đã xảy
ra nhiều trường hợp gia đình không còn mặn mà với việc cho con cái bước theo
con đường tu trì, thậm chí còn cản trở chống đối. Để đẩy mạnh công cuộc truyền
giáo, không thể không phát triển ơn gọi. Bạn, gia đình bạn, góp phần thế nào
trong công cuộc này? Nhất là khi chính bạn hoặc con em bạn được ơn Chúa kêu gọi,
bạn và gia đình bạn có sẵn sàng hiến dâng quảng đại chưa?
Sống Lời Chúa: Sẵn sàng hy sinh từ bỏ những
việc nhỏ trong đời thường để sẵn sàng từ bỏ theo như ơn gọi đòi hỏi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con luôn sẵn sàng đáp lại ơn gọi
của Chúa.
(5 Phút Lời Chúa)
Hãy đi theo tôi (30.11.2019 – Thứ
Bảy - Thánh Anrê tông đồ)
Suy niệm:
Như một sự tình cờ, lúc đang đi dọc theo bờ hồ Galilê,
Đức Giêsu thấy bóng dáng các anh đánh cá quen thuộc.
Hẳn họ đã có lần nghe Ngài giảng và thấy Ngài chữa lành bệnh nhân.
Đức Giêsu yên lặng nhìn các anh làm việc.
Họ đang quăng lưới bắt cá hay ngồi trong khoang vá lưới với cha.
Cảnh tượng rất đời thường và ấm áp.
Đẹp biết mấy chuyện con người làm việc chung với nhau.
Sau này họ sẽ biết cách làm việc với nhau trên con thuyền Giáo Hội.
Chúa Giêsu hôm nay cũng thấy tôi.
Tôi thế nào, Ngài thấy tôi thế ấy.
Cái nhìn của Ngài không làm tôi bị tê liệt, nhưng cho tôi tự do.
Ngài chấp nhận trọn vẹn con người tôi, cả tội lỗi và yếu đuối.
Chẳng cần son phấn, tôi thu hút Ngài bằng cái mộc mạc của tôi.
Ngài gặp tôi hôm nay lúc tôi đang mải mê làm một việc gì đó.
Ngài gặp tôi giữa cái vất vả kiếm sống của đời thường.
Hạnh phúc cho người nào được thấy Thiên Chúa (Mt 5, 8),
và cũng thật hạnh phúc cho người nào được Thiên Chúa thấy.
“Các anh hãy theo tôi”: đây là một lời mời dành cho mọi Kitô hữu.
Ơn gọi Kitô hữu khởi đi từ tiếng gọi của Thầy Giêsu.
Người Do Thái thường tầm sư học đạo,
còn ở đây, chính Thầy Giêsu đi chọn môn đệ cho mình (Ga 15, 16).
Ngài mời ta đi theo chính con người của Ngài,
chứ không phải theo một lý tưởng cao đẹp hay một dự án hấp dẫn.
“Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới con người.”
Một cuộc đổi đời thực sự, từ lưới cá đến lưới con người.
Con người của mọi dân tộc là mối bận tâm của Thiên Chúa.
Theo Chúa Giêsu là chia sẻ nỗi thao thức của Ngài về nhân loại,
và đồng lao cộng khổ với Ngài trong sứ mạng cứu độ thế giới.
Simon và Anrê đã bỏ chài lưới, Giacôbê và Gioan bỏ thuyền và cha.
Sự từ bỏ nào cũng gây ít nhiều xót xa đau đớn.
Biển cả, sóng nước, thuyền bè, lưới cá, người cha, người vợ:
biết bao giá trị phải bỏ lại, những người tôi đã và vẫn còn yêu mến.
Từ bỏ chỉ khả thi nếu tôi gặp một giá trị cao hơn, một tình yêu lớn hơn.
Chúa không đòi mọi người phải sống đời tu, nhưng đòi phải từ bỏ mình.
Từ bỏ đơn giản là đặt Thiên Chúa lên trên mọi thụ tạo khác,
là chọn Giêsu trong giây phút hiện tại, là đón lấy cái bấp bênh.
Bốn anh ngư phủ đã lên bờ để đi theo một ông thợ mộc bỏ nghề.
Đời họ đã sang một trang mới.
Hôm nay Chúa vẫn đi ngang qua đời tôi như một sự tình cờ.
Ngài vẫn thấy, vẫn gọi, để tôi bỏ và đi theo.
Không thấy và gọi, thì cũng chẳng ai từ bỏ và đi theo.
Tiến trình này được lặp lại nhiều lần, làm nên hành trình Kitô hữu.
Hôm nay tôi mong theo Chúa hơn hôm qua, và ngày mai hơn hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.
(Chân phước Têrêxa Calcutta)
Lm.An-tôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
30 THÁNG MƯỜI MỘT
Ngài Đến Để Phán
Xét Kẻ Sống Và Kẻ Chết
Chúng ta biết về cuộc
sinh hạ Chúa Giêsu trong đêm nhiệm mầu ấy ở Bê-lem. Chúng ta biết cuộc sống và
cái chết của Người trên Thập Giá. Bằng lời Tin Mừng cứu độ của Người và, cuối
cùng, bằng cái chết và cuộc Phục Sinh của Người, Người đã rao giảng “những gì
công minh chính trực” trên mặt đất. Chúng ta hãy “đứng thẳng dậy và ngẩng đầu
lên”. Vì với sự đến của Đấng Công Chính, với mầu nhiệm Vượt Qua của Người, ơn cứu
độ của chúng ta được bảo đảm.
Mùa Vọng hướng chỉ về
sự đến của Đấng Cứu Chuộc, của Con Người, Đấng đã sinh ra ở Bê-lem đêm ấy. Từ
khoảnh khắc kỳ diệu ấy, Người tự tỏ lộ cho chúng ta thấy chính Người trong toàn
bộ lịch sử nhân loại từ khởi đầu tới chung cuộc.
Người cho chúng ta thấy
lịch sử loài người trên trái đất không phải chỉ là một dòng lịch sử hướng về sự
chết. Lịch sử ấy có ý nghĩa của nó và dẫn về điểm hoàn thành mọi sự. Theo nghĩa
đó, Mùa Vọng hướng chỉ một sự đến khác của Con Người, lần này trong tư cách là
vị Thẩm Phán của hồi tận thời. Người đã đến để ươm mầm Tin Mừng qua cuộc Nhập
Thể và cuộc Tử Nạn của Người. Người sẽ đến lần thứ hai để phán xét các dân tộc
và thu hoạch hoa trái mà Người đã gieo trồng. Người sẽ đến để bóc trần những
kín ẩn của mọi lương tâm và mọi cõi lòng vào cuối thời gian.
Như vậy, lịch sử con
người trên trái đất không chỉ là một hành trình tiến về cái chết. Tiên vàn nó
là một sự chuẩn bị cho sự thật của cuộc phán xét. Nó là một sự chuẩn bị cho sự
sống viên mãn trong Thiên Chúa.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 30/11
Thánh Anrê Tông Đồ
Rm 10, 9-18; Mt 4,
18-22.
LỜI SUY NIỆM: Người bảo các
ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người
như lưới cá” lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.
Trong Cựu Ước mỗi người chúng ta thấy Thiên Chúa có kế hoạch cứu độ nhân loại,
Ngài đã chọn gọi tổ phụ Ápraham để gầy dựng một dân riêng cho Ngài, Ngài
cũng đã gọi Môsê để giải phóng dân Ngài khỏi cảnh nô lệ tại Ai-cập, đi vào Đất
Hứa để thờ phượng Ngài và hôm nay Chúa Giêsu là Con Một của Ngài đã đến trên trần
gian này để thực hiện Thánh ý của Ngài, Người cũng đã gọi các Tông Đồ để tiếp tục
thực hiện ơn cứu độ.
Lạy Chúa Giêsu. Xin
cho mỗi người trong chúng con đây, luôn luôn sẵn sàng đáp lại lời mời gọi của
Chúa để Chúa biến đổi trở thành công cụ của Chúa giữa xã hội hôm nay.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 30-11
Thánh ANRÊ TÔNG ĐỒ
(Thế kỷ I)
Anrê tiếng Hy lạp có
nghĩa là mạnh mẽ can đảm. Thánh Anrê được vinh dự làm một trong số 12 tông đồ của
Chúa Giêsu. Con của Gioana. Như em mình là Phêrô, Ngài làm thuyền đánh cá và
không có gì khác ngoài chiếc thuyền. Như thế Ngài thuộc lớp người khiêm tốn được
Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt. Ngài vẫn sống tại làng Bethsaida nhỏ bé bên bờ
biển Galilêa cũng gọi là hồ Giênezareth. Ngày ấy đang khi cùng với Phêrô đi thả
lưới, Chúa Giêsu đã đi ngang qua và đưa lời gọi sẽ quyết định cuộc đời các
Ngài: – Hãy theo tôi, tôi sẽ làm các anh thành các ngư phủ lưới người ta.
Đây không phải lần đầu
Anrê đã gặp đấng cứu thế. Thỉnh thoảng Ngài có tới nghe Gioan Tẩy giả rao giảng
trong sa mạc. Khi ấy Chúa Giêsu xuống Galilea và Gioan tẩy Giả đã nói: – Đây là
Chiên Thiên Chúa.
Và ANRÊ có mặt ở đó với
Gioan, đã biết được Người là Đấng thiên sai mong chờ. Gioan và ANRÊ lên đường
theo Người xa xa vì họ cảm động và không dám tới gần. Nhưng Chúa Giêsu quay lại
và nói với họ: – Các anh tìm chi vậy ?
Họ, những người chỉ
tìm, chỉ muốn Chúa thôi đã thưa lại: – Thưa Thầy, thày ở đâu ?
Chúa Giêsu nói: – Hãy
đến mà xem. Và cả hai đã ở với Chúa hôm ấy.
Khi trở về nhà ANRÊ đã
nói với em mình: – Chúng tôi đã gặp được Đấng thiên sai.
Từ đó hai anh em đã bỏ
chài lưới để tới gần Chúa Giêsu. Họ nghe Người và thần tính của Người dần dần rọi
sáng tâm hồn họ. Họ đã tông thờ Đấng cứu thế ở trong lòng rồi.
Ở tiệc cưới Cana, Anrê
đã thấy Chúa Giêsu biến nước thành rượu và lần đầu tiên thấy tỏ lộ vinh quang
thần linh của Ngài. Thế là sau biến cố ấy Chúa Giêsu đã gọi hai anh em bên bờ
biển Galilea và họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa.
Anrê đã rạng rỡ trong
lòng mà tham dự vào cuộc chữa lành các bệnh nhân gặp thấy trên đường đi, việc
Phúc âm những kẻ chết, việc Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi đoàn người đói lả
vây quanh Chúa Giêsu. Chính Anrê đã nói: – Có một bé trai có năm chiếc bánh và
hai con cá, nhưng bằng ấy thì thấm vào đâu đối với ngần này người (Ga 6,8 -9).
Và Ngài được thấy Chúa
Giêsu tăng gấp số thực phẩm. Ở Gierusalem, Ngài còn cho Chúa biết rằng: lương
dân đã xin với Philipphê cho được gặp Người. Ngài đã nghe loan báo các chân
phúc, các dụ ngôn. Ngài đã có mặt trong bữa tiệc ly. Sau phục sinh, Ngài đã
sung sướng gặp lại Thày chí thánh. Ngày lên trời, Ngài thấy Người tiến lên mây
trời. Ngày hiện xuống, Ngài đón nhận Chúa Thánh Thần.
Sau những tường thuật
trên của Phúc âm, người ta không biết gì chắc chắn nữa về Anrê. Các bản văn
không có thẩm quyền nói rằng: Ngài đã góp phần Phúc âm hóa dân chúng miền
Bithynia, Bontê và Galitia. Ngài bị bắt bên bờ Bắc hải và kết thúc cuộc đời tại
Achaia. Lửa đức ái rực cháy trong lòng vị tông đồ. Người ta nói rằng: để cải
hóa một tâm hồn, Ngài ăn chay 5 ngày. Đây là tục truyền kể lại cuộc tử đạo của
thánh Anrê ở Taurida.
Êgêa, tổng trấn tỉnh
đó cho biết vị tông đồ có mặt ở Patras, thủ phủ của ông, ông liền vội vã tới
nơi: kẻ ngoại lai này muốn phá hủy đền thờ các thần minh ư ? Nhưng Anrê không sợ
gì Egêa. Ngài đã nắm vững được chân lý. Ngài nói:- Tôn thờ loài người chỉ là dị
đoan điên khùng. Ong đã lãnh quyền xét xử người ta, trước hết ông phải biết đến
vị thẩm phán xét xử mọi người chúng ta ở trên trời và ông phải tôn kính ca ngợi
Người.
Êgêa vặn lại: – Vị thẩm
phán anh nói là Chúa Giêsu mà lời ông ta thường giảng dạy đã làm cho ông ta phải
chết trên thập giá chứ gì ? Vậy nếu anh không dâng hương tế thần, anh cũng sẽ
phải chết trên thập giá như vậy.
Không hề sợ sệt, Anrê
như rạng rỡ vì hạnh phúc: làm sao Ngài để mất danh dự được đóng đinh vào cùng một
đau khổ giá như thày mình được ? Khi bắt đầu những tra tấn đầu tiên, lòng dũng
cảm còn tăng thêm, Ngài nói với Êgêa: – Cực hình cuối cùng ông đe dọa sẽ được
tiếp liền bằng vinh quang bất diệt.
Khi thấy thập giá mình
sẽ phải chết trên đó, thánh nhân hớn hở chào kính mà người ta thích lập lại lời
chào ấy: – Ôi thánh giá tốt lành, thánh giá bấy lâu mong chờ, thánh giá nhiệt
tình yêu mến, hãy đưa ta tới thầy chí thánh là Đấng đã nhờ Người mà cứu chuộc
Ta.
Dịu dàng Anrê giang
tay ra. Ngài bị cột bằng giây để cái chết tới chậm hơn. Hình phạt sẽ kéo dài
hai ngày và người ta còn nghe Ngài tiếp tục rao truyền đức tin vào Chúa Giêsu
Kitô. Dân chúngvây quanh Ngài với niềm thán phục đã xin quan tổng trấn tháo
giây cho Ngài. Họ nói: – Hãy trả con người thánh thiện cho chúng tôi. Đã hai
ngày bị treo, Ngài không ngừng nói những lời tốt lành, đừng giết con người yêu
quí của Thiên Chúa.
Nhưng Anrê không muốn
được trả về cuộc sống khốn cực trần gian này. Ngài cầu nguyện:
– Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi thầy con yêu, con biết con ước ao được gặp thầy, trong Thày mà con được thế này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu Kitô.
– Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi thầy con yêu, con biết con ước ao được gặp thầy, trong Thày mà con được thế này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu Kitô.
Và những người tham dự
thấy linh hồn vị tông đồ trong hào quang đã bay về với Chúa tạo thành và cứu
chuộc của mình.
Tương truyền thánh
Anrê đã bị cột vào thánh giá đã có từ thế kỷ XII và chỉ vào thế kỷ XIV… người
ta mới tưởng tượng thánh giá đó hình chữ X. Dụng cụ cực hình ấy được mệnh danh
là thánh giá thánh ANRÊ .
(daminhvn.net)
30 Tháng Mười Một
Bảo Chứng Của Trường Sinh Bất Tử
Công chúa Touwan bên
Trung Quốc từ trần vào khoảng năm 104 Trước Công Nguyên, nhưng được những người
sinh sống đồng thời tin tưởng là bà sẽ trường sinh bất tử vì bà được an táng
trong một quan tài bằng ngọc thạch. Chồng bà nhắm mắt lìa đời 9 năm trước đó
cũng được an táng trong một quan tài tương tự.
Ðôi vợ chồng được
an nghỉ trong hai ngôi mộ xây cất trong vùng đồi núi hoang vu. Mãi đến năm 1969
người ta mới khám phá ra và cả thế giới ngạc nhiên trước sự giàu sang của thời
đại ấy được biểu lộ qua 2,800 của lễ được dâng tặng lúc cử hành lễ an táng,
nhưng đặc biệt nhất là hai cái quan tài, mỗi cái gồm tất cả hai ngàn mảnh ngọc
nhỏ được kết chung lại bằng những sợi chỉ bằng vàng.
Những người sinh sống
vào thời đại ấy quan niệm rằng: vàng và ngọc thạch không bị thời gian làm
hư hại vì thế chúng ta bảo chứng cho sự trường sinh bất tử.
Trên ba vòng bán nguyệt
của khung cửa chính ở nhà thờ chánh tòa Milanô bên Italia có khắc ba dòng chữ:
– Phía dưới hình một
hoa hồng được chạm trổ tinh vi của một vòng bán nguyệt, người ta đọc được hàng
chữ: “Mỗi hạnh phúc chỉ kéo dài trong khoảnh khắc”.
– Bên vòng bán nguyệt
của khung cửa kia, dưới hình một cây thập giá có ghi hàng chữ: “Mỗi đau khổ chỉ
kéo dài trong một khoảnh khắc”.
– Ở vòng nguyệt của
khung cửa giữa dẫn vào lòng chính của vương cung thánh đường có khắc dòng chữ:
“Chỉ có sự đời đời mới là quan trọng”.
Ở giữa một bên là quan
niệm đi tìm thuốc tiên hay sử dụng quan tài bằng ngọc thạch để được trường sinh
bất tử và bên kia là quan niệm cuộc đời con người chấm cùng bằng cái chết, những
người Kitô hữu xây dựng cuộc sống vĩnh cửu bằng những giây phút hiện tại và tin
tưởng rằng cái chết là ngưỡng cửa dẫn vào cuộc sống đời đời và chính cuộc sống
này mới thực sự quan trọng.
Vì thế họ chọn thái độ
“sống gửi thác về”. Họ thu nhặt những giá trị qúi như vàng ngọc bằng cách sống
tốt, sống thật những giây phút hiện tại, bằng cách áp dụng “hai đạo luật vàng:
mến chúa yêu người”, vì họ biết rằng chỉ có những gì được làm vì tình yêu mới
có giá trị vĩnh cửu.
Vì thế họ quan niệm đời
sống là một cuộc hành trình, phải luôn cất bước ra đi: nước mắt, nụ cười chỉ có
giá trị tương đối, để mỗi ngày họ bắt đầu lại, mỗi ngày họ cất một bước chân mới
đi về nhà cha. Năm phụng vụ đã gần kết thúc. Giáo hội mời gọi chúng ta tiếp tục
sống, nhưng với chú tâm sống tốt, sống thật từng phút giây hiện tại vì chúng là
những hạt cát, những viên gạch xây dựng cho cuộc sống mai sau.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét