Trang

Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2019

24-11-2019 : (phần I) CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN năm C - ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ


24/11/2019
 Chúa Nhật 34 Thường Niên năm C.
 ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ.
(phần I)


BÀI ĐỌC I: 2 Sm 5, 1-3
“Họ xức dầu phong Đavít làm vua Israel”.
Trích sách Samuel quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, toàn thể chi tộc Israel đến cùng Đavít tại Hebron mà nói rằng: “Đây chúng tôi là cốt nhục của ngài. Nhưng từ trước đến giờ, khi Saolê đang làm vua chúng tôi, thì chính ngài đã dẫn dắt Israel. Và Chúa đã nói với ngài rằng: ‘Chính ngươi sẽ chăn dắt Israel dân Ta, và sẽ trở nên thủ lãnh Israel'”.
Vậy tất cả các vị kỳ lão Israel đều đến tìm nhà vua tại Hebron, và tại đó, vua Đavít ký kết với họ một giao ước trước mặt Chúa. Họ liền xức dầu phong Đavít làm vua Israel. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 121, 1-2. 3-4a. 4b-5
Đáp: Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: “Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa”(c. 1).
Xướng: 1) Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: “Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa”. Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi đang đứng nơi cửa thành rồi. – Đáp.
2) Giêrusalem được kiến thiết như thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc, các bộ lạc của Chúa tiến lên. – Đáp.
3) Theo luật pháp của Israel, để ngợi khen danh Chúa. Tại đây đã đặt ngai toà thẩm phán, ngai toà của nhà Đavít. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: Cl 1, 12-20
“Người đã đem chúng ta về Nước Con yêu dấu của Người”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, chúng ta hãy cảm tạ Chúa Cha, Đấng đã làm cho anh em xứng đáng lãnh phần gia nghiệp các thánh trong ánh sáng. Chúa đã cứu chúng ta thoát khỏi quyền lực u tối, đem chúng ta về nước Con yêu dấu của Chúa, trong Người chúng ta được ơn cứu rỗi nhờ máu Người, và được ơn tha tôi.
Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử mọi tạo vật; vì trong Người, muôn loài trên trời dưới đất đã được tác thành, mọi vật hữu hình và vô hình, dù là các Bệ thần hay Quản thần, dù là Chủ thần hay Quyền thần: Mọi vật đã được tạo thành nhờ Người và trong Người. Và Người có trước mọi loài, và mọi loài tồn tại trong Người.
Người là đầu thân thể tức là Hội thánh, là nguyên thuỷ và là trưởng tử giữa kẻ chết, để Người làm bá chủ mọi loài. Vì chưng Thiên Chúa đã muốn đặt tất cả viên mãn nơi Người, và Thiên Chúa đã giao hoà vạn vật nhờ Người và vì Người; nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa ban hoà bình trên trời dưới đất. Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Mc 11, 10
Alleluia, alleluia! – Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến: chúc tụng nước Đavid tổ phụ chúng ta đã đến. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Lc 23, 35-43
“Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, các thủ lãnh cùng với dân chúng cười nhạo Chúa Giêsu mà rằng: “Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn”. Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi”. Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: “NGƯỜI NÀY LÀ VUA DÂN DO THÁI”.
Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa”. Đối lại, tên kia mắng nó rằng: “Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?” Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Chúa Giêsu đáp: “Ta bảo thật ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”. Đó là lời Chúa.


Suy Niệm: Ðức Giêsu Làm Vua Trên Thánh Giá
Hôm nay, Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội mừng lễ Chúa Kitô Vua. Giáo hội muốn mừng trước lễ sẽ diễn ra và được cử hành cực kỳ long trọng vào lúc thời gian tận cùng khi mà Chúa Kitô sẽ trở lại trong vinh quang thâu hồi tất cả tạo vật được cứu độ đưa vào trong hạnh phúc trường sinh. Hơn nữa, Giáo hội muốn đặt ngày trọng đại ấy trở nên ngọn Hải đăng chói sáng hướng dẫn con thuyền Hội Thánh vượt biển trần gian mà không bao giờ lạc hướng... Nói cách khác Giáo hội ao ước càng tiến xa trên đường đời chúng ta càng nhìn thấy ảnh hưởng và uy quyền của Chúa Kitô càng ngày càng tỏ hiện cả chiều rộng và chiều sâu. Muốn như vậy chúng ta phải hiểu rõ tước hiệu làm Vua và thực quyền thống trị của Chúa Kitô là gì, để do đó chúng ta biết sống ở trong Nước Người và làm cho Nước Người luôn lan rộng thêm.

1. Ðavít, Hình Ảnh Báo Trước Về Chúa Kitô Vua
Bài sách Samuel nhắc lại chuyện Ðavít đã trở thành vua Israel như thế nào. Nó cho chúng ta biết nguồn gốc Vương Quyền của Chúa Kitô vì chính Người vẫn được dân Cựu ước chờ đợi như là Con Vua Ðavít sẽ đến trị vì trên Dân Chúa.
Vậy Ðavít bấy giờ mới chỉ là vua xứ Giuđa. Các chi tộc Israel ở phía Bắc vẫn chưa công nhận Vương Quyền của ông. Họ còn lưu luyến nhà Saulê. Nhưng hai cuộc ám sát xảy ra đã khiến họ đổi ý... Ishbaal con của Saulê bị sát hại sau khi vị tướng của Israel là Abner bị giết. Ðầu mục các chi tộc kia liền đến Hêbron yết kiến Ðavít và xin qui phục vương quyền của ông. Chúng ta hãy lưu ý những lý lẽ họ đã đưa ra:
+ Ngài (tức là Ðavít) cũng là cốt nhục với chúng tôi.
+ Ngài đã từng là tướng triều Saulê, Vua nước chúng tôi.
+ Ngài đã được Thiên Chúa chọn để chăn dắt và lãnh đạo dân Người.
Ðó không phải là lời lẽ của những người đầu hàng; nhưng là những lời có tính toán và đặt điều kiện. Nói đúng hơn, những lời này cho thấy các đòi hỏi tiên quyết nơi một vị Vua của Israel... Ông phải có cốt nhục với đồng bào của ông; ông đã phải vào sinh ra tử cho Ðất nước của ông; và nhất là ông phải được Thiên Chúa chọn; vì làm vua nơi dân Chúa không phải như nơi các dân tộc của những quốc gia khác, nói đến Vua Chúa là phải nghĩ ngay đến cai trị và lãnh đạo. Còn nơi Israel, làm vua trước hết là chăn dắt dân như mục tử và phải hiểu việc lãnh đạo ở đây theo cung cách của kẻ chăn chiên.
Ðavít hội đủ những điều kiện ấy. Ông là cốt nhục với Israel. Ông đã vào sinh ra tử khi còn ở triều đình Saulê để chống quân Philitinh. Và ông đã được xức dầu là chứng Thiên Chúa đã chọn ông và ông đã nhận được thần trí của Thiên Chúa... Người ta không sợ ông sẽ dùng quyền cai trị như các bạo chúa thời xưa. Bản thân ông đã là mục tử. Dáng điệu của ông hiền lành khiêm nhu. Mọi nơi đều ca ngợi lòng quảng đại của ông ngay đối với cả địch thù.
Ðavít hiểu ý các đầu mục Israel. Ông chấp nhận ý kiến của họ và ông ký kết với họ một giao ước ở Hêbron, trước nhan Thiên Chúa. Và họ đã xức dầu tấn phong ông làm vua các chi tộc ở phía Nam.
Chúng ta có thể thắc mắc vì sao có thể xức dầu cho Vua mình được. Nhưng xức dầu ở đây chỉ là nghi thức công nhận quyền làm Vua của vị đã được xức dầu. Chính lần được xức dầu do "Người của Thiên Chúa", tức là do vị tiên tri của Người mới đáng kể. Và Ðavít đã được Samuel xức dầu ân sủng đó khi Thiên Chúa đã quyết định từ bỏ Saulê. Kể từ ngày đó Ðavít đã là Người Chúa chọn và đã mang thần trí của Người. Hôm nay các đầu mục Israel làm lại nghi thức xức dầu không phải để ban ân sủng cho Ðavít nhưng để công nhận ân sủng đã có sẵn ở nơi ông. Và tất cả những điều này đều có ý nghĩa để nói về Chúa Kitô Vua. Người đã được Thiên Chúa xức dầu Thánh Thần... nhưng có thể nói, một cách mầu nhiệm quá như trường hợp của Ðavít tại nhà ông, trong vòng thân mật và kín đáo, lúc ông còn nhỏ tuổi. Và cũng như Ðavít phải vào sinh ra tử cho dân trước khi được dân công nhận, thì Ðức Kitô cũng phải đi qua khổ nạn mới đạt tới vinh quang.
Ở đây chúng ta không thấy nói rõ Ðavít đã kết ước với Israel như thế nào. Nhưng theo ý dân đã biểu lộ trong dịp xức dầu đặt Saulê làm Vua (1S. 8,10-17), các đầu mục Israel hẳn đã nhấn mạnh đến việc Ðavít phải xuất chinh đi trước và giao chiến các cuộc chiến của họ. Cũng như theo những sự việc xảy ra sau này, dường như họ chỉ công nhận vương quyền của Ðavít nhưng chưa muốn sát nhập với Giuđa và cũng chẳng hứa sẽ tùng phục người kế vị Ðavít. Tức là họ chỉ công nhận Ðavít là Vua của họ khi Ðavít hứa luôn xuất chinh đi trước họ.
Những điều này cũng vậy sẽ cho chúng ta nhiều yếu tố để tìm hiểu vương quyền của Chúa Kitô. Có thể nói vương quốc của Người chỉ có ở nơi Người. Cũng như vương quốc của Ðavít chỉ có ở nơi Ðavít vì Israel và Giuđa một phần nào vẫn chưa muốn hoàn toàn là một Nước như ở nơi chúng ta còn quá nhiều yếu tố cách biệt và chia rẽ. Và vương quyền mà Israel công nhận nơi Ðavít, họ không sẵn sàng công nhận nơi người kế vị thành ra đó là vương quyền không chia sẻ và truyền ngôi. Ðiều này cũng cho thấy trước tính cách bất khả chia sẻ của vương quyền nơi Chúa Kitô. Nhưng điều chú ý nhất trong giao ước ký kết giữa Ðavít và Israel là buổi lễ được đặt trước nhan Thiên Chúa, để công nhận việc giữa loài người với nhau chỉ có giá trị nếu Thiên Chúa đảm bảo. Chính Người là cánh tay xây dựng mọi công trình tốt đẹp của loài người, và nếu Người không xây thì công việc của các tay thợ nề đều vô ích và luống công. Nước của Chúa Kitô Vua cũng vậy. Ðó là công trình của Thiên Chúa và hoàn toàn lệ thuộc Người; nên không thể lấy các quan niệm về những vương quốc thế gian mà hiểu. Chúng ta phải có những quan niệm của Thiên Chúa để hiểu về Nước Chúa Kitô. Và vì thế chúng ta không sợ nói đến tước hiệu Vua Kitô ở bất cứ hoàn cảnh nào vì Nước của Người không thuộc về thế gian này nên không được hiểu theo lẽ thế gian.
Dù sao bài sách Samuel hôm nay cũng đã cho chúng ta thấy một trường hợp làm vua rất đặc biệt. Câu chuyện Ðavít được công nhận làm Vua có nhiều yếu tố giúp chúng ta hiểu trường hợp làm Vua của Chúa Kitô. Ông Vua mục tử Ðavít đầy nhân ái và đạo đức đã là hình ảnh báo trước về Vua Thiên Sai sẽ đến cứu dân và xây hạnh phúc cho dân Chúa. Cả hai đã được Thiên Chúa tuyển chọn, nhưng vương quyền của cả hai đều phải vào sinh ra tử cho dân mới được dân công nhận. Không phải rồi sau đó cả hai vương quyền đều đã trị vì trên dân theo kiểu các quyền bính thế gian, nhưng vai trò của các người là bảo hộ bênh vực để dân Chúa được bình an và hạnh phúc. Vương quyền ấy là quan hệ giữa người với người hơn là biểu thị thành thể chế có thể nhìn thấy được vì Nước của Ðavít cũng chỉ rõ ràng ở nơi ông mà thôi.
Chúng ta ghi nhận những tư tưởng này để xem Ðức Kitô đã thể hiện hình ảnh báo trước về vương quốc của Người như thế nào?

2. Ðức Giêsu Làm Vua Trên Thánh Giá
Ai cũng biết suốt đời Ðức Giêsu chẳng có vẻ gì là một ông Vua. Người còn nhất mực từ chối mỗi khi dân chúng có ý tưởng tôn Người làm Vua. Nhưng bỗng dưng Người có một thay đổi bất ngờ. Hôm vào Giêrusalem, Người muốn tỏ ra mình là một ông vua thái hòa. Người cỡi lừa, ung dung để cho người ta lấy lá, lấy áo lót đường cho Người đi, và Người chấp nhận để cho người ta tung hô mình là Con Vua Ðavít, vua của Israel.
Nhưng trong cuộc rước ấy, Người vẫn âm thầm. Và Người cũng không có một cử chỉ hoàng đế nào trong dịp nô nức ấy. Thế rồi Người bị nộp, bị trói, bị đánh, bị điệu ra trước tòa. Chính ở đây và từ đây Người mới có thái độ làm vua.
Chúng ta hãy hạn chế tư tưởng trong khuôn khổ bài Tin Mừng hôm nay. Có quá nhiều yếu tố để chúng ta còn phải đi tham khảo ở những nơi khác trong Kinh Thánh.
Ðức Giêsu bấy giờ đã bị đóng đinh trên thập giá ở giữa hai tên gian phi. Như để cho người ta thấy Người không phải như hai kẻ kia, tác giả Luca lập tức đã viết rằng: "Bấy giờ Ðức Giêsu nói: Lạy Cha xin tha thứ cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm". Lời nói này khẳng định vị trí của Ðức Giêsu không những ở giữa hai tên gian phi, mà còn ở giữa tất cả mọi người. Cả nhân loại là tội nhân, duy mình Người là Ðấng Công Chính có khả năng cầu xin ơn tha tội cho mọi người hết thảy.
Xếp đặt vị trí xong, tác giả Luca lần lượt cho chúng ta thấy thái độ của mọi hạng người... Trước hết có dân. Họ đứng nhìn. Luca có cảm tình với họ. Ông không coi họ là đám dân chúng đã la ó xin đóng đinh Ðức Giêsu. Ông gọi họ là dân để tỏ ý coi họ như dân Chúa, dân mà Chúa muốn cứu vớt và tha thứ tội. Họ đứng nhìn để xem công việc của Thiên Chúa. Họ thấy gì?
Các đầu mục thì nhạo báng mà rằng: nó đã cứu những ai khác, thì nó hãy cứu lấy mình nếu nó là Ðức Kitô của Thiên Chúa, Ðấng đã được chọn. Họ tỏ ra thông thái, nhưng thật ra sự thông thái này lại lên án họ vì đó là sự thông thái mù tối. Họ biết Ðức Giêsu đã cứu chữa nhiều người.
Ðó là dấu sức mạnh của Thiên Chúa đậu ở nơi Người. Người thật là Ðấng Kitô, là vị được Thiên Chúa chọn. Lẽ ra họ phải bắt chước các đầu mục Israel ngày xưa khi biết Thiên Chúa đã chọn Ðavít thì đến công nhận vương quyền của ông. Ðàng này họ chưa coi việc Ðức Giêsu cứu vớt những người khác là dấu hiệu chắc chắn. Họ muốn Người cứu chính mình nữa và coi hành vi này mới có giá trị quyết định. Họ đúng là kẻ thông thái mù quáng, khôn ngoan theo lẽ thế gian xét mọi việc không ở dưới khía cạnh bác ái và cứu thế nhưng theo mức độ ích kỷ và vinh thân. Vì hẹp hòi và xấu bụng, họ không ngờ đã muốn cho vị hoàng đế của dân Chúa cũng phải như họ là ích kỷ và trước hết phải lo cho bản thân mình. Họ không xứng đáng với Ðức Giêsu.
Hạng người thứ ba cũng giống như họ. Ðó là lính tráng, những người Rôma đến cai trị Do Thái. Họ tiêu biểu cho lương dân ở dưới chân thập giá Ðức Giêsu. Họ không thể có suy nghĩ cao thượng hơn các đầu mục Do Thái. Họ muốn rằng: nếu là vua Do Thái, thì Người phải cứu lấy mình. Tâm tư của hai hạng người trên, của cả Do Thái lẫn lương dân, được phụ họa đúc kết và vọng lên một cách mãnh liệt trong lời mắng nhiếc của một trong hai kẻ gian phi: "Phải chăng mày là Kitô, hãy cứu lấy mình và chúng ta với".
Ðó là lời thách thức ghê tởm. Nó bộc lộ luận lý khôn ngoan của loài người tội lỗi. Phải nghĩ đến mình trước rồi mới đến người khác. Còn đâu ý nghĩa phục vụ? Câu "mục tử tốt thí mạng vì đàn chiên" còn ý nghĩa nào nữa? Và những câu như: "Ai tìm sự sống mình thì sẽ mất" bây giờ ở đâu? Người ta chưa hiểu Ðức Giêsu. Người ta quên hình ảnh Vua Ðavít chịu oan uổng trong đền vua Saulê. Người ta không nhớ các lời tiên tri nói về Người Tôi Tớ đau khổ sẽ thống trị. Bao nhiêu lời Kinh Thánh báo trước về vua thiên sai, vua hòa bình, vua cứu thế dường như đã vô ích hoàn toàn.
Không, tiếng nói của kẻ tội lỗi to thật, dữ thật, nhưng không phải là tiếng nói cuối cùng. Kẻ gian phi bị treo ở phía bên kia đã lên tiếng: "Mày không kính sợ Thiên Chúa sao, ngay lúc mày cũng mắc đồng một án?" Nghĩa là đây là lúc để nhớ đến Thiên Chúa và kính sợ Người, lúc người ta gặp hoạn nạn, đau thương và nhất là sắp chết. Không được lăng mạ, lộng ngôn hay nói lời nào hư hốt nữa. Phải có tình liên đới, phải biết nhận lỗi mình và cầu xin ơn tha thứ. Thế nên, người ấy đã nói tiếp: chúng ta đáng tội, nhưng, Người không hề làm điều gì trái.
Vì sau người ấy đã nói được như vậy? Vì đã có giờ quan sát Người trên đường thập giá hay vì từ nãy đến giờ đã nghe lời những hạng người kia. Họ trách mắng Người, nhưng bao giờ cũng để hở ra những tư tưởng thật đáng suy nghĩ. Tất cả đều đã mở miệng bằng những câu: nếu là Kitô, nếu là Ðấng Thiên Chúa chọn, nếu là vua Do Thái..., vì sao lại nghi vấn như thế? Và hết thảy đều đã tha thiết muốn thấy ơn cứu độ, nên đã nói: hãy cứu lấy mình, hãy cứu lấy chúng ta nữa.
Chúng ta không dám quyết người kia đã có thể suy nghĩ như vậy để có thể làm một bước "liều" mà đa số những người kia chưa gần sự chết và chưa thấy khẩn trương cầu ơn cứu độ nên đã không làm được. Còn người này, giống như Pascal nói, có liều cũng chỉ có lợi chứ không thiệt gì. Nên y đã liều tin Ðức Giêsu là công chính và đã diễn tả niềm tin dấn thân ấy trong câu: Lạy Ðức Giêsu, xin nhớ đến tôi khi Ngài đến trong Nước của Ngài: Y trông cậy sự bảo hộ, chiếu cố của Người một cách thật cảm động và thành khẩn. Và Ðức Giêsu đã nói với người ấy: "Quả thật, Ta bảo ngươi: hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng làm một với Ta".
Ðây không phải là lời lẽ của chính Thiên Chúa ư? Ðã bao lần trong cuộc sống, khi lấy uy tín của Thiên Chúa để giảng dạy, Ðức Giêsu đã bắt đầu tuyên bố bằng câu: "Quả thật, Ta bảo các ngươi". Người tuyên bố bình thản, chắc chắn. Người nói là làm, nên mới có chữ: "hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng làm một với Ta". Người dùng kiểu nói: "ở trên thiên đàng làm một với Người" để đáp lại lời xin được Người nhớ đến khi Người đến trong Nước của Người, khiến chúng ta thấy lòng quảng đại của Người vượt quá lời xin của Người kia. Anh ta chỉ xin Người nhớ đến anh; nhưng Người đã cho anh ở làm một với Người. Anh chẳng hiểu rõ Nước của Người là gì; nhưng Người đã cho anh biết đó là thiên đàng nơi người công chính được hưởng hạnh phúc của Thiên Chúa.
Vậy, Ðức Giêsu thật là vua. Người làm vua trên thánh giá, tức là trong hành vi trở thành của lễ đền tội mọi người. Ai không bỏ mình mà tin Người thì không được cứu độ. Còn ai kính sợ Thiên Chúa mà tin thì được đưa vào Nước của Người. Người thực hiện các lời tiên tri về vua thiên sai, vua hòa bình, vua cứu thế quá sự chờ mong của mọi người, vì trên thánh giá, không những Người là Vua mục tử hơn Ðavít mà còn là Người Tôi Tớ đau thương của Thiên Chúa sẽ thống trị địa cầu.
Tuy nhiên thành thật mà nói bài Tin Mừng của Luca chưa nói hết mọi khía cạnh về việc Chúa Kitô làm vua đâu. Còn một khía cạnh rất quan trọng phải đi đôi với khía cạnh cứu chuộc mà Luca chưa nói và không có điều kiện để nói ở đoạn văn này... Bài thư Phaolô hôm nay bổ khuyết cho chúng ta.

3. Ðức Giêsu Là Ðệ Nhất Vô Song
Phần lớn đây là một khúc trong ca vãn về Chúa Kitô. Phaolô viết gởi giáo dân Colôsê đang bị dao động về đức tin. Có nhiều người đến nói với họ rằng: Chúa Kitô không phải là đệ nhất vô song đâu? Còn có các thiên phủ, ông sao này, ông sao kia; và còn có nhiều bậc tiên tri và giáo chủ khác. Phaolô nói với giáo dân Colôsê, đừng tin những chuyện nhảm nhí ấy; và hãy tạ ơn Thiên Chúa đã kéo chúng ta ra khỏi quyền lực tối tăm và chuyển chúng ta vào Nước của Con chí ái Người. Rồi Phaolô làm chứng Ðức Kitô là vua vì vừa sáng tạo vừa cứu chuộc.
Chúng ta không cần nhấn mạnh lý lẽ sau vì hai bài Kinh Thánh trên đã cho thấy Ðức Giêsu là vua trong mầu nhiệm cứu thế, gỡ dân ra khỏi tội lỗi. Ở đây chúng ta chỉ cần nhớ: Phaolô chú ý đến việc phục sinh. Chính mầu nhiệm sống lại đã làm Ðức Giêsu trở thành trưởng tử giữa các vong nhân để ai theo Người và nhận sự lãnh đạo của Người và sẽ được Người cho khỏi chết trong tội lỗi mà được sống lại trong ân sủng.
Nhưng ở đây chúng ta phải để ý nhất là đến địa vị của Ðức Giêsu là trưởng tử giữa mọi thụ sinh. Thực tế Người đã không sinh ra trước hết mọi loài đâu. Người là con vua Ðavít mà! Nhưng tuy đã không sinh ra trước hết, Người vẫn là trưởng tử giữa mọi thụ sinh, vì mọi sự đều được tạo thành nhờ Người và cho Người. Không những Người là lý do để Thiên Chúa dựng nên tất cả, như Thiên Chúa đã dựng nên vạn vật vì con người, và con người Adong cũng chỉ là hình ảnh của con người Giêsu Kitô; nhưng hơn nữa chính trong Người mà vạn vật được tác thành, dù là thiên tòa, thiên phủ... Như vậy tất cả đều là của Người, Người là vua vũ trụ. Vạn vật là chiên của Người. Những chiên này vì tội lỗi đã xa lạc, Người đã thí mạng để chuộc chúng lại và làm vua chúng một lần nữa sau khi đã là vua chúng vì đã tạo dựng nên chúng.
Chúng ta và thụ tạo ngày nay chỉ có thể lại được sự sống của Người khi chấp nhận lễ hy sinh của Người là mục tử tốt ở nơi thập giá... Chính Người đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng ta nơi bàn tiệc thánh thể. Ở đây nếu chúng ta có lòng thống hối ăn năn và cầu xin tin tưởng như "người trộm lành", chúng ta sẽ được ân sủng của Người, được chính Người cho ta được làm một với Người, để Người là Ðầu của thân thể ta, giúp ta thánh hóa thêm tâm hồn và đời sống, làm cho ảnh hưởng và Nước Người lan rộng thêm. Ðó là mục tiêu chúng ta phải nhắm tới trong ngày lễ Chúa Kitô Vua hôm nay.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)



Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 34 Thường Niên CLễ Chúa Kitô Làm Vua
Bài đọc2 Sam 5:1-3; Col 1:12-20; Lk 23:35-43.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chỉ có Đức Kitô xứng đáng làm Vua các tín hữu.
Con người muốn có một vị vua tài đức vẹn toàn để xét xử công minh và cai trị dân chúng trong công bằng và thương yêu; nhưng họ không tìm được một vị vua nào lý tưởng như thế trên trần gian này. May mắn cho con người, Thiên Chúa đã sửa soạn sẵn cho con người một vị Vua uy quyền và tài đức để cai trị con người suốt đời ngay từ đầu của lịch sử Cứu Độ.
Các bài đọc hôm nay giới thiệu cho con người vương quốc lý tưởng của Đức Kitô trên trời. Trong bài đọc I, vua David được coi là vị vua lý tưởng nhất của người Do-thái, vì vua có khả năng qui tụ tất cả 12 chi tộc Israel, thống nhất lãnh thổ và mở mang bờ cõi. Người Do-thái vẫn hằng mong có một vị anh quân như thế xuất hiện để làm vua cai trị họ. Trong bài đọc II, tác giả Thư Colossae cung cấp những suy tư thần học về vương vị và vương quốc của Đức Kitô và những đặc quyền các tín hữu được hưởng qua cái chết và sự sống lại của Vua Kitô. Chính Ngài đã giải thoát dân Ngài khỏi nô lệ của tội và quyền lực của ma quỉ, mang họ vào vương quốc đầy ánh sáng, và làm Vua cai trị họ muôn đời. Trong Phúc Âm, Đức Kitô chiến thắng tội lỗi và sự chết bằng cái chết khổ nhục trên Thập Giá và sẵn sàng tiếp nhận vào vương quốc những ai nhận ra và tin tưởng vào vương quyền của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chúng tôi đây là cốt nhục của Ngài, xin Ngài hãy làm Vua cai trị chúng tôi.
1.1/ David được xức dầu tấn phong làm vua Israel.
Sau thời các Thủ Lãnh, các kỳ mục tập họp và đến cùng ngôn sứ Samuel để xin ông cho họ có một vị vua như các nước láng giềng để cai trị và dẫn đầu ra nghinh chiến mỗi khi có chiến tranh. Ông Samuel rất buồn, vì làm như thế là chống lại uy quyền làm vua của Thiên Chúa. Sau khi tham khảo với Thiên Chúa và báo trước cho dân biết những điều thiệt hại họ phải chịu khi có một vị vua con người, ông đã xức dầu phong vương cho Saul là vị vua đầu tiên của Israel; nhưng Saul đã không đẹp lòng Thiên Chúa. Ngài truyền cho Samuel đến nhà ông Jesse tại Bethlehem để xức dầu phong vương cho David, người con út đang chăn chiên ngoài đồng.
Khi David được tiên tri Samuel xức dầu làm vua, ông chỉ cai trị 3 chi tộc miền Nam là Ephraim, Judah, và Benjamin. David cai trị họ trong 7 năm tại Hebron. Vua David là một người biết kính sợ Đức Chúa, có tài quân sự, chinh phục được thành Jerusalem nổi tiếng là không thể tấn công, có tài lãnh đạo và cai trị dân chúng. Khi các chi tộc khác nghe tiếng vua David, toàn thể các chi tộc Israel đến gặp vua David tại Hebron và thưa: “Chúng tôi đây là cốt nhục (xương và thịt) của ngài. Ngay cả trước kia, khi ông Saul làm vua cai trị chúng tôi, chính ngài đã chỉ huy các cuộc hành quân của Israel. Đức Chúa đã phán với ngài: “Chính ngươi sẽ chăn dắt Israel, dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Israel.””
Vua David lập giao ước với họ tại Hebron, trước nhan Đức Chúa. Rồi họ xức dầu tấn phong David làm vua Israel. Chỉ trong thời vua David, toàn thể chi tộc Israel đoàn tụ và liên kết với nhau để mở mang bờ cõi. Đối với những người Do-thái, họ vẫn coi vua David là vị vua lý tưởng, và triều đại của David được coi như thời hoàng kim của dân tộc Israel. Vua David chọn Jerusalem làm kinh đô của vương quốc mới, Israel và Judah.
1.2/ Đức Kitô là Vua theo dòng dõi của David: Sau triều đại của David, vương quốc bị chia đôi vào cuối thời vua Solomon, và bắt đầu xuống dốc từ đó. Người Do-thái vẫn mong chờ có một vị vua theo phong cách của David để làm vua cai trị họ.
Các ngôn sứ đã loan báo và Thánh Vịnh đã nhiều lần nhắc tới Đấng Thiên Sai sẽ xuất thân từ dòng tộc David. Ngài sẽ đến để liên kết 12 chi tộc của Israel và sẽ làm vua cai trị họ đến muôn đời. Triều đại của Ngài sẽ vô cùng vô tận. Các ngôn sứ cũng tiên báo Đấng Thiên Sai không chỉ làm vua dân Do-thái, nhưng còn tất cả mọi dân tộc trên địa cầu. Jerusalem được chọn để trở thành nơi mà Đấng Thiên Sai sẽ tập họp các dân tộc.
2/ Bài đọc II: Quyền lực và vương quốc của Đức Kitô.
2.1/ Đức Kitô đến để giải thoát dân Ngài: Theo thói quen của người xưa, sau khi chiến thắng, nhà vua có quyền đem mọi người bị đánh bại về vương quốc của mình. Đó là lý do tại sao dân Do-thái miền Bắc bị bắt lưu đày qua Assyria vào năm 721 BC, và miền Nam bị bắt lưu đày qua Babylon năm 587 BC. Tác giả Thư Colossae cũng áp dụng thói quen này vào chiến thắng của Đức Kitô. Ngài đã giải thoát các tín hữu:
(1) Từ chốn tối tăm đến nơi đầy ánh sáng: Sống trong thế gian, con người bị bao vây bởi mọi thứ bóng tối là những hiểu biết sai lầm. Đức Kitô là ánh sáng, Ngài đến để chiếu sáng con người bằng cách mang sự thật và những mặc khải của Thiên Chúa.
(2) Từ chỗ nô lệ đến chỗ tự do: Con người phạm tội và làm nô lệ cho tội lỗi và sự chết. Đức Kitô đến để giải thoát con người khỏi quyền lực của tội lỗi và dẫn đưa chúng ta vào vương quốc vinh hiển và muôn đời của Ngài.
(3) Từ chỗ bị luận phạt vì tội lỗi đến chỗ được hòa giải: Phạm tội là phải đền tội. Đức Kitô đến để gánh tội cho con người và hòa giải con người với Thiên Chúa; vì thế, “trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi.”
(4) Từ vương quốc của Satan đến vương quốc của Đức Kitô: Trước khi Đức Kitô đến, Satan thống trị thế giới con người. Đức Kitô đến đánh bại tội lỗi và sự chết là quyền lực của Satan để đưa con người vào vương quốc của Ngài trên trời.
2.2/ Tương quan giữa Vua Kitô và các tín hữu: Có một ý nghĩa rất thâm sâu trong mối tương quan giữa Vua Kitô và các tín hữu mà tác giả Thư Colossae đã cung cấp chất liệu cho chúng ta suy tư, chứ không chỉ dừng lại ở mức độ tương quan bên ngoài như vua và dân.
(1) Đức Kitô là Lời của Thiên Chúa, nhờ Ngài mà toàn thể vũ trụ được tạo thành: Đây là quan niệm mà các Sách Khôn Ngoan (Pro, Wis, Bar) và Gioan (Prolog) khai triển. Đức Kitô là Thiên Chúa. Ngài là Vua không phải chỉ của con người mà còn là Vua vũ trụ. Tất cả quyền lực trên trời hay dưới đất, hữu hình hay vô hình, đều tùy thuộc vào uy quyền của Ngài. Thư Colossae diễn tả bằng những lời như sau: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người.” Con người phải nhận Đức Kitô là Vua vì họ được Ngài dựng nên, là “huyết nhục” của Ngài.
(2) Đức Kitô gìn giữ muôn vật được tồn tại: Ngài không chỉ là nguyên do tạo thành, Ngài còn là nguyên do tồn tại. “Tất cả đều tồn tại trong Người.” Các tín hữu được tồn tại bằng các ơn thánh Đức Kitô đã thiết lập qua các bí tích: “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh.” Lẽ ra con người bị hủy diệt vì tội lỗi của họ; nhưng Đức Kitô đã tình nguyện hy sinh chịu chết để gánh lấy tội lỗi cho con người, vì thế, con người không bị hủy diệt.
(3) Đức Kitô làm cho con người và muôn loài tìm được cùng đích của mình: Ngài đã phục sinh khải hoàn. Ngài là Trưởng Tử trong số những người từ cõi chết sống lại, và con người sau khi đã hòa giải với Thiên Chúa, cũng được đưa vào vương quốc của Đức Kitô để được Người làm Vua cai trị muôn đời.
(4) Ngài không chỉ cai trị thân xác, nhưng còn trong tâm hồn con người: Để vương quốc thực sự có bình an, không phải chỉ cần vua tài đức thương yêu, mà còn cần dân chúng biết vâng lời và thương yêu nữa. Không vị vua loài người nào có thể cai trị trong tâm hồn con người, chỉ có Đức Kitô có uy quyền làm việc đó. Ngài phải cai trị cả tâm hồn thì vương quốc của Ngài mới là vương quốc của bình an và yêu thương được.
Nói tóm, chỉ một mình Đức Kitô vừa là Vua vừa là Chúa của muôn loài mới hội đủ tất cả đặc tính của một anh quân để cai trị con người muôn đời mà thôi.
3/ Phúc Âm: “Đây là vua người Do-thái.”
3.1/ Đức Kitô chọn con đường đau khổ làm Vua qua để giải thoát dân: Có hai điều trong trình thuật hôm nay tuy con người không muốn; nhưng sự quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa để cho xảy ra như vậy.
(1) Đức Kitô làm Vua người Do-thái: Bản án trên đầu Chúa Giêsu viết bằng ba thứ tiếng: Latin, Do-thái và Hy-lạp. Làm sao một tử tội chết khổ nhục như thế có thể trở thành vua của người Do-thái? Đó là lý do các nhà lãnh đạo của người Do-thái khiếu nại: Xin đừng viết “Đây là vua người Do-thái;” nhưng hãy viết “Người này tự xưng mình là vua người Do-thái.” Vua Herode trả lời: “Điều gì ta đã viết là đã viết.”
(2) Đức Kitô giải thoát con người khỏi quyền lực thần chết: Để cứu muôn người khỏi tội và khỏi chết, Đức Kitô phải cứu chính Ngài. Quân lính, dân chúng, và thủ lãnh chế nhạo và thách thức Chúa Giêsu hãy cứu chính mình trước để họ tin. Họ không thể ngờ Thiên Chúa sẽ giải thoát Ngài khỏi cái chết bằng cách cho Ngài được phục sinh vinh hiển.
3.2/ Vương quốc của Đức Kitô chỉ dành cho những ai nhận ra và tin vào Ngài: Đây là điều kiện duy nhất phải có để được làm công dân của Đức Kitô. Chỉ trong trình thuật của Lucas, chúng ta có câu truyện con người lựa chọn phần thưởng hay bản án cho chính mình dưới chân Thập Giá.
(1) Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!”
Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do-thái thì cứu lấy mình đi!” Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!”
(2) Lời hứa cho anh trộm “lành:” Nhưng tên kia mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” Đức Kitô có thể hứa câu: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” cho bất cứ ai đặt niềm tin tưởng tuyệt đối vào Ngài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chỉ có Vua Kitô xứng đáng cai trị, vì Ngài đã dựng nên, cứu chuộc, đưa vào vương quốc và làm chủ tâm hồn các tín hữu. Trong vương quốc của Đức Kitô, sẽ không còn đau khổ, không còn chết chóc, không còn bất công. Ngài sẽ cai trị chúng ta đời đời trong công bằng và thương yêu.
– Điều kiện duy nhất để làm công dân của Đức Kitô là hãy học hỏi để nhận ra và tin tưởng vào Ngài. Xin cho “Nước Cha trị đến” là một nguyện ước trong Kinh Lạy Cha mà chúng ta đọc hàng ngày. Điều này chỉ có thể hiện thực khi chúng ta làm cho mọi người tin vào Đức Kitô.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


24/11/2019 – CHÚA NHẬT TUẦN 34 TN – C
CHÚA KI-TÔ VUA VŨ TRỤ
Lc 23,35-43


VUA VŨ TRỤ, VUA CÁC VUA
Phía trên đầu Người, có bản viết: “Đây là vua người Do thái.”  (Lc 23,38)

Suy niệm: Suốt cuộc đời công khai, bao nhiêu lần dân chúng muốn tôn Đức Giê-su lên làm vua nhưng Người không chấp nhận (x. Ga 6,15), bởi quan niệm này pha trộn quá nhiều yếu tố trần tục. Chỉ khi tiến vào Giê-ru-sa-lem để chịu khổ nạn, Người mới để cho dân chúng tung hô Ngài là vua Ít-ra-en (x. Lc 19,39). Chỉ khi đứng trước Phi-la-tô, Người mới tuyên bố: “Tôi là Vua” (Ga 19,37). Và chỉ khi chịu treo trên thánh giá Người mới được công nhiên nhìn nhận: “Đây là Vua người Do thái.” Thật vậy, Đức Giê-su không nhận là vua của những kẻ nhằm trục lợi. Nhưng Người chính là vua thật, cho dù trút bỏ hết vinh quang hay uy quyền nơi hang đá Bê-lem, trên Thánh Giá hay trong Bí Tích Thánh Thể. Là vua, Người cho những ai tin vào Người được chia sẻ sứ mạng vương đế trong bí tích Rửa Tội. Vì thế Người là Vua trên các vua.
Mời Bạn: Ơn cứu độ mà Vua Ki-tô mang đến không nhằm gỡ nhân loại ra khỏi thập giá, nhưng là ban ơn và đồng hành với mỗi người hầu giúp họ vác thập giá của mình hằng ngày. Nhìn gương “người trộm lành”, chúng ta biết phải xin gì khi đối diện với thập giá đời mình.
Chia sẻ: Một thực trạng đau lòng: nhu cầu vật chất của con người càng được thoả mãn thì nguy cơ con người sống xa rời đức tin càng cao. Bạn làm gì để vượt qua được thách đố sống mầu nhiệm thập giá giữa thời đại hưởng thụ duy vật này?
Sống Lời Chúa: Tiếp tục dâng những hy sinh để cầu nguyện cho các đẳng linh hồn.
Cầu nguyện: Lạy Vua Ki-tô, xin cho con biết đi vào Nước Ngài bằng cách vác thập giá mỗi ngày của đời con. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)


Xin nhớ đến tôi (24.11.2019 – Chúa Nhật 34 TN, năm C - Đức Giêsu Kitô Vua vũ trụ)

Suy niệm:


“Ðáng lẽ tôi đã được rửa tội từ lâu,
nhưng vì vấn đề gia đình và làng xóm nên chưa được.
Dù vậy tôi rất ư là kitô hữu.”
Ðó là lời của nhạc sĩ Văn Cao
trong một cuộc gặp gỡ riêng tư năm 1990.
Cụ đã sung sướng khoe với mọi người như thế,
và thẳng thắn nhìn nhận: “Chúng tôi đã được đào tạo,
nhờ đức tin và âm nhạc kitô giáo.”
“Chúng tôi” ở đây muốn ám chỉ
giới trí thức và văn nghệ sĩ thế hệ của cụ.
Ðức tin đã thấm vào con người tài hoa ấy,
và làm sản sinh những tác phẩm bất hủ.
“Nếu tôi không hiểu Alêluia là gì,
thì đã chẳng có bài “Làng tôi”, cụ bảo vậy.
Chẳng ai ngờ Văn Cao lại là con người say mê Giêsu,
mà là Giêsu trên thánh giá.
Từ năm 1954, cụ vẫn treo một thánh giá trước mặt.
Giêsu trần trụi, Giêsu không còn gì.
Nhưng đối với Văn Cao, có ai hơn Giêsu?
Bài Tin Mừng trong lễ Chúa Giêsu Vua vũ trụ
lại đưa ta về với Chúa Giêsu trên thập giá.
Chẳng lúc nào Chúa làm vua rõ bằng lúc này.
“Ðây là vua người Do thái”, tấm bảng ghi như thế.
Nhưng kiểu làm vua của Ngài thật khác thường.
Không có vương miện, chỉ có vòng gai.
Không có cẩm bào, chỉ có trần trụi nhơ nhuốc.
Không có câu tán tụng, chỉ có lời nhạo báng khinh chê.
Bị treo trên thập giá, Ðức Giêsu nghe những lời mời mọc,
ngọt ngào và tinh vi như các cơn cám dỗ buổi đầu.
“Nếu ông là Ðức Kitô thì hãy cứu lấy mình.
Hãy xuống khỏi thập giá” (Mt 27,40).
Cứu lấy mình là điều Ngài chẳng hề nghĩ đến.
Chính vì Ngài thật là Con của Cha,
nên Ngài không tự ý xuống khỏi thập giá
như xưa Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc Ðền Thờ.
Ðức Giêsu không muốn chúng ta tin Ngài
vì những màn trình diễn ngoạn mục.
Ngài muốn chúng ta tin, vì Ngài đã buông mình cho Cha,
đón nhận cái chết với niềm vâng phục tín thác.
Chính vào lúc hấp hối, mọi sự tưởng như sụp đổ,
vị Vua bị đóng đinh lại hé lộ vương quyền của mình
cho anh trộm lành có lòng thống hối, tin tưởng.
“Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Ðàng.”
Như thế kẻ gian phi lại là người đầu tiên
được ơn cứu độ nhờ cái chết thập giá của Ðức Giêsu.
Mừng lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ,
chúng ta muốn khước từ những thần tượng giả mạo,
muốn để Ngài làm vua của vũ trụ lòng mình.
Chúng ta muốn đưa Ngài đi vào mọi lãnh vực cuộc sống:
văn chương, khoa học, nghệ thuật, kinh tế, chính trị, xã hội...
Cần có đức tin mạnh mẽ mới thấy Chúa Giêsu
vẫn không ngừng lôi kéo cả thế giới về với Ngài
bằng trăm ngàn nẻo đường bất ngờ,
trong đó có nẻo đường của cụ Văn Cao và anh trộm lành.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, Vua vũ trụ,
nếu Chúa là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục,
nếu Chúa là vua của hơn tám trăm ngàn nữ tu,
nếu Chúa là vua của một tỉ người công giáo,
thì thế giới này sẽ đổi khác,
Hội Thánh sẽ đổi khác.

Chúng con không phải là một lượng men quá nhỏ.
Nếu khối bột chẳng được dậy lên,
thì là vì men đã mất phẩm chất.

Chúng con phải chịu trách nhiệm
về sự dữ trên địa cầu:
có nhiều sự dữ do chính chúng con gây ra.

Chúng con chỉ kêu cầu cho Nước Chúa mau đến,
nhưng lại không chịu xây dựng Nước ấy trên trần gian.

Lạy Chúa Giêsu Vua vũ trụ,
chúng con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa,
giữ chặt Chúa ở trong nhà thờ,
nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa,
dù Chúa đã đến trái đất này từ 2000 năm.

Chúng con sợ Chúa đến làm phiền chúng con,
và không cho chúng con được yên ổn.
Ước gì một tỉ người công giáo
chịu để Chúa chi phối đời mình
và đưa Chúa đi vào những nơi Chúa chưa hề đến.
Như thế vũ trụ này
trở thành vũ trụ của Thiên Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
24 THÁNG MƯỜI MỘT
Hòa Bình, Hoa Trái Của Sự Chuyển Hóa Nội Tâm
Chính Thiên Chúa là Đấng biến đổi trái tim con người, như Ngôn Sứ Eâdêkien đã diễn tả hùng hồn: “Ta sẽ ban cho các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi, và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt” (Ed 36,26). Giáo Hội không ngừng công bố sự thật rằng hòa bình thế giới bắt rễ từ trong chính cõi lòng con người, từ trong lương tâm của mọi con người.
Hòa bình chỉ có thể là hoa trái của một cuộc chuyển hóa nội tâm, bắt đầu trong lòng của mỗi người và lan tỏa ra trong mọi xã hội tới mọi cộng đồng. Cộng đồng thứ nhất trong các cộng đồng chính là gia đình. Gia đình là cộng đồng đầu tiên được mời gọi sống hòa bình và cũng là cộng đồng đầu tiên được mời gọi tranh thủ hòa bình và hữu nghị cho hết mọi người trên thế giới này.
Đó là lý do tại sao suy tư hôm nay của chúng ta về hòa bình được tập chú vào gia đình. Chúng ta hy vọng rằng trong các tế bào căn bản này của xã hội sẽ có một niềm khát vọng mãnh liệt được sống hòa bình và hữu nghị với mọi con người.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 24/11
Chúa Nhật XXXIV Thường Niên
Đức Giêsu Vua Vũ Trụ
2Sm 5, 1-3; Cl 1, 12-20; Lc 23, 35-43.

LỜI SUY NIỆM: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi. Và Người nói với anh ta: Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.”
          Chúa Nhật cuối năm phụng vụ, Giáo Hội mừng kính lễ Chúa Kitô vua vũ trụ với các bài đọc liên quan đến vai trò vua của Chúa Giêsu. Như trong Sách 2 Samuen: “Đức Chúa đã phán với ngài: chính ngươi sẽ chăn dắt Ítraen, dân Ta, chính ngươi sẽ là lãnh đạo Ítraen.”(2Sm 3,2); cũng như trong Côlôsê: “Nhờ máu Người đổ ra trên Thập Giá. Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời. Đặt biệt trong Tin Mừng trình bày: “Đức Giêsu bị nhục mạ” cho mỗi người trong chúng ta thấy được nơi Chúa Giêsu là vị Vua Tình Yêu.
          Lạy Chúa Giêsu. Xin cho chúng con có tâm tình của người tử tội bên hữu của Chúa, luôn nhận ra mình đang là kẻ tội lỗi, biết trông cậy vào tình thương của Chúa, mà kêu xin; đồng thời biết khuyên những người tội lỗi cạnh mình, hướng về Chúa, trông cậy vào lòng thương xót tha thứ của Chúa. Để được cứu độ.
Mạnh Phương


24 Tháng Mười Một
Ðây Bài Ca Nghìn Trùng

Ðây bài ca nghìn trùng! Vâng, đúng thế, từ dạo Ðức Giêsu gục đầu tắt thở trên thập giá, cuộc sống và cái chết của Ngài đã trở nên một bài ca nghìn trùng, một bản tình ca muôn thuở nói lên mối tình Thiên Chúa yêu thương nhân loại, được thể hiện qua cái chết tự ý thực tình của Ngài để sống trọn từng chữ lời mình tuyên bố:
“Không có Tình Yêu nào lớn hơn mối tình của người chết cho bạn hữu mình”. 
Ðây bài ca nghìn trùng! Vâng, đúng thế, bài ca nghìn trùng, bài ca muôn thuở của một cuộc đời sống cho tình yêu và một cái chết, chết cho cuộc tình. Vì thế, cuộc sống khó nghèo, khiêm tốn, lam lũ để dấn thân rao giảng Tin Mừng và cứu nhân độ thế của Ðức Giêsu phải kết thúc bằng cái chết tang thương, tất tưởi, cái chết đầy đau đớn, tủi nhục trên thập giá, để ngàn đời hai bàn tay bị đinh đâm thâu qua không thể nào nắm lại được nữa, nhưng muôn thuở một bàn tay luôn xòe ra như muốn nói: “Vâng, Con hoàn toàn yêu mến và vâng phục thánh ý Cha”, và bàn tay kia luôn mở rộng như muốn nói: “Vâng, Ta chọn tình thương yêu và sẵn sàng phục vụ mọi người cho đến khi đổ giọt máu cuối cùng”.
Ðây bài ca nghìn trùng! Vâng, đúng thế, bài ca nghìn trùng của cuộc sống dấn thân phục vụ được kết thúc trên thập giá để từ dạo ấy thập giá là biểu tượng cho một quy luật muôn thuở của Tin Mừng do Ðức Giêsu rao giảng: “Nếu hạt lúa gieo xuống đất không mục nát đi, nó cứ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó mục nát đi, nó sinh ra được nhiều hạt khác”.
Ðây bài ca nghìn trùng! Vâng, đúng thế, đây bài ca tình thương muôn thuở được sướng lên để chờ đợi những câu đáp trả. Ngày hôm nay, nhân ngày lễ mừng thánh Andrê Dũng Lạc và các bạn tử đạo, chúng ta hãy hân hoan dâng lên Thiên Chúa cuộc sống và cái chết vì đức tin, vì tình yêu của các bậc đàn anh, đàn chị, của chúng ta như những câu đáp lại điệp khúc bản tình ca của Chúa Giêsu: “Không có tình yêu nào lớn hơn mối tình của người chết cho bạn hữu mình”.
Một điểm son nổi bật nhất trong những thành tích vẻ vang chứng tỏ niềm tin sắt đá được các thánh tử đạo Việt Nam ghi vào những trang sử của Giáo Hội là: Lòng tôn kính thập giá.
Không hiểu vì lý do gì mà các vua quan Việt Nam thời đó đã dùng thập giá làm phương tiện để thách đố niềm tin của các vị tử đạo. Họ gọi đó là “Quá khóa” để dùng thập giá vạch ranh giới giữa cái sống và cái chết. Nhưng trăm ngàn hình khổ đã không làm cho các vị anh hùng đức tin Việt Nam tự ý bước qua thập giá, dấu hiệu của Ðấng đã rao giảng và đã thực hiện lời mình xác quyết: “Không có tình yêu nào lớn hơn mối tình của người chết cho bạn hữu mình”.
Không bước qua thập giá để chứng tỏ mình không chối bỏ đạo, không chối bỏ niềm tin vào Thiên Chúa, không chối bỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với mình dù phải chịu tan xương nát thịt, dù phải chịu kìm kẹp, giam cầm, dù phải chịu voi dày ngựa xéo, dù phải chịu đầu rơi máu đổ, các vị tử đạo Việt nam đã nêu gương đáp lại tình yêu của Ðấng chết treo trên thập giá để:
– Nợ máu, các ngài đã trả bằng máu.
– Nợ tình, các ngài đã trả bằng tình.
– Nợ mạng sống, các ngài đã trả bằng những cái đứnng lặng im, không qua khóa, nhưng cái đứng bất động này là những cử chỉ hùng hồn dẫn các ngài đến cái chết vì một niềm tin, chết cho một cuộc tình như Ðức Giêsu đã nêu gương.
(Lẽ Sống)




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét