Trang

Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2019

24-11-2019 : (phần II) CHÚA NHẬT XXXIV THƯỜNG NIÊN năm C - ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ


24/11/2019
 Chúa Nhật 34 Thường Niên năm C.
 ĐỨC GIÊSU KITÔ VUA VŨ TRỤ.
(phần II)


Phụng Vụ Lời Chúa: Chúa Nhật 34 Thường niên năm C - Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ
(2Sm 5,1-3; Cl 1,12-20; Lc 23,35-43)

ĐỨC GIÊSU KITÔ – VỊ VUA CHẾT CHO THẦN DÂN ĐƯỢC SỐNG
“Nếu ông là vua dân Do Thái thì hãy cứu lấy mình đi!” (Lc 23,37)

I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I (2Sm 5,1-3)
Các chi tộc Israel trải qua hàng thế kỷ vẫn chưa định hình cho mình một mô thức chính trị rõ ràng. Vì thế, một ngày nọ, họ xin cho họ có một vị vua. Bài đọc 1 của ngày lễ hôm nay trình bày cho chúng ta việc Đavít, vốn đã là vua tại Khépron, thì nay chấp nhận làm vua trên các chi tộc miền Bắc (Israel), và như thế, ông trở thành vua của mọi chi tộc cả ở Israel và Giuđa.
Nhưng chỉ không bao lâu sau đã xuất hiện những sự chống đối kịch liệt với nền quân chủ này trong Israel, nhất là từ phía các ngôn sứ, và như thế đã ứng nghiệm trước lời của Samuel, khi ông nhìn thấy qua việc dân chúng nài xin một vị vua sẽ có nguy cơ chối bỏ Giavê của họ (x. 1Sm 8,6-9). Cũng như các vị ngôn sứ sau này, Samuel đã mạnh mẽ xác quyết rằng dân Chúa không tôn thờ một vị thần minh của một quốc gia, như thần Baal của người Canaan hay thần Marduk của người Babylon, cũng không có chuyện các giai cấp xã hội giàu mạnh hơn bóc lột những người yếm thế. Việc chỉ trích chế độ quân chủ bắt nguồn từ việc xác tín rằng dân Chúa phải là một xã hội của những con người tự do và bình đẳng với nhau. Thế mà vua Đavít lại xây dựng cho mình một mô hình theo khuôn mẫu của một quốc gia trần thế, với binh lực hùng mạnh, áp đặt sưu cao thuế nặng và sự phân chia giai cấp giàu nghèo... Nhưng Kinh Thánh vẫn trung thành giữ vững lý tưởng về một cộng đoàn huynh đệ bình đẳng đúng theo bản chất là dân Thiên Chúa và chỉ nhìn nhận Giavê Thiên Chúa là Chúa của mình.
Ở đâu có con người trị vì, ở đó sẽ có võ lực và binh đao; ngược lại, nơi đâu có Thiên Chúa trị vì, trật tự xã hội và hòa bình sẽ trổ sinh và tiến triển khởi đi từ sâu thẳm trái tim con người.
2. Bài đọc II (Cl 1,12-20)
Đức Giêsu đã khai mở một triều đại mới và đã làm nổi bật giá trị một uy quyền mới. Thánh Phaolô gọi điều này là “vương quốc Thánh Tử chí ái”. Vương quốc của Đức Giêsu là vương quốc “giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm”, vì Người mang đến ánh sáng của chân lý Thiên Chúa. Uy quyền của Đức Giêsu không phải là một uy quyền đè bẹp hay giết chết kẻ thù, nhưng như là những hiệu quả của ơn cứu độ, Người đến mang lại ơn tha thứ tội lỗi, sự giao hòa với Thiên Chúa, và nhất là sự sống và phục sinh. Tất cả mọi uy quyền trần thế đều phải khuất phục dưới chân Người. Vì thế, với những ai tin vào Người, thì không thể không hiện hữu nơi Người, Đấng là đầu, là trưởng tử, là khởi nguyên của mọi sự.
Với thánh Phaolô, triều đại của Đức Giêsu là triều đại mà trong đó, mỗi người được mời gọi làm ‘vua’, nghĩa là đạt được một sự tự do trọn vẹn, và tự do này có được nhờ việc kết hợp với Đức Giêsu, Đấng toàn năng, uy quyền nhưng không tìm kiếm tư lợi cho mình. Người cai trị với phẩm tính duy nhất là nguồn mạch tận cùng của sự sống và mời gọi con người tháp nhập vào trong sự sống vĩnh cửu ấy.
3. Bài Tin Mừng (Lc 23,35-43)
Theo đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu bị đóng đinh và chịu sự nhục mạ phỉ báng với bảng hiệu “vua dân Do thái” được đính phía trên đầu Người. Làm sao có thể được xem là vua khi không thể tự cứu nổi bản thân mình? Đằng sau câu hỏi này giả định rằng một vị vua phải có khả năng tự bảo vệ và lo cho mình. Nhưng từ thập giá, chúng ta thấy rõ ràng là Chúa Giêsu không như các vị vua trần thế: Người không tự bảo vệ cho mình, cũng không có một đảng phái chính trị nào cứu Người. Chức vị vua của Đức Giêsu thể hiện duy nhất qua việc “hiến dâng mạng sống mình cho người khác” để họ được sống trong tự do và yêu thương.
Vì thế, tin Chúa Giêsu là vua có nghĩa là từ bỏ việc tìm kiếm lợi danh hay quyền uy trần thế, cũng như những sự phụ thuộc vào nó; tin Chúa Giêsu là vua còn có nghĩa bước vào trong vương quốc tự do của Người và dấn thân phục vụ và hy sinh cho người khác.
Cùng chịu đóng đinh với hai tên gian phi, Chúa Giêsu bị xem là kẻ thù nguy hiểm của quyền lực nhân loại và họ muốn loại bỏ Người ra khỏi xã hội. Nhưng Người là Đấng vô tội, “không làm điều gì trái”, vì thế, Người đại diện cho những điều tốt đẹp bị khinh miệt và bị chối từ trong thế giới hôm nay.
Tuy nhiên, cũng có cách thức để nhận ra Đức Giêsu là vua, đó là qua anh trộm lành. Anh này không xin Chúa bảo vệ mình trước cáo buộc nhân loại, nhưng tín thác vào uy quyền tốt lành của Chúa Giêsu: “Khi nào về nước Ngài xin nhớ đến tôi”. Không ai biết tại sao anh trộm lành kết cục cuộc đời mình trên thanh gỗ giá gần Chúa Giêsu. Có lẽ anh ta cũng có một chút uy quyền nào đó để làm hại người khác và rồi anh ta đã đụng phải một uy quyền mạnh hơn có khả năng kết án chết với anh. Giờ đây, anh hiểu rằng chỉ có uy quyền của Đức Giêsu mới không bóp nghẹt, kết án hay dẫn vào lối chết, nhưng uy quyền này mới là uy quyền dẫn vào đường sống.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. “Xin cho chúng tôi một vị vua”. Đó là lời kêu xin của dân Do Thái khi họ muốn tìm kiếm một vương quyền trần thế để rồi vương quyền đó chỉ mang lại cho họ những chia rẽ, bất công, bạo tàn và chết chóc. Cuộc đời tôi có bao giờ giống như những người Do Thái năm xưa, khi cũng muốn kiếm tìm những sức mạnh trần gian với những giá trị hão huyền của nó và cuối cùng bị rơi vào tâm thế lệ thuộc?
2. “Vương quốc Thánh Tử chí ái”. Thánh Phaolô hôm nay đã khai mở chúng ta về hình ảnh một vương quốc của Chúa Giêsu. Ngài không quảng diễn nó như là một thế giới xa lạ, thế giới bên kia, nhưng là một thực tại hiện hữu, trong đó, chúng ta được biến đổi và vì thế mà chúng ta cần phải cảm tạ Thiên Chúa. Là một thần dân trong vương quốc này, tôi được mời gọi điều gì để cho nước ấy “trị đến”?
3. “Vua dân Giuđa”. Với con mắt người đời, Đức Giêsu bị nhạo báng là một vị vua. Còn đối với tôi, Đức Giêsu là ai, Người có thật sự là vị vua? Và theo ý nghĩa nào? Là một môn đệ của Đức Giêsu, liệu tôi có can đảm trở thành ‘vua’ như Giêsu cho những anh chị em tôi?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa đã đến trần gian để thiết lập Nước Thiên Chúa. Qua cuộc tử nạn và phục sinh, Người đã hoàn tất ý định nhiệm mầu của Chúa Cha và được trao vương quyền trên muôn loài muôn vật. Chúng ta cùng cảm tạ chúc tụng Chúa và tin tưởng cầu xin.
1. Thiên Chúa đã muốn quy tụ muôn loài trong Đức Giêsu Kitô. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các vị chủ chăn cùng mọi thành phần Dân Chúa luôn cộng tác chặt chẽ với nhau, và có những sáng kiến phù hợp cho công cuộc loan báo Tin Mừng giữa thế giới hôm nay.
2. Trong xã hội hiện đại, nhiều người chọn tôn thờ tiền bạc của cải hơn là Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những ai đang mải mê chạy theo vật chất được ơn nhận biết chỉ có Vua Kitô mới đem lại hạnh phúc đích thực và vững bền cho con người.
3. Một tên trộm thưa với Chúa Giêsu: “Khi vào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho các tội nhân, cách riêng những Kitô hữu khô khan nguội lạnh, biết ý thức tình trạng lầm lạc của họ, thật lòng ăn năn thống hối và sớm trở về cùng tình yêu Chúa.
4. “Ngay hôm nay, anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết hết lòng phụng sự Thiên Chúa và tận tâm phục vụ mọi người, để ngày sau xứng đáng chung hưởng phần thưởng Nước Trời mà Chúa hứa ban.
Chủ tế: Lạy Chúa Kitô là vua vũ trụ và là vua từng người chúng con. Xin nhận lời chúng con cầu nguyện và ban Thánh Thần, giúp chúng con luôn can đảm làm chứng cho Chúa bằng một đời sống thấm nhuần công bình bác ái, hầu làm cho nhiều người nhận biết và quy phục vương quyền Chúa. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.


CHÚA NHẬT LỄ CHÚA GIÊSU LÀ VUA NĂM C
Chủ đề :
Chúa Giêsu là Vua
Vua Giêsu trên Thập giá


(Lc 23,35-43)
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I : Vua Đavít là hình ảnh Chúa Giêsu là Vua.
– Tin Mừng : Lúc Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá chính là lúc Ngài lên ngôi làm vua, ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người.
– Bài đọc II : Chúa Giêsu được Thiên Chúa đặt làm vua của hết mọi loài trên trời dưới đất.
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Hôm nay là Chúa nhựt cuối cùng của năm phụng vụ. Lời Chúa vạch cho chúng ta thấy lúc tận cùng của thời gian Chúa Giêsu sẽ làm vua ngự trị trên toàn thể mọi sự và mọi người. Nhưng từ nay cho đến lúc đó, Chúa vẫn làm vua trong lòng những người tin cậy và yêu mến Ngài.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta nhận thức vị trí và vai trò làm vua của Chúa trên cuộc đời chúng ta, đồng thời xin Chúa cũng giúp chúng ta phụng thờ Ngài cho xứng đáng.
II. Gợi ý sám hối
– Chúng ta đã tôn thờ những “vua” khác không phải là Chúa, như tiền bạc, danh vọng, lạc thú v.v.
– Chúng ta không sống theo sự dẫn dắt của Chúa.
– Chúng ta không sống theo luật của Nước Chúa là luật yêu thương.
III. Lời Chúa
  1. Bài đọc I (2 Sm 5,1-3)
Đoạn này thuật cuộc phong vương lần thứ hai cho Đavít. Cần nhớ rằng sau khi Vua Saun chết, các chi tộc miền Nam đã phong Đavít làm vua của họ. Một thời gian sau, vì mến mộ tài đức của Đavít nên các chi tộc miền Bắc cũng phong Đavít làm vua họ nữa. Như thế là đất nước thống nhất dưới quyền lãnh đạo một vị vua duy nhất.
Trong biến cố này, Thiên Chúa cũng lên tiếng. Ngài nói với Đavít : “Chính ngươi sẽ chăn dắt Israel, dân của Ta“. Câu này rất ý nghĩa : vua Đavít chỉ là “người chăn dắt” dân “của Thiên Chúa”. Chính Thiên Chúa mới là Vua thật của “dân Ngài”.
2.                  Đáp ca (Tv 121)
Đây là một ca khúc lên đền, nghĩa là ca khúc mà những người hành hương hát khi họ tiến đến gần đền thờ Giêrusalem.
Tuy những người hành hương tiến đến nơi có đặt “ngai vàng của vương triều Đavít”, nhưng họ ý thức rằng họ là những “chi tộc của Chúa” vì chính Chúa mới là vua thật của họ.
3.                  Tin Mừng (Lc 23,35-43)
Đoạn Tin Mừng này mô tả cảnh Chúa Giêsu trên thập giá :
– Phía dưới thập giá, dân chúng “đứng nhìn” cách bàng quan như không liên can gì đến mình, các thủ lãnh do thái thì chế nhạo “Hắn đã cứu người khác thì hãy cứu lấy mình đi nếu thật hắn là Đấng Kitô”, lính tráng cũng chế diễu “Nếu ông là vua dân do thái thì hãy cứu lấy mình đi”.
– Trên đầu Ngài có bảng viết “Đây là vua người do thái”
– Bên cạnh Ngài có hai tên gian phi : một tên hùa theo đám người phía dưới để chế diễu Ngài ; tên kia công nhận Ngài là vua nên nói với Ngài “Khi ngài vào Nước của Ngài thì xin nhớ đến tôi”.
Nghĩa là : thánh Luca đã cố ý trình bày Chúa Giêsu trên thập giá như một vị vua đang ngự trên ngai của mình. Nhưng đa số những người ở dưới và bên cạnh, vì đã quá quen với hình ảnh một ông vua trần gian nên chẳng những không nhận ra Ngài mà còn chế nhạo Ngài.
4.                  Bài đọc II (Cl 1,12-20)
Thánh Phaolô trích dẫn một bài thánh thi trình bày địa vị của Chúa Giêsu Kitô :
– Đối với Thiên Chúa : Chúa Giêsu là hình ảnh của Thiên Chúa.
– Đối với công trình sáng tạo : nhờ Chúa Giêsu mà muôn vật được tạo thành.
– Đối với công trình cứu độ : nhờ cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá mà mọi người được giao hòa lại với Thiên Chúa.
Như thế, Chúa Giêsu là Vua tối cao trên toàn thể vũ trụ.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Nguồn gốc và ý nghĩa Lễ Chúa Giêsu là Vua
Một triết gia đã đưa ra một nhận định rất bi quan : “Homo homini lupus” : con người là lang sói của con người. Lang sói là một loài thu dữ, bản tính thích tấn công, cắn xé và giết chóc. Thế mà loài người lại giống với loài thú dữ đó, luôn luôn tấn công nhau, cấu xé và giết chóc nhau.
Bởi vậy một sử gia đã đưa ra một kết luận tương tự với nhận định bi quan của triết gia trên : lịch sử loài người là một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp nhau. Từ khi có loài người trên mặt đất này cho đến nay, có mấy khi mà loài người được hưởng thái bình ? Hầu hết thời gian lịch sử của loài người đều là chiến tranh. Gần đây nhất là 2 cuộc thế giới đại chiến, cuộc thứ nhất kéo dài từ năm 1914 đến 1918, làm cho 8.700.000 người chết ; cuộc thứ hai từ năm 1939 đến năm 1945, giết chết thêm 40 triệu sinh mạng nữa. Và hiện nay cả loài người đều phập phòng lo sợ sẽ xảy ra một cuộc đại chiến lần thứ 3 với những vũ khí hạt nhân. Lần này không phải chỉ có 8.700.000 người chết, hay 40 triệu người chết mà là tất cả mọi người, trái đất sẽ nổ tung, toàn thể loài người sẽ bị tiêu diệt.
Tại sao loài người chúng ta, một loài người có trí khôn, biết suy nghĩ, một loài cao hơn tất cả mọi loài vật khác mà lại cư xử với nhau một cách ngu xuẩn như vậy ? Thưa vì trong con người chúng ta vừa có tính thú vừa có tính người : tính thú thì giống như loài lang sói hung dữ cấu xé lẫn nhau, còn tính người là có trí khôn biết suy nghĩ biết tính toán. Khi buông trôi theo tính thú thì loài người chiến tranh với nhau ; và nếu con người lại dùng cái trí khôn ngoan của tính người để phục vụ cho cái tính thú kia thì con người lại càng dã man hung dữ làm hại nhau còn hơn loài sang sói đích thực nữa. Điều đáng tiếc là trong hầu hết lịch sự quá khứ, con người đã buông theo cái tính thú đó. Vì thế mà lịch sử loài người đã là lịch sử của một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp nhau.
Cho nên trong bối cảnh giữa 2 cuộc chiến tranh thế giới làm chết hàng mấy chục triệu sinh mạng con người như thế, ngày 11.12.1925, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã thiết lập Lễ Chúa Kitô Vua, mục đích là để cầu nguyện cho loài người thôi đừng buông theo tính thú mà cấu xé lẫn nhau, các nước đừng nuôi mộng bá chủ hoàn cầu mà chinh chiến với nhau ; nhưng mọi người hãy suy phục vương quyền Chúa Kitô và xây dựng vương quốc của Ngài, Đức Giáo Hoàng coi đó là chấm dứt chiến tranh.
Sở dĩ loài người cứ luôn làm hại làm khổ lẫn nhau là vì loài người còn sống theo cái tính thú trong mình. Vậy nếu muốn cho loài người hoà thuận với nhau để cùng nhau chung hưởng thái bình thì loài người phải sống theo cái tính người, gồm có những đức tính mà Chúa đã dạy chúng ta trong Tin Mừng. Con người sống đúng là con người. Chúa Giêsu gọi đó là Sự Thật ; còn ngôn ngữ phụng vụ hôm nay thì gọi đó là vương quyền, vương quốc của Chúa Kitô. Nước Chúa. Ai sống theo những giá trị Tin Mừng để thành người hơn thì người đó thuộc về Nước Chúa ; ai giúp cho người khác sống theo những giá trị Tin Mừng ấy thì người đó đang mở mang Nước Chúa ; và khi mọi người, dù có đạo hay không có đạo, đều sống theo những giá trị Tin Mừng ấy, thì đó là thời Nước Chúa đã trị đến.
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ. Giáo hội đặt lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối cùng này, cũng có ý nghĩa : đó là ước nguyện sao cho cuối cùng tất cả mọi người đều ở trong Nước Chúa, một nước chỉ có hoà thuận yêu thương, một nước thái bình hạnh phúc.
Phần mỗi người chúng ta, hãy cố gắng xứng đáng là một công dân Nước Chúa, nghĩa là biết sống đúng tính người, sống theo lương tâm, sống hoà thuận, yêu thương, làm việc lành theo lời dạy của Tin Mừng. Chúng ta cũng hãy cố gắng mở mang Nước Chúa bằng cách làm cho thêm nhiều người khác cũng biết sống hoà thuận yêu thương sống theo lương tâm và làm việc lành như vậy.
* 2. Chân lý cuối cùng
Trong những Chúa nhựt cuối của năm phụng vụ, Lời Chúa mời chúng ta nghĩ đến lúc tận cùng của thời gian, để thấy trước khi ấy tình hình sẽ như thế nào, và nhờ đó mỗi người cũng biết điều chỉnh cuộc sống mình trong hiện tại cho phù hợp với viễn ảnh cuối cùng ấy.
– Bằng ngôn ngữ khải huyền, các sách Tin Mừng mô tả lúc đó mặt trời mất sáng, mặt trăng tối sầm lại và các tinh tú trên trời rụng xuống. Qua những hình ảnh lạ lùng ấy, tác giả muốn nói rằng khi đến lúc tận cùng của thời gian, tất cả mọi thứ mà xưa nay người ta coi là quyền lực đều sụp đổ hết, để chỉ còn quyền lực của Thiên Chúa tồn tại và ngự trị.
– Còn sách Huấn ca Ben Sira thì mô tả một cách thi vị hơn và bằng những hình ảnh gần gũi hơn :
“Phù hoa nối tiếp phù hoa, trần gian tất cả chỉ là phù hoa…
Hoa nào không phai tàn. Trăng nào không khuyết
Ngày nào mà không có đêm. Yến tiệc nào không có lúc tàn
Phù hoa nối tiếp phù hoa…”
– Một thi sĩ khác cũng có những suy nghĩ tương tự, ông suy nghĩ về thời gian :
“Khi tôi là một đứa trẻ… tôi thấy thời gian bò tới
Khi tôi là một thanh niên… tôi thấy thời gian đi bộ
Khi tôi trưởng thành… tôi thấy thời gian chạy
Cuối cùng khi tôi bước vào tuổi chín muồi thì thấy thời gian bay
Chẳng bao lâu nữa tôi chết, lúc đó thời gian đã đi mất
Ôi lạy Chúa Giêsu, khi cái chết đến, thì ngoài Ngài ra, không còn gì là quan trọng nữa”
Những dẫn nhập khá dài dòng trên chỉ nhằm giúp chúng ta hiểu bài Tin Mừng lễ Chúa Kitô Vua hôm nay theo đúng hướng mà Phụng vụ của ngày Chúa nhựt cuối năm Phụng vụ muốn chúng ta hiểu. Trong hướng đó, chúng ta thấy được một số chân lý sau đây :
– Thứ nhất : Đến lúc tận cùng của thời gian, nghĩa là đến ngày tận thế, hoặc ngày chết của mỗi người, thì chúng ta sẽ thấy tất cả đều sẽ sụp đổ : tiền bạc, danh vọng, sức khoẻ, thế lực, thú vui…. Tất cả đều không còn ý nghĩa và tầm quan trọng gì đối với bản thân mình hết. Đúng như lời của bài thơ chót mà tôi vừa đọc : “Lạy Chúa Giêsu, khi cái chết đến thì ngoài Ngài ra không còn gì là quan trọng nữa”.
– Thứ hai : Nếu khi đó chỉ có Chúa là quan trọng thì từ trước tới lúc đó trong cuộc sống, chỉ những ai gắn bó và nương dựa vào Chúa mới thấy yên lòng ; còn những người quen tìm kiếm, chạy theo và nương dựa vào những thế lực khác như tiền bạc, quyền lực, thú vui v.v. sẽ thấy chới với, cô đơn, trơ trụi…
– Thứ ba : Khi đó, đối với tất cả mọi người, dù tin hay không tin, dù tốt hay xấu, mọi người đều mở mắt và nhận thực rằng Chúa Giêsu chính là Kitô và là Vua thật. Kitô nghĩa là Đấng Cứu Vớt, Vua nghĩa là Đấng thống trị. Nhiều người trong lúc còn sống đã tưởng rằng nguồn cứu vớt của họ và thế lực hỗ trợ họ là tiền tài danh lợi thế gian, nhưng khi đó họ sẽ biết họ lầm. Chẳng hạn các nhân vật trong bài Tin Mừng hôm nay : Các thủ lãnh do thái, quân lính, Philatô và tên gian ác ở bên trái Ngài. Chiều hôm đó trên đồi Sọ, họ tưởng Chúa Giêsu đang thất thế vì rõ ràng Ngài đang bị treo, bị đóng đinh dính cứng vào thập giá. Họ chế nhạo Ngài “Nào có giỏi thì thử xuống khỏi thập giá đi”. Họ cũng gọi Ngài là Kitô đó, cũng gọi Ngài là Vua đó, nhưng gọi một cách mỉa mai, gọi để nhạo báng : chẳng qua hắn chỉ là một tên Kitô dỏm, một ông vua cỏ mà thôi ! Nhưng đến ngày cùng tận, tất cả những người ấy sẽ sửng sờ khi thấy kẻ bị họ nhạo báng ấy lại xuất hiện với tất cả uy quyền và vinh quang, để xét xử và trừng phạt họ. Ngài đúng là Kitô và là Vua. Chiều hôm ấy trên đồi sọ, chỉ có một người đã nhận biết Ngài, đó là người trộm lành ở bên phải. Anh đã tin Ngài là Vua nên anh nói “Khi nào Ngài vào Nước của Ngài” ; anh cũng tin Ngài là Đấng Kitô cứu thế nên mới thưa “Xin Ngài cứu tôi, xin hãy nhớ đến tôi”. Và chúng ta hãy suy nghĩ : hiện bây giờ người trộm lành ấy đang ở đâu ? Chắc chắn anh đang ở bên Chúa và hưởng hạnh phúc trong nước Chúa, như lời Chúa Giêsu đã hứa với anh chiều hôm ấy : “Ta bảo thật, ngay hôm nay anh sẽ được ở với Ta trên thiên đàng”. Thật hạnh phúc thay cho người trộm lành, cả một đời gian ác tội lỗi, nhưng cuối cùng đã gặp được hạnh phúc thiên đàng, nhờ anh đã hiểu được phải trao cuộc đời cho ai và bám víu vào ai.
Cái chân lý mà mãi đến phút cuối đời người trộm lành mới thấy được ấy, Phụng vụ muốn chỉ cho chúng ta thấy ngay từ hôm nay : Chúa Giêsu chính là Đấng Kitô cứu vớt, Ngài chính là Vua. Ngoài Ngài ra không có ai, không có cái gì là vua thật và có thể cứu chúng ta thật. Vậy ngay từ hôm nay chúng ta hãy quyết định trao gởi cuộc đời mình cho Ngài, sống gắn bó với Ngài, và từ bỏ tất cả những gì nghịch với Ngài. Có như thế chúng ta mới có thể hưởng hạnh phúc muôn đời bên cạnh Ngài, là Kitô thật và là Vua thật của chúng ta.
* 3. Cơn cám dỗ cuối cùng
Vua Cảnh Công nước Tề, một hôm lên chơi núi Ngưu Sơn. Nghĩ rằng có ngày sẽ phải chết và giang sơn gấm vóc lại lọt vào tay kẻ khác, vua liền trào nước mắt tiếc thương. Đoàn tuỳ tùng thấy vua khóc cũng khóc theo. Duy chỉ có Án Tử là chúm miệng cười. Vua chau mày hỏi :
– Tại sao người ta ai cũng khóc cả, mà nhà ngươi lại cười ?
Án tử trả lời :
– Nếu các vua đời trước mà sống, thì vua ngày nay hẳn còn phải mặc áo tơi đội nón lá. Nhờ thế sự thăng trầm mà nay đến lượt vua được mặc áo gấm, đội mũ ngọc. Thế mà vua lại khóc. Thấy đấng làm vua bất nhân, bầy tôi siểm nịnh, tôi không cười sao được ?
*
Vua trần gian có thần dân để cai trị, có quan quân để sai khiến, có tiền của mỹ nữ để truy hoan.
Chúa Giêsu trái lại, Người không làm vua theo kiểu thường tình ấy. Người đã khẳng định : “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18,36). Vì thế, cung cách của vị vua Giêsu hoàn toàn mới lạ. Tin Mừng hôm nay sẽ nói lên tính cách Vương Quyền ấy của Người.
Dưới hình thức nhạo báng của các thủ lãnh Do thái, của lính tráng, của bản án treo trên thập giá, đã nói !ên vương quyền của Chúa Giêsu : “Hắn đã cứu được người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki tô của Thiên Chúa, người được Thiên Chúa tuyển chọn” (Lc 23,35). “Đấng Kitô” chính là người được xức dầu, là tước hiệu của vua. “Người Thiên Chúa tuyển chọn” chính là tước hiệu Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Nhất là lời tuyên xưng của người trộm lành đã nói lên vương quyền của Người : “Khi nào về Nước của Người, xin nhớ đến tôi” (Lc 35,42).
Tuy nhiên, nước của Chúa Giêsu không nhằm tư lợi cá nhân như các thủ lãnh khiêu khích, cũng không để ra oai quyền uy như bọn lính thách thức. Nước của Người là Nước Tình Yêu, vương quyền của Người là để phục vụ. Vì thế, Người đã không “xuống khỏi thập giá” cách ngoạn mục, nhưng đã “kéo mọi người” lên với Người (Ga 13, 32). Người đã không “cứu lấy chính mình”, nhưng đã “cứu lấy mọi người” khỏi chết muôn đời nhờ cái chết của Người.
Người đã sẵn lòng chịu chết giữa hai tên gian phi, như lời Kinh Thánh rằng : “Người đã hiến thân chịu chết và bị liệt vào hàng phạm nhân” (ls 53,12). Người đã hoà mình trong đám người tội lỗi, đã chịu chung số phận của họ, Người đã sống và đã chết giữa đám tội nhân, như lời đồn đại về Người : “Bạn của người thu thuế và phường tội lỗi” (Mi 11,19).
Vâng, vương quyền của Người không cai trị bằng sức mạnh biểu dương, nhưng chinh phục bằng “khối” tình yêu thương. Chính vì thế mà Người đã chiến thắng cơn cám dỗ cuối cùng, là lời thách thức xuống khỏi thập giá, để sẵn lòng chịu chết hầu cứu chuộc con người tội lỗi, chính là thần dân của Người,
Thần dân đầu tiên mà vị Vua có vương miện là mão gai, và ngai vàng là gỗ thánh giá đã chinh phục, chính là người trộm lành. Giữa lúc những kẻ trước đây tung hô vạn tuế nay lại nhạo báng Người, giữa lúc các môn đệ thề sống chết với Người nay lại bỏ trốn hết, thì chỉ có một mình anh, người trộm lành, lên tiếng bênh vực Người : Anh mắng người trộm dữ : “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này có làm điều gì trái !” (Lc 35,40-41). Anh tỏ lòng kính sợ Chúa và ăn năn sám hối, đó là thái độ của người sẵn sàng đón nhận ơn cứu độ.
Hơn nữa giữa lúc chương trình của Chúa Giêsu dường như thất bại, không còn hy vọng cứu vãn ; giữa lúc thập tử nhất sinh, gần kề cái chết, thì chỉ mình anh, người trộm lành, đã tin vào Chúa, tin vào sự sống đời sau, và tin vào vương quyền của Người. Anh cầu nguyện : “Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Người nhận lời tức khắc : “Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta” (Lc 35,43).
Một lời hứa mà Người chưa hề ban cho ai dù đó là người thân tín và yêu quí nhất của Người.
Một lời hứa được thực hiện ngay tức thì, không đợi đến sáng phục sinh hay ngày thế mạt.
Một lời hứa đi vào vương quốc của những người công chính, qui tụ quanh vua Giêsu vinh hiển.
Lời hứa ban hạnh phúc cho anh trộm lành chính là cuộc sống thân mật với Vua Giêsu, mà anh đã chia sẻ số phận của Người trên thập giá. Cuộc đời của anh tưởng chừng như vĩnh viễn khép lại, nhưng chỉ với một chút niềm tin trong anh bừng sáng, một lòng sám hối chân thành, đã khiến cửa trời rộng mở, đón tiếp anh thênh thang bước vào. Chính từ khi anh trộm lành nhận ra người tử tù bị đóng đinh là vua trời, nhận ra sự sống trong cõi chết, phục sinh trong tử nạn, thì Vua Giêsu tiếp tục lan rộng cuộc chinh phục đến viên đại đội trưởng khiến ông cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa : “Người này quả thật là công chính” (Lc 23,48).
Và trong suốt 2000 năm qua, Người vẫn luôn đón nhận vào trong vương quốc tình yêu của Người ; những thần dân biết duy trì tinh thần hiệp nhất, phục vụ và yêu thương. Chỉ những ai biết sám hối ăn năn, tin nhận vào quyền năng và tình thương của Chúa như anh trộm lành, môi được vào trong vương quốc của Người. Chỉ những người biết kính sợ Thiên Chúa và tin tưởng vào sự sống đời sau mới được ban cho Nước Trời.
*
Lạy Chúa, xin cho đức tin chúng con đủ mạnh để thấy Chúa không ngừng lôi kéo cả thế giới về với Người.
Xin dạy chúng con luôn cộng tác với Chúa để xây dựng Nước Trời ngay trong cuộc sống này, nhờ biết đẩy lui sự dữ trên địa cầu, trong khi kiến tạo an bình và yêu thương. Amen. (TP)
* 4. Hai tên gian phi
Các sách Tin Mừng ghi nhận rằng cùng bị đóng đinh chung với Chúa Giêsu hôm ấy còn có hai tên gian phi. Phần Tin Mừng theo thánh thì phân biệt có một người đã sám hối, còn người kia thì không. Chúng ta hãy xem xét từng người.
Trước tiên là tên gian phi không sám hối. Hắn chẳng còn tình cảm, chẳng còn lương tri, chẳng còn nhân tính gì nữa cả. Bởi vì tới lúc sắp chết mà hắn cũng không chút hối hận. Ngay cả Chúa Giêsu cũng chẳng thể cứu hắn. Thực vậy, chẳng ai có thể cứu được người không chịu để cho mình được cứu. Tấm lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn có sẵn đấy, nhưng tối thiểu con người phải muốn đón nhận. Oscar Wilde viết : “Kẻ đang ở trong tình trạng nổi loạn không thể nhận được ơn sủng”.
Chúng ta nhìn sang tên gian phi sám hối. Nhiều người đã nghĩ rằng người này được cứu độ dễ dàng quá : sau một đời tội lỗi, anh ta chỉ cần nói với Chúa Giêsu một lời thôi thì được tha thứ hết. Anh đã ăn trộm mọi thứ, và cuối cùng lại ăn trộm luôn thiên đàng nữa. Có người khắt khe nghĩ rằng ít ra Thiên Chúa phải bắt anh ta ở trong luyện ngục một thời gian nào đó mới phải.
Thực ra nếu tìm hiểu kỹ trường hợp anh ta, chúng ta sẽ thấy rằng anh đã làm được một việc không phải là nhỏ và cũng không phải là dễ :
– Khi bị treo trên thập giá, anh không buông theo khuynh hướng xấu có sẵn trong mình mà bực bội và bất mãn để rồi có những phản ứng như tên gian phi kia, là thù người và hận đời rồi chửi bới lung tung. Thay vào đó, anh nhìn lại chính cuộc đời của mình. Anh đã thấy gì ? Thấy cả đời anh chỉ là một đống rác rưởi chẳng có chút gì tốt cả. Từ đó anh ý thức rằng mình đã làm hỏng tất cả : không phải chỉ làm hỏng nhiều việc, mà còn làm hỏng chính cuộc đời mình. Anh biết tội mình, anh nhận trách nhiệm về đời mình.
– Sau đó anh lên tiếng can gián tên gian phi kia đừng chửi rủa Chúa Giêsu nữa. Và anh quay sang kêu xin Ngài “Ông Giêsu ơi, khi nào Ông vào Nước của Ông, xin nhớ đến tôi”.
Người ta vẫn có khuynh hướng đổ lỗi cho người khác chứ không chịu nhận trách nhiệm vào mình. Chuyện gì cũng nói “tại cái này”, “bị cái khác”, “do người này”, “vì người nọ” v.v. Nhiều người còn viện vào khoa tâm lý mà ngụy biện rằng chẳng có gì là tội thực sự cả, tất cả chỉ do hoàn cảnh đẩy đưa ; con người bị tác động bởi nhiều động cơ vượt tầm kiểm soát của mình.
Người gian phi sám hối bị tác động bởi hoàn cảnh bên ngoài nhiều lắm chứ : những đau đớn thể xác làm anh khó chịu, những tiếng la ó của dân chúng làm anh tự ái, án tử hình thập giá làm anh nhục nhã… Những thứ ấy đều xúi anh nổi loạn. Ngoài ra cái chết gần kề cũng xúi anh thất vọng : tới giờ phút này còn hy vọng gì sửa đổi tình thế được nữa ; vả lại tội anh đã quá nhiều và quá rõ…
Có thể sám hối được trong hoàn cảnh như thế không phải là một việc dễ. Tuy nhiên anh đã sám hối. Việc sám hối ấy đã mang lại cho anh chẳng những ơn tha thứ, mà còn cả thiên đàng.
Người gian phi sám hối dạy cho chúng ta biết rằng : không bao giờ là quá trễ để quay về với Chúa, không tội nào là quá nặng để không được thứ tha, bao lâu ta còn thở là ta còn cơ hội để hưởng lòng thương xót Chúa.
* 5. Chúa Giêsu là vua như thế nào ?
  1. Làm vua có thể có nhiều cách, không nhất thiết cứ phải có đất đai, lãnh thổ, có quân đội, triều đình… mới là vua. Người ta vẫn nói : «vua dầu lửa», «vua xe hơi», «vua bóng đá», v.v… mặc dù những ông vua này không có quân đội, không cai trị ai. Chúa Giêsu không những làm vua hiểu theo nghĩa bóng, mà đích thực Ngài là vua hiểu theo nghĩa đen, nghĩa chính thức của từ «vua».
Trước hết, Ngài là vua, vua của cả vũ trụ, của cả trần gian, của cả nhân loại, vì Ngài chính là Ngôi Lời, một trong Ba Ngôi Thiên Chúa đã tạo dựng nên muôn loài vạn vật trong vũ trụ. Thánh Kinh viết : «Nhờ Ngài, vạn vật được tạo thành, và không có Ngài thì chẳng có gì được tạo thành» (Ga 1,3 ; xem 1,10). Ngài là vua của thế giới, nên đến ngày chung cuộc, chính Ngài sẽ là người đến phán xét trần gian với tư cách một vị vua (Mt 25,34).
Thế gian này có nhiều nước, mỗi nước có một ông vua. Nhưng Ngài là vua cả thế gian, cả vũ trụ, nên Ngài là Vua trên hết các vua, là Vua của muôn vua.
  1. Đức Kitô là vua. Nhưng Ngài khác với các vua khác ở chỗ : để cai trị, các vua khác dùng quyền lực, còn Ngài dùng tình thương. Thật vậy, Ngài yêu thương mọi người, mọi con dân của Ngài như người mục tử tốt lành yêu thương chăn dắt đoàn chiên, biết rõ từng con chiên một, và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì lợi ích của chiên (xem Ga 10,11-16). Ngài hành xử như thế vì Ngài là Thiên Chúa, mà «Thiên Chúa là tình yêu» (1 Ga 4,8). Trong thực tế, Ngài đã hy sinh chết trên thập giá một cách khổ nhục để cứu nhân loại, là con dân được Thiên Chúa trao cho Ngài quyền cai trị.
  2. Chúa Giêsu không chỉ là vua vũ trụ, vua của cả trần gian, mà Ngài còn là vua của tâm hồn mỗi người. Vì yêu thương, vị vua ấy ngự ngay trong thâm cung tâm hồn của mỗi người để sẵn sàng thi ân giáng phúc, ban sức mạnh, thánh hóa, làm cho họ ngày càng tốt đẹp, mạnh mẽ và hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, Ngài có làm được điều đó hay không còn tùy thuộc vào sự tự do chấp nhận và sự tự nguyện cộng tác của chúng ta. Ngài sẽ không làm được gì cho chúng ta nếu chúng ta không muốn Ngài làm, hoặc nếu chúng ta hoàn toàn thụ động không cộng tác gì vào công việc mà Ngài muốn làm cho ta.
Để Ngài có thể hành động biến đổi con ta nên tốt đẹp, mạnh mẽ, thánh thiện hơn, ta cần tôn Ngài làm vua tâm hồn mình, bằng cách :
– Trước tiên, phải thường xuyên ý thức về sự hiện diện của Ngài ở trong ta.
– Kế đến là ý thức rằng Ngài là tình thương, Ngài yêu thương ta hơn tất cả mọi người, và sẵn sàng làm tất cả những gì ta cần cho sự phát triển và hạnh phúc của ta.
– Đồng thời ý thức Ngài là sức mạnh toàn năng, có thể thực hiện tất cả những gì Ngài muốn nơi ta.
– Vì thế, ta nhường quyền làm chủ bản thân ta cho Ngài, để Ngài hoàn toàn làm chủ bản thân ta. Ta không còn hành động theo ý riêng ta nữa, mà hoàn toàn hành xử theo ý của Ngài.
– Vì Ngài yêu thương ta, sáng suốt và khôn ngoan hơn ta rất nhiều, lại có khả năng làm tất cả những gì Ngài muốn, nên ta hãy hoàn toàn phó thác vận mệnh của ta cho Ngài.
– Và cuối cùng là luôn luôn sống trong bình an, hạnh phúc của một người được Đức Kitô yêu thương và phù trợ. Hãy hưởng niềm hạnh phúc của một người được Vua của cả trần gian này yêu thương và quan tâm săn sóc. Hãy tin tưởng và luôn luôn an tâm rằng nhờ quyền năng của Ngài, tất cả những gì xảy đến cho ta đều hết sức có lợi, đều trở nên vô cùng tốt đẹp cho ta, cho dù hiện nay ta chưa hiểu rõ.[1]
Nắm vững điều đó, ta sẽ thấy có Đức Kitô ngự trong tâm hồn mình là như có được một «cây đèn thần» trong tay, một «bùa hộ mạng» an toànmột «vị thần bảo trợ» hữu hiệumột «người tình chung thủy» luôn luôn ở với ta suốt cuộc đời. Lúc đó ta sẽ sung sướng cảm nghiệm được như thánh Phaolô : «Tôi làm được tất cả mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi» (Pl 4,13). (Nguyễn chính Kết)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, khi bị đóng đinh trên thập giá, người trộm lành đã thưa với Chúa Giêsu : Lạy Ngài, khi vào Nước Ngài, xin nhớ đến tôi. chúng ta cũng mượn lời khẩn cầu ấy để thân thưa với Thiên Chúa là Cha chúng ta :
  1. Hội thánh là một bà mẹ hiền / yêu thương hết thảy mọi con cái của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử luôn nhớ đến những người nghèo khổ bất hạnh / và tìm mọi cách giúp họ sống xứng nhân phẩm của mình.
  2. Chúa Giêsu Kitô là vị Vua đem lại hòa bình thật sự cho nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa tiêu diệt mầm mống chiến tranh / hận thù và bạo lực / để hết thảy mọi người được an cư lạc nghiệp.
  3. Hiện nay / có một số anh chị em tận tụy hy sinh / phục vụ những người bị nhiễm HIV / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban ơn nâng đỡ những sứ giả của tình thương / đang xả thân vì đồng loại của mình.
  4. Chúa Giêsu là vị Vua nhân ái / luôn chia sẻ mọi vui buồn với thần dân của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn tin tưởng và phó thác cuộc đời cho vị vua đầy lòng nhân ái này.
Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, vì yêu thương mà Chúa đã chết trên thập giá để cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con cũng biết yêu thương và giúp đỡ hết thảy mọi người như Chúa đã luôn luôn yêu thương và không ngừng nâng đỡ chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha : Trong ngày lễ kính Chúa Giêsu là Vua hôm nay, chúng ta hãy đặc biệt cầu xin cho Nước Chúa mau trị đến trong cõi lòng mọi người.
– Trước rước lễ : Vua Giêsu đã thương mời chúng ta đến dự tiệc của Ngài. Chúng ta hãy đến dự tiệc thánh trong tâm tình biết ơn và cảm mến. “Đây Chiên Thiên Chúa…”
VII. Giải tán
Trong khi chờ đợi ngày Chúa Giêsu hoàn toàn làm Vua toàn thể nhân loại, mỗi người chúng ta hãy cố gắng làm một công dân xứng đáng của Nước Chúa, đó là hằng ngày thực hiện giới luật yêu thương.
[1] «Thiên Chúa khiến mọi sự rốt cuộc đều trở nên ích lợi cho những ai yêu mến Ngài» (Rm 8,28).
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI


Lectio Divina: Chúa Kitô Vua Vũ Trụ (C)
Chúa Nhật, 24 Tháng 11, 2019

Chúa Giêsu Vua Dân Do-Thái
Một vị Vua khác với các vua trên thế gian
Lc 23:35–43 


Lời nguyện mở đầu

Lạy Thiên Chúa Toàn Năng ngự trên cao,
Chúa đã biến đời sống mỏng manh của chúng con thành đá tảng đền thờ Chúa ngự.
Xin hãy hướng dẫn tâm trí chúng con biết đập vỡ những phiến đá trong sa mạc,
để cho nước có thể chảy ra hầu làm dịu cơn khát của chúng con. 
Nguyện xin cho sự nghèo nàn về cảm xúc của chúng con che phủ chúng con như tấm áo choàng trong bóng tối của đêm đen.
Và xin Chúa hãy mở lòng trí chúng con để chúng con có thể nghe được tiếng vang vọng của sự im lặng cho đến lúc bình minh,
Xin Chúa hãy ấp ủ chúng con trong ánh sáng của buổi rạng đông,
Xin hãy mang đến cho chúng con,
Với than hồng từ lửa của những người chăn chiên của Đấng Tuyệt Đối
Là những người canh thức cho chúng con được gần với Thầy Chí Thánh, hương vị của kỷ niệm thánh.

1.  Bài Đọc

a)  Phúc Âm: 
35  Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh buông lời cười nhạo Chúa Giêsu:  “Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn.”  36 Quân lính đều chế diễu Người, đưa dấm cho Người uống, 37và nói:  “Nếu ông là vua dân Do Thái, ông hãy tự cứu mình đi.”  38 Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ:  ‘Người này là vua dân Do Thái’.  39 Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng:  “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa.”  40 Đối lại, tên kia mắng nó rằng: “Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao.  41 Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với những việc chúng ta đã làm.  Còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?”  42 Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng:  “Lạy Ngài Giêsu, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi.”  43 Chúa Giêsu đáp:  “Ta bảo thật ngươi, ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta.”  
b)  Giây phút thinh lặng cầu nguyện:

Chúng ta hãy để cho Lời Chúa vang vọng ở trong lòng chúng ta.

2.  Suy Gẫm
                            
a)  Một vài câu hỏi gợi ý: 

-  Dân chúng đứng đó nhìn.  Tại sao bạn không bao giờ tỏ thái độ về những gì đang xảy ra?  Tất cả mọi thứ mà bạn đã sống, lắng nghe, trông thấy…  bạn không thể tảng lờ đi chỉ vì một chướng ngại vật có vẻ như đang làm cản lối sao?  Hãy dời nó sang một bên, hãy làm một điều gì đó!
-  “Nếu ông là vua dân Do Thái, ông hãy tự cứu mình đi.”  Đã có bao nhiêu toan tính và đe dọa với Chúa trong lời cầu nguyện.  Nếu Chúa là Thiên Chúa tại sao Chúa không can thiệp?  Có rất nhiều người vô tội đang đau khổ…  Nếu Chúa yêu con, Chúa hãy làm những gì con xin và con sẽ tin Chúa…  Cho đến khi nào thì bạn mới thôi không đối xử với Chúa như là bạn biết nhiều hơn Người về những gì là tốt và những gì không tốt?
-  Lạy Ngài Giêsu, xin nhớ đến tôi. Khi nào thì bạn sẽ thấy trong Đức Kitô, là Đấng duy nhất HÔM NAY ban cho bạn sự sống?

b)  Ý chính của bài Tin Mừng:                                                                         

 Lễ Chúa Kitô, Vua của Vũ Trụ.  Có lẽ chúng ta mong chờ một đoạn Tin Mừng của những người đầy vẻ hào quang, nhưng thay vào đó chúng ta lại thấy mình đang  ở trước những đoạn Tin Mừng đen tối nhất…  Sự kinh ngạc của điều không mong đợi là cảm nhận  thích hợp nhất để tham gia vào trọng tâm của ngày lễ hôm nay, sự ngạc nhiên của kẻ biết rằng họ không thể nào hiểu được mầu nhiệm vô hạn của Con Thiên Chúa.

Câu 35:  Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh buông lời cười nhạo Chúa Giêsu: “Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn.”   Chung quanh cây Thập Giá, tụ tập nhau lại là những người đã gặp Chúa Giêsu trong thời gian ba năm cuộc đời rao giảng của Người. Và, giờ đây, trước khi Chúa Lời bị đóng đinh vào thập giá, những bí mật của trái tim đã được mặc khải.  Người ta đã lắng nghe và đi theo vị Giáo Sĩ đất Galilê, những người đã chứng kiến những phép lạ và sự kỳ diệu, họ có xem thấy: sự bối rối trên các khuôn mặt, hàng ngàn câu hỏi trong tim, tâm trạng vỡ mộng và sự nhận thức rằng mọi việc sẽ kết thúc như thế này không?  Các người thủ lãnh duyệt qua tất cả những gì đã xảy ra trong khi họ nói lên sự thật liên quan đến Con Người của Đức Giêsu: Chúa Cứu Thế, Đấng Thiên Chúa Chọn.  Họ bỏ qua lý luận của Thiên Chúa dù rằng họ là những người trung thành tuân giữ lề luật Do Thái.  Đó là lời thách thức rất đáng khinh bỉ:  Hãy để nó tự cứu lấy mình… cho thấy một mục đích ẩn dấu sau các hành động của họ:  sự cứu rỗi chỉ đạt được bởi những ai tuân thủ theo các điều răn của Thiên Chúa.

Câu 36-37:  Quân lính đều chế diễu Người, đưa dấm cho Người uống, và nói:  “Nếu ông là vua dân Do Thái, ông hãy tự cứu mình đi.”  Các quân lính, những người không có gì để mất mát trong lĩnh vực tôn giáo, quyết liệt chống lại Người.  Họ có điều gì giống như người đàn ông ấy đâu?  Họ đã nhận được những gì từ nơi người ấy?  Không có gì cả.  Khả năng thi hành, ngay cả trong một thời gian ngắn, quyền cấm một ai đó không được phép vấp phạm!  Quyền năng sở hữu được đan quyện bởi lòng ác độc và quyền chế nhạo mà họ tự ban cho mình.  Còn người kia, không khả năng tự vệ, trở thành đối tượng cho sự hưởng thụ của họ.

Câu 38:  Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ:  ‘Người này là vua dân Do Thái’. Thật ra, đó là một tấm bảng nhạo báng tội lỗi của chính họ:  Đức Giêsu có tội vì là Vua Dân Do Thái.  Một cái tội mà trong thực tế không là tội gì cả.  Mặc dù các thủ lãnh đã manh nha, bằng mọi cách, để dẹp tan địa vị quân vương của Chúa Kitô, nhưng sự thật tự nó đã được viết lên:  Người này là Vua dân Do Thái!  Người này, chứ không phải là ai khác!  Một địa vị quân vương tồn tại hằng thế kỷ và đòi hỏi những người đi ngang qua phải dừng chân và suy nghĩ về đặc tính mới lạ của Tin Mừng.  Con người cần có một ai đó để cai quản họ, và người duy nhất chỉ có thể là Đấng đã chịu đóng đinh trên thập giá vì tình yêu, người ấy có khả năng đứng trên cây gỗ kết án để rồi được tìm thấy sống lại vào buổi rạng đông vào ngày thứ tám. Một vị Vua không vương trượng, một vì Vua có khả năng khi bị mọi người xem như là một tội phạm nhưng vẫn không từ bỏ tình yêu của mình cho nhân loại. 

Câu 39:  Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng: “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa.”  Một người có thể bị treo trên cây thập giá vì những lý do khác nhau, như cũng vì những lý do khác nhau người ta có thể được gần kề với Đức Kitô.  Được gần với cây thập giá có thể là chia rẽ hoặc là kết hợp.  Một trong hai người gần với Đức Kitô đã sỉ nhục, khiêu khích, chế giễu hoặc nhạo báng Người.  Mục tiêu luôn luôn giống nhau:  Hãy tự cứu lấy ông và cứu luôn cả chúng tôi nữa!  Ơn cứu rỗi được cầu khẩn như là một chuyến bay từ cây thập giá.  Một sự cứu độ vô ích, không có sự sống, đã chết tự trong chính nó.  Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá, người tội phạm này bị treo trên thập giá.  Chúa Giêsu đã trở thành một với cây gỗ, bởi vì cây thập giá dành cho Người là một cuốn sách được mở ra để thuật lại những việc lạ lùng của đời sống thiêng liêng được dâng nộp, được trao ban vô điều kiện.  Còn người kia bị treo như một trái cây, mục rữa bởi tội lỗi và sẵn sàng bị thải đi.

Câu 40:  Đối lại, tên kia mắng nó rằng: “Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Còn người kia, được gần gũi với Chúa Giêsu, một lần nữa chuộc lại sự kính sợ Thiên Chúa và làm một nhận thức rõ ràng.  Có thể nào một người sống bên cạnh Chúa Giêsu sỉ nhục, kẻ mà ở đó cận kề với cái chết và không thấy điều đó, và tiếp tục lãng phí nó cho đến phút giây cuối cùng không?  Mọi việc đều có một giới hạn, và trong trường hợp này cái giới hạn đã không được sắp đặt bởi Đức Kitô là Đấng đang ở đó, nhưng bởi kẻ đồng hành với Người.  Đức Kitô không trả lời, người kia lên tiếng trong vị thế của mình, nhận ra được trách nhiệm của mình và giúp đỡ người khác nhận thức được những giây phút hiện tại là một cơ hội để được lãnh nhận ơn cứu độ.

Câu 41:  Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với những việc chúng ta đã làm.  Còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?”  Sự dữ dẫn đến thập giá, con rắn đã hướng dẫn đến trái cấm trên cây.  Nhưng mà thập giá nào đây? Thập giá “phần thưởng” của một người hay thập giá của hoa trái tốt tươi.  Đức Giêsu là hoa trái mà mỗi người có thể nhận được từ cây sự sống ở giữa khu vườn của thế giới, Đấng công chính chưa hề làm một điều gì tội lỗi, ngoại trừ yêu cho đến tận cùng.

Câu 42:  Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng:  “Lạy Ngài Giêsu, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi.”  Đó là một đời sống hoàn thành trọn vẹn và được gói ghém trong một lời khẩn cầu mang một ý nghĩa lạ thường.  Một con người, một tội nhân, ý thức được tội lỗi của mình và sự xử phạt công bằng, chấp nhận mầu nhiệm thập giá. Dưới chân của ngai tòa vinh quang đó, anh ta xin được nhớ đến trong Vương quốc của Chúa Kitô.  Anh ta đã trông thấy một người vô tội bị đóng đinh, anh nhận ra và nhìn thấy xa hơn những gì biểu hiện bề ngoài, đời sống của Nước Trời.  Một sự thừa nhận tuyệt vời!  Trong một khoảnh khắc, đôi mắt của người ấy đã thông hiểu, đã có được một sự sống đang lướt ngang qua và đang công bố một sứ điệp về ơn cứu rỗi dù rằng trong một cách hoảng hốt.  Tội nhân đó, kẻ tội phạm đáng chết, đáng bị sỉ nhục và bị nhạo báng bởi tất cả những ai có thể biết rõ về anh ta và trong một thời gian dài, nhận lãnh đối tượng đầu tiên của mình, lần đầu tiên trong đời, anh ta thắng cuộc.  Thánh Kinh nói rằng kẻ đáng nguyền rủa là kẻ bị treo trên cây thập giá.  Kẻ vô tội bị nguyền rủa trở thành phúc lành cho kẻ đáng bị lên án.  Một tòa án trần thế và thế quyền, đó là quan Philatô, một tòa án thiêng liêng, đó là thập tự giá, nơi mà kẻ bị lên án thì được cứu rỗi trong đức yêu mến dạt dào của Đức Kitô vô tội.

Câu 43:   Chúa Giêsu đáp:  “Ta bảo thật ngươi, ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta.”  Ngay hôm nay.  Chữ duy nhất bung ra một cuộc sống mới của Tin Mừng.  Hôm nay.  Ơn cứu độ đã được hoàn thành; không còn cần phải chờ một Đấng Cứu Thế nào đó để cứu chuộc người ta khỏi tội lỗi nữa.  Hôm nay.  Ơn cứu độ đã ở đây, trên cây thập giá.  Đức Kitô không bước vào Vương Quốc của Người một mình, Người đem theo anh ta, người đầu tiên đã được cứu rỗi.  Cùng một loài người, cùng một bản án, cùng một cơ hội, cùng một vinh quang.  Đức Giêsu không hề chiếm độc quyền cho riêng mình quyền lợi làm con, ngay sau khi Người đã tách rời khỏi khoảng không gian đã ngăn cách Người với Chúa Cha và từ cái chết không thể tránh khỏi hay thoát được.  Thật là kỳ diệu, Nước Trời đã được khánh thành trên đồi Gôngôta… Có người nói rằng kẻ trộm lành đã làm một vụ cướp cuối cùng của cuộc đời mình; anh ta đã cướp được ơn cứu rỗi…  Và quả vậy.  Cho những kẻ hành động với những thứ của Thiên Chúa!  Thay vào đó, bao nhiêu sự thật, trong suy niệm món quà mà Đức Kitô mang đến cho người đồng hành của Người trên thập giá.  Không cướp bóc, không trộm cắp!  Tất cả là một món quà tặng:  sự hiện diện của Thiên Chúa không được mặc cả hoặc đổi chác!  Ít hơn nữa là được luôn luôn ở bên cạnh Người.  Đức tin đã mở ra cánh cửa Nước Trời cho người trộm lành.  Tốt lành bởi vì anh ta đã biết cách nêu lên một cách công minh rằng tình trạng hiện hữu của anh ta bởi vì đâu và đã nhìn ra được Đấng Cứu Thế trong Chúa Kitô.  Còn người kia có phải là người trộm dữ không?  Có lẽ cũng ngang chừng như người kia thôi, nhưng hắn ta vẫn ở ngoài đức tin:  y vẫn đang đi tìm một Thiên Chúa dũng mãnh và quyền năng, một Thiên Chúa uy quyền hùng mạnh trong chiến trận, một Thiên Chúa xếp đặt mọi việc vào đúng vị trí của nó và anh ta không biết cách nhận ra mình trong mắt của Đức Kitô, anh ta đã dừng lại tại sự bất lực của mình.  

c)  Suy niệm

Đức Kitô chết trên Thập Giá.  Người không cô độc.  Người được người ta vây quanh, bởi những người lạ, những kẻ chống đối đã ném lên Người trách nhiệm thiếu hiểu biết của họ, những kẻ thờ ơ không muốn dính dáng tham gia ngoại trừ lợi ích cá nhân, những người chưa thấu hiểu nhưng có lẽ lại là những kẻ tự cho mình có quyền tra hỏi, vì họ nghĩ rằng họ không có gì để mất mát, như một trong hai tội phạm.  Nếu cái chết là để rơi vào hư vô, thì thời gian làm người trở thành nỗi thống khổ.   Thay vào đó, nếu đó là lúc để chờ đợi ánh sáng thì thời gian làm người trở thành hy vọng, và không gian của sự giới hạn sẽ mở ra một con đường mới dẫn đến tương lai, đến một bình minh mới của sự Phục Sinh.  Ta là đường, là sự thật và là sự sống… thật đúng làm sao cho cả đến ngày nay, những Lời của Đức Giêsu, những Lời thắp sáng lên bóng tối của sự chết.   Đường không dừng lại, sự thật không bị tắt đi, sự sống không chết.  Trong những chữ “Ta là” gói ghém luôn cả vương quyền của Đức Kitô.  Chúng ta đang đi trên một cuộc hành trình hướng về một mục tiêu, và để đạt được nó không thể có nghĩa là để mất nó…  Ta là đường… Chúng ta sống với sự thật, và sự thật không là một vật thể, nhưng là một điều gì đó tồn tại:  sự thật là sự huy hoàng của thực tế - Simon Well đã nói – và mong muốn sự thật là mong muốn một sự tiếp xúc trực tiếp với thực tế để yêu mến nó”.  “Ta là sự thật…  Không ai muốn chết, chúng ta cảm thấy như bị tước đi mất một cái gì đó thuộc quyền sở hữu của chúng ta: đời sống, và rồi, nếu đời sống không là một phần của chúng ta, nó không thể cầm giữ chúng ta cho chính nó…  Ta là sự sống…  Chúa Giêsu đã phán điều đó:  “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó, nhưng ai mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ tìm thấy nó.”  Có sự mâu thuẫn nào trong câu nói này, hay đúng ra là có những bí mật nào đang được mặc khải không?  Chúng ta có cần phải cất đi tấm màn che phủ từ những gì chúng ta thấy để chúng ta được hưởng những gì chúng ta không thấy?   Chúa Kitô trên thập giá là đối tượng cho sự chú ý của mọi người.  Nhiều người nghĩ về Người hoặc là ngay cả ở bên cạnh Người.  Nhưng điều này vẫn chưa đủ.  Sự gần gũi để được cứu rỗi không dành cho những ai đang ở đó để nhạo báng hoặc chế giễu, sự gần gũi để được cứu rỗi thì dành cho những ai khiêm nhường cầu xin được nhớ đến không phải trong lúc trốn chạy nhưng trong Vương quốc đời đời.  

3.  Cầu Nguyện

Thánh Vịnh 145

Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con,
con nguyện tán dương Chúa
và chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời.
Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa
và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời.

CHÚA thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng.
Người cao cả khôn dò khôn thấu.
Đời nọ tới đời kia, thiên hạ đề cao sự nghiệp Chúa
và truyền tụng những chiến công của Ngài,

Tuyên bố Ngài oai phong vinh hiển,
kể lại rằng: Ngài thực hiện những kỳ công,
bảo cho nhau: sức mạnh Ngài đáng sợ,
loan truyền rằng: Ngài cao cả lắm thay!

Nhắc nhở luôn: Ngài nhân ái vô cùng,
hoan hô Ngài công chính.
CHÚA là Đấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình thương.
CHÚA nhân ái đối với mọi người,
tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên.
Lạy CHÚA, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ,
kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài,
nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển,
xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng,
để nhân loại được tường những chiến công của Chúa,
và được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang.

Triều đại Ngài: thiên niên vĩnh cửu,
vương quyền Ngài vạn đại trường tồn.
Chúa thành tín trong mọi lời Chúa phán,
đầy yêu thương trong mọi việc Người làm.

Ai quỵ ngã, CHÚA đều nâng dậy,
kẻ bị đè nén, Người cho đứng thẳng lên.
Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa,
và chính Ngài đúng bữa cho ăn.

Khi Ngài rộng mở tay ban,
là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê.
CHÚA công minh trong mọi đường lối Chúa,
đầy yêu thương trong mọi việc Người làm.

CHÚA gần gũi tất cả những ai cầu khẩn Chúa,
mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người.
Kẻ kính sợ Người, Người cho toại nguyện,
nghe tiếng họ kêu than, và ban ơn giải cứu,

CHÚA gìn giữ mọi kẻ mến yêu Người,
nhưng lại diệt trừ hết bọn ác nhân.
Môi miệng tôi, hãy dâng lời ca ngợi CHÚA,
chúng sinh hết thảy, nào chúc tụng Thánh Danh
đến muôn thuở muôn đời!

4. Chiêm Niệm

Lạy Chúa, nghe lạ lẫm khi con gọi Chúa là Vua.  Một Đấng không giống như một vị vua bình thường khác…  Và, thay vào đó, hôm nay con thấy Chúa đang ngồi bên cạnh con, trong hố sâu tội lỗi; tại đây, nơi con nghĩ là sẽ không bao giờ tìm được Chúa.  Các vua chúa thường ở trong các cung điện nguy nga tráng lệ, xa hẳn với những khó khăn của người nghèo khổ.  Trái lại, Chúa thì sống đời Vương quyền của mình với những áo quần tả tơi của sự nghèo đói chúng con.  Thật là một dịp vui mừng cho con được thấy Chúa ở đây, nơi con đã đi ẩn mình để không còn cảm thấy những cái nhìn soi mói phán xét của loài người.  Trong lúc khốn khó lao đao và bên bờ thất bại, con đã tìm thấy ai nếu không phải là Chúa?  Đấng duy nhất có thể quở trách con vì sự mất định hướng của con, Đấng đi tìm kiếm con để trợ sức con trong lúc con khổ não và trong lúc con tủi hổ!  Thật là một ảo giác to lớn khi chúng con nghĩ rằng chúng con chỉ nên đến với Chúa khi chúng con đã đạt được sự hoàn hảo… Con muốn nghĩ rằng Chúa không hài lòng về con, nhưng có lẽ điều ấy không hẳn là như vậy:  Con không hài lòng với chính mình, nhưng đối với Chúa, con hoàn hảo, bởi vì tình yêu của Chúa là điều gì đó đặc biệt tôn trọng mọi thứ trong con người con và làm cho mỗi lúc trong đời con là một cuộc gặp gỡ và một ân sủng.  Lạy Chúa, xin dạy cho con biết đừng bước xuống khỏi cây thập giá với kỳ vọng ngớ ngẩn cứu lấy bản thân mình!  Xin cho con biết chờ đợi thế nào, bên cạnh Chúa, cho NGÀY HÔM NAY của Nước Chúa trong cuộc sống của con.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét