14/02/2020
Thứ Sáu tuần 5 thường
niên.
Thánh Syrilô, đan
sĩ và thánh Mêtôđiô, giám mục.
Lễ nhớ
* Hai anh em Contantinô và Mêtôđiô được thượng phụ giáo chủ
Contantinôpôli phái sang Mô-ra-vi-a để loan báo Tin Mừng. Năm 868, hai vị đi
Rôma để trình bày với đức giáo hoàng những việc các vị làm, Contantinô qua đời
tại đó dưới tên trong đan viện là Syrilô (năm 869).
Còn Mêtôđiô được phong làm tổng giám mục Xiamium, đi loan báo Tin Mừng
cho người Xi-la-vô-ni-a (+ năm 885). --------- Ngày 31 tháng 12 năm
1980, đức giáo hoàng Gioan Phaolô II công bố hai thánh Syrilô và Mêtôđiô là bổn
mạng châu Âu cùng với thánh Biển Đức.
BÀI ĐỌC I: 1 V 11,
29-32; 12, 19
“Israel lìa bỏ nhà Đavít”.
Trích sách Các Vua
quyển thứ nhất.
Khi ấy, Giêroboam từ Giêrusalem đi ra, thì tiên tri Ahia, người Silô mặc áo
choàng mới, gặp ông dọc đường. Lúc đó chỉ có hai người ở ngoài đồng. Ahia cầm lấy
áo choàng mới ông đang mặc, xé ra làm mười hai phần và nói với Giêroboam rằng:
“Ông hãy cầm lấy mười phần cho ông, vì Chúa là Thiên Chúa Israel phán thế này:
‘Đây, Ta sẽ phân chia vương quốc từ tay Salomon, và Ta sẽ cho ngươi mười chi tộc.
Vì Đavít tôi tớ Ta, và vì thành Giêrusalem mà Ta đã lựa chọn trong mọi chi tộc
Israel, Ta sẽ dành cho Salomon một chi tộc’ “. Như thế, Israel lìa bỏ nhà Đavít
cho đến ngày nay. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 80, 10-11ab.
12-13. 14-15
Đáp: Ta là Chúa, là
Thiên Chúa của ngươi, ngươi hãy nghe Ta răn bảo (c. 11a & 9a).
Xướng:
1) Ở nơi ngươi đừng có một chúa tể nào khác cả, ngươi cũng đừng thờ tự một
chúa tể ngoại lai: vì Ta là Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, Ta đã đưa ngươi ra
ngoài Ai-cập. – Đáp.
2) Nhưng dân tộc của Ta chẳng có nghe lời Ta, Israel đã không vâng lời Ta
răn bảo. Bởi thế nên Ta để mặc cho chúng cứng lòng để chúng sinh hoạt tuỳ theo
sở thích. – Đáp.
3) Phải chi dân tộc của Ta biết nghe lời Ta, Israel biết theo đường lối của
Ta mà ăn ở: thì lập tức Ta sẽ triệt hạ kẻ thù của chúng, và để đập tan quân địch
của chúng, Ta sẽ trở tay! – Đáp.
ALLELUIA: Tv 24, 4c và
5a
Alleluia, alleluia!
– Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong
chân lý của Ngài. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mc 7, 31-37
“Người làm cho kẻ điếc nghe được
và người câm nói được”.
Trích Phúa âm theo
Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô qua Siđon đến gần biển Galilêa giữa miền
thập tỉnh, Người ta đem đến cho Người một kẻ câm điếc và xin Người đặt tay trên
kẻ ấy. Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh ta và bôi nước
miếng vào lưỡi anh. Đoạn ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: “Ephpheta!”,
nghĩa là “Hãy mở ra!”, tức thì tai anh ta mở ra và lưỡi anh ta được tháo gỡ, và
anh nói được sõi sàng. Chúa Giêsu liền cấm họ: đừng nói điều đó với ai cả.
Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục
mà rằng: “Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người
câm nói được”. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Hãy mở
ra
Michel-Angelo là một
trong những danh họa đã để lại nhiều tác phẩm bất hủ nhất, bất hủ vì giá trị
nghệ thuật siêu vượt thời gian đã đành, mà còn bất hủ vì sự sống động mà ông đã
mặc cho các tác phẩm của ông, điển hình là bức tượng Môsê. Người ta kể lại rằng
sau khi hoàn thành bức tượng này, Michel-Angelo đứng chiêm ngắm một cách say
sưa, và sự sống động của pho tượng làm ông ngây ngất đến độ ông đã cầm búa gõ
vào và thốt lên: "Hãy nói đi".
Quả thật, lời nói là một
trong những biểu lộ sống động nhất của sự sống. Khi chúng ta mở miệng thốt ra lời,
là lúc chúng ta muốn biểu lộ sự sống, đồng thời nói lên rằng chúng ta đang sống
cùng và sống với người khác. Sự hiện diện của chúng ta trong thế giới này cần
phải được xác nhận bằng tiếng nói của chúng ta. Những người câm điếc một phần
nào bị hạn chế trong sự liên lạc với thế giới xung quanh, sự hiện diện của họ dễ
bị người khác quên lãng. Nhưng đáng thương hơn, có lẽ là những người thấp cổ bé
miệng, những người mà tiếng nói không được nhìn nhận, những người bị tước đoạt
quyền được lên tiếng, quyền sống của họ gần như bị khước từ.
Sống xứng với phẩm giá
con người, đó là phải được có tiếng nói. Có lẽ đó cũng là điều mà Chúa Giêsu,
Ngôi Lời nhập thể cũng muốn khẳng định với chúng ta qua cuộc sống và cái chết của
Ngài. Phép lạ chữa người câm điếc như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay,
không chỉ là một chữa lành bệnh tật thân xác, mà còn là dấu chỉ của một thực tại
cao siêu hơn, đó là sự sống đích thực mà Chúa Giêsu muốn mang lại cho con người.
Khi phục hồi người câm điếc trong khả năng nghe và nói, có lẽ Chúa Giêsu muốn
nói với chúng ta rằng con người không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng Lời
Chúa nữa; con người chỉ có thể sống thực, sống trọn phẩm giá con người, khi nó
biết mở rộng tâm hồn đón nhận và sống Lời Hằng Sống của Chúa.
Cử chỉ Chúa Giêsu
trong phép lạ chữa lành người câm điếc, đã có một thời được Giáo Hội lặp lại
khi cử hành Bí tích Rửa tội. Thật thế, Bí tích Rửa tội cũng là một phép lạ
trong đó chúng ta được chữa lành và tái sinh trong đời sống mới. Trong phép lạ
này, Chúa Giêsu cũng nói với mỗi người chúng ta: Ephrata, Hãy mở ra. Hãy mở lớn
đôi tai để nghe được tiếng Ngài trong từng biến cố, từng giây phút của cuộc sống.
Hãy mở rộng con tim và đôi tay để cảm thông và chia sẻ với người khác. Hãy mở
miệng để cảm tạ, chúc tụng và loan báo tình thương Chúa; để nói những lời của
yêu thương và hòa bình, của cảm thông và tha thứ.
Chúa Giêsu mời gọi
chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Hằng Sống của Chúa, chính Ngài là lương
thực mang lại sự sống đích thực cho chúng ta. Xin cho sự sống ấy tràn ngập tâm
hồn chúng ta để chúng ta lớn lên trong tình yêu Chúa và không ngừng yêu thương,
liên đới, chia sẻ với mọi người xung quanh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu, Tuần V TN
Bài đọc: Gen
3:1-8; I Kgs 11:29-32, 12:19; Mk 7:31-37.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sa ngã và tội lỗi
Tại sao con người phạm
tội? Người Do-thái, qua những tài liệu của Qumran, quan niệm cuộc đời là bãi
chiến trường giữa Thiên Chúa và ma quỉ, giữa sự thiện và sự ác, giữa con cái của
ánh sáng và con cái của bóng tối. Thiên Chúa muốn con người làm những sự tốt
lành vì họ là con cái của ánh sáng. Ngược lại ma quỉ muốn con người làm những
điều gian ác, để thuộc về con cái của bóng tối giống như chúng. Con người bị giằng
co giữa hai bên, và phải xử dụng tự do để quyết định những gì nên làm và nên
tránh.
Để giúp con người trở
nên tốt lành và gìn giữ con người khỏi tội lỗi và sự chết, Thiên Chúa dạy dỗ để
con người biết phân biệt tốt khỏi xấu, và báo trước những hậu quả của các hành
động vâng phục hay bất tuân lệnh của Ngài. Ngược lại, để cám dỗ con người phạm
tội, ma quỉ phô trương ra những điều hấp dẫn bên ngoàii và ẩn giấu đi những điều
thiệt hại bên trong; vì nếu phô trương ra sự thật, làm sao chúng có thể lôi kéo
con người! Chúng làm con người hy vọng những gì Thiên Chúa nói là sai, và hậu
quả mà Thiên Chúa báo trước sẽ không như vậy.
Các Bài Đọc hôm nay
cho thấy tội lỗi xảy ra khi con người lạm dụng tự do để bất tuân lệnh truyền của
Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác giả Sách Sáng Thế Ký trình bày sự sa
ngã đầu tiên của Adong và Evà. Ông bà sa ngã vì đã tin vào những gì ma quỉ cám
dỗ qua con rắn, qua việc ăn trái cây biết thiện và ác mà Chúa đã ngăn cấm.
Trong Bài Đọc I, năm chẵn, Thiên Chúa chia cắt vương quốc của ông thành 12 mảnh:
Ngài trao cho Jeroboam 10 mảnh, dòng họ David chỉ còn giữ lại được một mảnh là
Judah, với thủ đô đặt tại Jerusalem. Đây là hậu quả của tội của vua Solomon, đã
bỏ Thiên Chúa để tôn thờ bụt thần của các bà vợ. Trong Phúc Âm, mặc dù Chúa
Giêsu đã ngăn cấm con dân chúng đừng loan truyền phép lạ Chúa làm, họ vẫn bất
tuân và loan truyền khắp nơi.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I (năm lẻ): Sa ngã đầu tiên của con người
1.1/ Ma quỉ và con người:
Ma quỉ được tác giả so sánh như loài rắn, vì sự ma lanh và quỉ quyệt của nó: “Rắn
là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng, mà Đức Chúa là Thiên
Chúa đã làm ra. Nó nói với người đàn bà: “Có thật Thiên Chúa bảo: “Các ngươi
không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?” Cám dỗ của
ma quỉ đầu tiên là phóng đại lệnh truyền của Thiên Chúa, với mục đích làm cho
con người thấy sự vô lý của lệnh truyền và sự khắc nghiệt của Thiên Chúa. Lần
cám dỗ đầu tiên, người đàn bà nhận ra sự thật, và đã sửa sai con rắn về tính
phóng đại của nó: “Trái các cây trong vườn, chúng tôi được ăn. Còn trái trên
cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: “Các ngươi không được ăn, không được động tới,
kẻo phải chết.””
1.2/ Ma quỉ biết rõ những
gì con người muốn: Kế tiếp, rắn cám dỗ con người về hậu quả của việc làm. Rắn
nói với người đàn bà: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào
ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần
biết điều thiện điều ác.” Chúng ta thấy sự ma lanh của rắn ở đây: Nó phủ nhận sự
chết, nhưng nhấn mạnh đến việc trở thành “những vị thần biết điều thiện điều
ác,” như tên Thiên Chúa gọi “cây cho biết thiện và ác.” Chúng biết con người
thích tự do, độc lập; và không muốn tùy thuộc vào ai trong việc làm quyết định.
Nếu biết thiện và ác, con người sẽ không cần lắng nghe những gì Thiên Chúa dạy
dỗ, và sẽ không lệ thuộc vào Thiên Chúa nữa. Con người sa ngã vì cả những hấp dẫn
bên ngoàii của trái cây và ước muốn được trở nên thần thánh bên trong: “Người
đàn bà thấy trái cây đó hấp dẫn để ăn, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm
cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở
đó với mình; ông cũng ăn.”
1.3/ Hậu quả của việc
bất tuân lệnh truyền của Thiên Chúa: “Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy
mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân. Nghe thấy tiếng Đức Chúa
là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình
trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt Đức Chúa là Thiên Chúa.”
Đúng như tên gọi của cây: ông bà biết điều thiện và điều ác; thay vì chỉ biết
điều thiện như trước đây. Ông bà không những biết điều xấu, mà còn biết xấu hổ
vì đã làm điều xấu.
2/ Bài đọc I (năm
chẵn): Này Ta sẽ giựt vương quốc khỏi
tay Solomon để trao cho ngươi mười chi tộc.
Vì vua Solomon đã phản
bội Thiên Chúa, Ngài quyết định chia cắt đất nước thành hai. Jeroboam được
Thiên Chúa chọn để lãnh đạo vương quốc Israel miền Bắc, trong khi con vua
Solomon là Rehoboam sẽ lãnh đạo vương quốc Judah miền Nam. Jeroboam là con ông
Nebat, người Ephraim, thuộc Zeredah; bà Zerua mẹ ông là một quả phụ. Ông đã từng
phục vụ vua Solomon. Vua thấy Jeroboam là người có khả năng và đảm đang công việc,
nên đặt chàng phụ trách toàn thể dân công nhà Giuse.
2.1/ Hành động biểu tượng
của việc xé áo thành 12 mảnh: “Một hôm, khi Jeroboam từ Jerusalem đi ra, thì dọc
đường gặp ngôn sứ Ahijia, người quê ở Shiloh; ông này khoác một chiếc áo choàng
mới. Lúc ấy chỉ có hai ông ở ngoài đồng. Ông Ahijia lấy chiếc áo mới mình đang
mặc, xé ra làm mười hai mảnh.” Ngôn sứ của Thiên Chúa không chỉ nói những gì
Thiên Chúa muốn, nhưng đôi khi còn biểu tỏ những hành động biểu tượng như việc
xé áo thành 12 mảnh hôm nay. Mục đích là để cho dân chúng hiểu rõ hơn những gì
Thiên Chúa muốn.
2.2/ Ý nghĩa của việc
xé áo: Rồi ông nói với Jeroboam: “Anh cầm lấy mười mảnh, vì Đức Chúa, Thiên
Chúa Israel phán như sau: “Này Ta sẽ giựt vương quốc khỏi tay Solomon để trao
cho ngươi mười chi tộc. Nó vẫn còn được một chi tộc, vì nể David, tôi tớ Ta, và
vì Jerusalem thành đô Ta đã chọn trong tất cả chi tộc Israel.” Một người có thể
đặt câu hỏi ngay sau khi đọc những lời này: Vẫn còn thiếu một chi tộc nữa. Lý
do có thể là lúc đó chi tộc Simeon đã được tháp nhập thành một với chi tộc
Judah.
Nhìn lại lịch sử, vua
David có công thống nhất 12 chi tộc của Israel; nhưng sự thống nhất này chỉ được
khoảng 80 năm: 40 năm cai trị của David và 40 năm cai trị của Solomon. Sau thời
của Solomon, đất nước lại bị chi cắt làm hai: 10 chi tộc phía Bắc thành lập lên
vương quốc Israel với thủ đô đặt tại Samaria, và hai chi tộc phía Nam, Judah và
Simon, làm thành vương quốc Judah, với thủ đô đặt tại Jerusalem. Sự chia cắt
này còn tồn tại cho tới ngày nay.
Giống như trường hợp của
vua David, tội lỗi cá nhân không chỉ ảnh hưởng đến nhà vua, nhưng còn ảnh hưởng
đến gia đình và quốc gia; tội của vua Solomon cũng thế, nó không chỉ ảnh hưởng
đến việc tiêu tan quyền lực của nhà vua, nhưng còn ảnh hưởng đến sự đoàn kết của
các chi tộc của Israel.
3/ Phúc Âm: Chúa Giêsu chữa một người ngọng và điếc.
3.1/ Cách Chúa chữa bệnh:
Trình thuật kể: “Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ
tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một
tiếng và nói bằng tiếng Aramaic: “Ephphatha!” nghĩa là: Hãy mở ra! Lập tức tai
anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng.” Một người có
thể nhìn thấy sự khác lạ của phép lạ này nếu đem so sánh với các phép lạ khác;
vì trong hầu hết các phép lạ khác, người bệnh cứ ở vị trí của mình, Chúa Giêsu
chỉ cần phán là người bệnh được khỏi. Sở dĩ Chúa phải kéo riêng anh ra một nơi,
vì anh điếc không nghe được những gì Ngài truyền; và cũng để tránh việc anh có
thể làm trò cười cho thiên hạ khi anh không hiểu ý Ngài. Lý do tại sao Chúa phải
dùng những cử động có lẽ cho lợi ích của bệnh nhân, để anh biết nguyên nhân của
bệnh.
3.2/ Lệnh truyền của
Chúa Giêsu và phản ứng của dân chúng:
(1) Tại sao Chúa Giêsu
ngăn cấm họ không được rao truyền? Trong Tin Mừng Marcô, chúng ta thường thấy
Chúa Giêsu ngăn cấm dân chúng không cho loan truyền những phép lạ Ngài làm, vì
lý do “bí mật của Đấng Thiên Sai.” Người Do-thái, cũng như đa số con người, dễ
chấp nhận một Đấng Thiên Sai uy quyền, làm các phép lạ vĩ đại để cứu thóat con
người, và giải phóng quốc gia họ khỏi quyền lực ngọai bang. Họ không thể chấp
nhận một Đấng Thiên Sai hiền lành, chịu đánh đòn và đóng đinh trên Thập Giá, và
giải thóat con người bằng yêu thương và chịu đau khổ. Chúa Giêsu làm phép lạ vì
thương dân, không muốn dân chịu đau khổ vì bệnh tật; đồng thời Ngài cũng muốn
cho dân tin vào Ngài qua uy quyền làm phép lạ. Điều Ngài không muốn là dân
chúng chỉ quen với hình ảnh một Đấng Thiên Sai uy quyền, không để ý đến những
điều Ngài giảng dạy, và mất niềm tin khi thấy Ngài chịu treo trên Thập Giá.
(2) Phản ứng của dân
chúng: “Nhưng Người càng truyền bảo, họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc,
và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và
kẻ câm nói được.”” Dân chúng nghĩ việc loan truyền những điều Chúa làm là phải,
để mọi người có cơ hội biết đến và tin vào Ngài. Chúa Giêsu lại không muốn những
niềm tin đặt căn bản trên phép lạ, vì nó sẽ phai lạt nhanh chóng khi không còn
phép lạ nữa. Ngài cần những niềm tin đặt trên hiểu biết và yêu thương, mới có
thể giúp con người vượt qua những sóng gió đau khổ của cuộc đời. Chỉ cần quan
sát cảnh tượng xảy ra tượng xảy ra dưới chân cây Thập Giá, một người có thể cảm
thấy sự mong manh của những niềm tin đặt căn bản trên phép lạ; cũng như những
niềm tin đặt trên cơm bánh.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Thiên Chúa dựng nên
mọi sự tốt lành, và những gì Ngài truyền cho con người phải giữ là cho sự tốt
lành của con người. Chúng ta cần tuân giữ để có được và bảo vệ những tốt lành
đó.
– Mọi sự xấu xa và tội
lỗi là do ma quỉ và con người gây nên, vì con người đã không biết xử dụng tự do
Thiên Chúa ban để tuân giữ những gì Thiên Chúa truyền dạy.
– Chúng ta không thắng
được ma quỉ bằng sức riêng của mình; chúng ta cần được hướng dẫn bởi Lời Chúa để
nhận ra tình yêu và đường lối của Thiên Chúa cho con người.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
14/02/2020 – THỨ SÁU TUẦN 5 TN
Th. Xy-ri-lô, đan sĩ và Mê-tô-đi-ô, giám mục
Mc 7,31-37
ÉP-PHA-TA! HÃY MỞ RA!
Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói:
“Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc
lại. Anh ta nói được rõ ràng. (Mc 7,34-35)
Suy niệm: Trong truyện ngắn Máu Cá (tức máu lạnh), nhà văn
Nguyễn Minh Châu kể chuyện một bà mẹ trẻ mất con ở ga Hàng Cỏ, kêu la thảm thiết,
nhưng chẳng ai đoái hoài. Nhà văn xin một nhân viên trực rao trên loa, người này
cũng chẳng nói chẳng rằng. Cả ngàn người trên ga Hàng Cỏ như điếc, như câm trước
nỗi khổ của người mẹ mất trí vì mất con! Đức Giê-su không dửng dưng trước đau
khổ của con người; Ngài đã chữa lành cho người câm điếc. Lời tán dương của đám
đông gợi nhớ lại lời kết luận của sách Sáng Thế về công trình sáng tạo (1,31).
Đức Giê-su đến để phục hồi sự tốt đẹp của công cuộc sáng tạo: một thế giới
trong đó mọi người tin nhận và sống tư thế con thảo của Cha trên trời, nhìn vào
mặt người khác và nhận ra họ là anh em, chị em của mình.
Mời Bạn: Bệnh điếc và câm tinh thần khiến bạn mất khả năng sống
mối tương quan với Chúa và người khác trong Nước Trời của Đức Giê-su. Hãy xin
Chúa nói “Ép-pha-ta” để bạn biết lắng nghe tiếng Chúa và tiếng của người lân cận,
cũng như biết mở miệng loan báo Tin Mừng và nói những điều tốt đẹp, đem lại niềm
vui cho người khác.
Sống Lời Chúa: Tôi sẽ tập sự hoán cải: đổi mới cái nhìn về cuộc đời,
thế giới, người chung quanh, để hợp với tư cách công dân một Nước Trời công lý,
hòa bình, và yêu thương của Đức Giê-su.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin mở tai con, để con biết lắng
nghe Lời Chúa. Xin mở miệng con, để con mạnh dạn loan báo Tin Mừng. Xin mở mắt
con, để con nhận ra Chúa nơi người anh em.
(5 Phút Lời Chúa)
Suy Niệm : Nói được
rõ ràng
Suy niệm :
Khi đến thăm những trẻ em khuyết tật,
ta thấy mình dễ tiếp xúc, gần gũi các em mù,
hơn các em bị câm điếc.
Thật khó làm cho các em câm điếc hiểu được chúng ta,
và chúng ta cũng không hiểu được điều các em diễn tả.
Ðôi bên cứ như ở hai thế giới, không gặp được nhau.
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
Ðức Giêsu chữa một người vừa ngọng vừa điếc.
Người ngọng là người gặp khó khăn khi trình bày,
khi phải diễn đạt bằng lời nói cho người khác hiểu.
Ta có cảm tưởng lưỡi anh bị một sợi dây trói buộc.
Ðức Giêsu đã đụng đến lưỡi anh,
và sợi dây đó được tháo cởi.
Giờ đây anh có thể nói được tự nhiên và rõ ràng.
Nói sao để người khác hiểu được mình,
đó là ước mơ của nhiều người trong chúng ta.
Nhưng ta lại thấy có cái gì đó trói buộc mình
khiến mình ngần ngại, sợ hãi, né tránh...
Nhiều người đã trở nên ngọng hay câm
vì đã trải qua những kinh nghiệm đau đớn:
kinh nghiệm bị châm chọc, bị khinh miệt, bị khước từ...
Bao kinh nghiệm làm con người mất tự tin và khép lại.
Có những đe dọa ám ảnh làm con người câm nín.
Epphatha, xin hãy mở miệng con
để con có thể hồn nhiên vén mở thế giới của mình,
hầu gặp được sự cảm thông và nâng đỡ.
Nếu bệnh ngọng làm chẳng ai hiểu tôi,
thì bệnh điếc làm tôi chẳng hiểu ai.
Tôi như người đang xem một phim trên truyền hình
mà máy đột nhiên mất tiếng.
Tôi chỉ thấy hành động, nhưng không hiểu được ý nghĩa.
Chẳng ai muốn mình bị điếc hay lãng tai,
nhưng trong thực tế, ta vẫn có thể mắc bệnh này,
nghĩa là mất khả năng lắng nghe người khác.
Chúng ta thường chỉ nghe điều mình muốn nghe,
hay lắm khi nghe điều người khác nói
nhưng lại hiểu dưới cái nhìn chủ quan của mình.
như thế vẫn là chưa hiểu được điều người kia muốn nói.
Nghe bằng tai, không đủ.
Cần lắng nghe bằng cả trái tim.
Chỉ trái tim yêu thương mới giúp ta hiểu đúng, hiểu đủ,
hiểu ý nghĩa đàng sau lớp vỏ ngôn từ.
Epphatha, xin giúp con ra khỏi cái tôi cứng cỏi,
ra khỏi những thành kiến, những suy nghĩ cứng nhắc,
để nghe được cái tôi của anh em.
Thế giới hôm nay thiếu cảm thông và đối thoại,
vì có nhiều người bị câm điếc về mặt tinh thần.
Bệnh này làm người ta thành những hòn đảo,
chẳng có gì để cho, chẳng có gì để nhận,
để rồi chết dần trong sự nghèo nàn của mình.
Xin cho con đừng câm điếc trước Thiên Chúa và anh em,
đồng thời giúp người khác ra khỏi sự câm điếc của họ.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo ý Chúa,
làm chân tay cho những người què cụt,
làm đôi mắt cho ai phải đui mù,
làm lỗ tai cho những người bị điếc,
làm miệng lưỡi cho người không nói được,
làm tiếng kêu cho người chịu bất công.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đồng lúa,
để đem cơm cho người đói đang chờ,
và đem nước cho người họng đang khô,
đem thuốc thang cho người đang đau ốm,
đem áo quần cho người đang trần trụi,
đem mền đắp cho người rét đang run.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đường vắng,
thắp đèn soi cho ai bước trong đêm,
đốt lửa ấm cho những ai giá lạnh,
truyền cảm thông cho lữ khách đơn côi,
nâng phẩm giá cho kẻ đời chà đạp,
đem tự do cho những kiếp đọa đày.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con vào thôn xóm,
đem an hòa cho những ai bất thuận,
đem thanh bình cho kẻ sống âu lo,
đem ủi an cho người đang sầu khổ,
đem niềm vui cho những ai bất hạnh,
đem vận may cho người gặp rủi ro.
Lạy Chúa, xin cứ đặt con như một sự tình cờ,
đem may mắn cho những ai gặp được,
giữa đường đời khi lỡ bước bơ vơ,
cứ cho con đừng bao giờ khiếp sợ:
giữa biển đời mang con tim núi lửa
với đôi tay êm ái của mẹ hiền.
Lạy Chúa, xin cứ dùng con làm tất cả
cho mọi người được hạnh phúc yên vui ;
còn phần con xin gởi hết nơi Ngài
là Thiên Chúa, Tình Yêu và Lẽ Sống.
Ngài cho con tất cả niềm hy vọng
để tin yêu và vui sống trọn đời. Amen. (NCĐ)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
14 THÁNG HAI
Quí Trọng Các Bậc
Lão Thành
Tuổi già là một giai
đoạn sống đầy nỗ lực và yêu thương, vì thế, chúng ta phải nhiệt tình ủng hộ tất
cả những phong trào ủy lạo người cao tuổi – để giúp giải phóng cho người già khỏi
cảnh sống lầm lũi, chán chường, cô đơn. Chúng ta phải giúp người già phát huy
vai trò của họ là nguồn khôn ngoan cho các thế hệ hậu sinh, là chứng tá của hy
vọng, và là những tấm gương của lòng bác ái.
Môi trường đầu tiên mời
gọi ta giúp đỡ người già chính là tại gia đình. Sự khôn ngoan và kinh nghiệm của
các bậc lão thành là một kho tàng cho các đôi vợ chồng trẻ. Đứng trước những thử
thách ban đầu trong cuộc sống hôn nhân của mình, các đôi vợ chồng trẻ có thể
tìm thấy nơi ông bà cha mẹ mình những người bạn tâm tình để mình chia sẻ và tìm
kiếm sự chỉ dạy. Trong những gia đình mà cha mẹ thường vắng mặt – điều khá phổ
biến trong thời đại hôm nay – các cháu sẽ tìm thấy nơi ông bà mình sự bù đắp là
chính mẫu gương sống và sự săn sóc ân cần mà ông bà dành cho mình.
Trong xã hội, chúng ta
luôn luôn tín nhiệm sự khôn ngoan của những người từng trải – bởi các vị ấy có
một bề dày kinh nghiệm mà chúng ta không có được. Vâng, chúng ta cần những người
cao tuổi giúp đỡ mình bằng sự khôn ngoan và kinh nghiệm của các ngài. Với sự
giúp đỡ của các ngài, chúng ta có thể xây dựng một xã hội khôn ngoan hơn và
quân bình hơn.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 14/2
Thánh Cyrillô, Đan
Sĩ,
và Thánh Mêtôđiô,
Giám mục.
1 V 11,29-32.12,19;
Mc 7,31-37
Lời Suy Niệm: “Ông ấy làm việc
gì cũng tốt đẹp cả; ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.”
Khi Chúa Giêsu chữa người vừa điếc vừa câm với những dấu chỉ và lời nói rất là
đơn sơ, làm cho mọi người chứng kiến đều cảm nhận được, và đã cất tiếng ngợi
khen: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả; ông làm cho kẻ điếc nghe được,
và kẻ câm nói được.”
Lạy Chúa Giêsu, trong đời sống Kitô hữu của chúng con cũng cần có những dấu chỉ
và biểu tượng để sống và trao cho nhau.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 14-02
Thánh CYRILLÔ Tu Sĩ
và thánh MÊTÔĐIÔ
Giám mục
(….869 và 884 )
Cyrillô và Mêtođiô thuộc
về một gia đình nghị viện miền Thessalônica. Triều đình đã muốn xem người con
trưởng sáng sủa xinh đẹp như thần đồng. Nhưng đối với anh sự khôn ngoan đáng
quí chuộng hơn mọi hư danh trần thế. Người con út có tính cách vừa trầm tư vừa
hung hăng hay lý sự nữa. Sau khi theo học ở tại Constantinople, hai anh em đều
chíếm giữ những chức vụ thuộc dân sự. Cyrillô làm giáo sư triết học. Sau cùng
thì lần lượt họ đạt tới lý tưởng làm linh mục.
Nhà vua Moravia xin
hoàng đế gửi các thừa sai tới. Vì biết tiếng Slave nên hai anh em đã được chọn.
Các Ngài đã phát minh ra mẫu tự Slave cũng như văn chương người Slave sau này
được mọi người chấp thuận. Cyrillô còn học tiếng Hipri để tranh luận với người
Do thái. Hai anh em thừa sai thực hiện hoạt động vừa chính trị vừa tôn giáo.
Các Ngài sẽ tổ chức Kitô giáo ở Bulgaria, Moravia và nơi những dân Slave mà bước
chân đế quốc đặt tới.
Một giai thoại chứng tỏ
tính khí mạnh mẽ và kỳ khôi của Mêtođiô. Ngài chỉ đích danh được thù nhân người
Đức của mình để phá tan họ. Ngài nói:- Các ông chống lại sắt thép, các ông sẽ bể
sọ. Và đầy nhiệt thành, Ngài lau mồ hôi và kể lại một ngụ ngôn:
“Người ta hỏi một triết
gia, tại sao ông lại toát mồ hôi như vậy ?”
Và Ngài thêm vào câu
trả lời: – Chính vì tôi đã phải tranh luận với những người đần độn”
Các giám mục Đức chống
lại việc nhà truyền giáo đã đưa ngôn ngữ Slave vào phụng tự mà các Ngài coi như
dụng cụ tuyệt hảo trong công cuộc chinh phục của mình. Hai anh em phải đi Roma
để biện minh cho mình và được Đức Nicola I ưng thuận.Vị kế nhiệm Ngài còn tấn
phong Ngài làm giám mục nữa. Cyrillô đã qua đời tại Roma năm 869 lúc 42 tuổi.
Mêtodiô còn sống thêm
hai mươi năm để truyền giáo cho các dâ tộc Slave. Ngài chịu đau khổ nhiều, bị một
thẩm đoàn giám mục miền Bavière tố cáo lạc giáo và bị giam giữ hai năm trong một
nơi xa vắng lạnh lẽo. Ngài lại bị mang ách, luôn bị bách hại, bị tố cáo tới
Roma là đã làm sai lạc đức tin. Hai lần Ngài phải đi biện minh với Đức Thánh
cha và Đức Thánh cha đã coi những lời tố cáo là hư từ. Hoàng đế Basiliô xin
Ngài đi Consttantinople là nơi Ngài được tiếp đón nồng hậu. Cũng vị vua này đã
muốn gửi Ngài trở lại Russi và Bulgaria, nhưng thánh nhân trở lại Moravia và
qua đời tại đó năm 884.
Hai anh em đã mang văn
minh lại cho dân Slave khi truyền bá đức tin cho họ. Các Ngài đồng thời vừa là
các tông đồ vừa là các văn hào tiên khởi của dân tộc Slaves.
(daminhvn.net)
14 Tháng Hai
Hạt Thóc Dâng Tặng Ðức Vua
Có lẽ chúng ta đã
có dịp đọc bài thơ sau đây của đại thi hào Tagore: “Có một người hành khất ngồi
bên vệ đường. Hôm đó, Ðức Vua sẽ ngự giá đi qua ngôi làng. Người hành khất cố gắng
lê lết đến trước cổng làng, lòng nhủ thầm: “Ðây là dịp may duy nhất đời tôi”. Từ
đằng xa, khi vừa thấy xa giá xuất hiện, anh đã cố gắng đưa tay lên vẫy chào. Có
ngờ đâu, trước sự sửng sốt của mọi người, khi xa giá vừa đến trước cổng làng, Ðức
Vua đã cho dừng xe lại và chính ông là người đưa tay ra để xin hành khất bố
thí.
Người hành khất bèn
đưa tay vào trong chiếc bị cũ kỹ nhơ bẩn của mình để kéo ra một hạt thóc. Anh
trịnh trọng đặt hạt thóc vào trong tay Ðức Vua. Ðức Vua tiếp nhận món quà từ
tay người hành khất và biến đi giữa cát bụi mịt mù.
Chiều đến, khi về tới
nhà, người hành khất mới mở chiếc bị của mình ra. Lạ lùng thay, giữa muôn hạt
thóc, anh nhận ra một hạt vàng óng ánh. Lúc bấy giờ, người hành khất mới khốc nức
nở hối tiếc: “Phải chi ta đã cho Ðức Vua tất cả những gì ta có…”
Thiên Chúa đối xử với
chúng ta cũng giống như vị Vua đối xử với người hành khất. Ngài muốn trao ban
cho chúng ta tất cả kho báu trên Thiên Ðàng. Qua người con một của Ngài là Ðức
Giêsu Kitô, Thiên Chúa muốn trao ban cho chúng ta chính Sự Sống của Ngài. Qua Sự
Sống chúng ta đã lãnh nhận, qua sự hiện diện của những người anh em chúng ta,
qua ngay cả những thất bại và tội lỗi của chúng ta, Thiên Chúa vẫn luôn nhắc đến
với từng người chúng ta như một người hành khất. Chúng ta tưởng chúng ta đang
chìa tay van xin trước. Kỳ thực, chính Ngài mới là kẻ không ngừng đưa tay ra để
xin chúng ta mở rộng đôi tay và quả tim của chúng ta. Tạo dựng chúng ta theo
hình ảnh của Ngài, nghĩa là như những con người có tự do, Thiên Chúa vẫn tiếp tục
tôn trọng chúng ta. Ngài muốn trao ban tất cả cho chúng ta vì yêu thương. Nhưng
cũng chính vì yêu thương, cho nên Ngài không làm cách nào khác hơn là van lơn,
kêu mời chúng ta. Ngài chờ đợi nơi chúng ta một cái gật đầu, một hạt thóc nhỏ
rút từ trong chiếc bị khốn cùng của chúng ta. Một nghĩa cử nhỏ mọn làm cho người
anh em, một chút tin yêu hy vọng giữa bao nhiêu thử thách khó khăn của cuộc sống,
một chút khiêm tốn và sám hối sau những lần vấp nga: đó là những hạt thóc bé nhỏ
mà chúng ta có thể trao tặng cho Chúa để từ đó lãnh nhận trở lại tất cả kho
tàng Yêu Thương của Ngài.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét