Trang

Chủ Nhật, 16 tháng 2, 2020

17-02-2020 : THỨ HAI - TUẦN VI THƯỜNG NIÊN


17/02/2020
 Thứ Hai tuần 6 thường niên


Bài Ðọc I: (Năm II) Gc 1, 1-11
"Lòng tin của anh em được thử thách, rèn luyện đức kiên nhẫn, để anh em nên hoàn hảo và trọn vẹn".
Khởi đầu bức thơ của Thánh Giacôbê Tông đồ.
Giacôbê, đầy tớ của Thiên Chúa và của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, kính chào mười hai chi tộc sống phân tán khắp nơi. Anh em thân mến, anh em hãy vui mừng khi gặp mọi thử thách, anh em biết rằng lòng tin được thử thách rèn luyện đức kiên nhẫn. Còn kiên nhẫn phải đưa đến hành động hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo và trọn vẹn, không khiếm khuyết điều gì.
Nếu ai trong anh em thấy mình khiếm khuyết sự khôn ngoan, thì hãy xin cùng Thiên Chúa là Ðấng rộng lượng ban ơn cho mọi người mà không quở trách, và Người sẽ ban cho. Nhưng hãy lấy lòng tin tưởng mà xin, đừng hoài nghi, vì ai hoài nghi, thì giống như sóng biển bị gió cuốn đi và giao động. Con người hai lòng, do dự trong mọi đường lối, con người ấy đừng mong lãnh nhận gì nơi Chúa.
Người anh em khó hèn, hãy hiên ngang vì được suy tôn; còn người giàu mà trở nên khó hèn, thì cũng vậy, vì chưng ai nấy cũng sẽ qua đi như hoa cỏ. Mặt trời mọc lên nóng bức, làm cho cỏ héo hoa tàn, và vẻ đẹp của nó cũng tiêu tan; người giàu có cũng vậy, bôn ba đến mấy, cũng sẽ suy tàn.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 118, 67. 68. 71. 72. 75. 76.
Ðáp: Nguyện Chúa xót thương cho con được sống (c. 77a).
Xướng: 1) Trước khi bị khổ, con đã lạc lầm, nhưng giờ đây, lời sấm của Ngài con xin tuân. - Ðáp.
2) Chúa là Ðấng tốt lành và nhân hậu, xin dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.
3) Con bị khổ nhục, đó là điều tốt, để cho con học biết thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.
4) Ðối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn. - Ðáp.
5) Lạy Chúa, con biết sắc dụ Ngài công minh, và Ngài có lý mà bắt con phải khổ. - Ðáp.
6) Xin Chúa tỏ lòng thương hầu ủy lạo con, theo như lời đã hứa cùng tôi tớ Chúa. - Ðáp.
  
Alleluia: Ga 15, 15b
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.

Phúc Âm: Mc 8, 11-13
"Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, các người biệt phái xuất hiện và bắt đầu tranh luận với Chúa Giêsu. Họ xin Người một điềm lạ trên trời để thử Người. Người thở dài mà nói: "Tại sao thế hệ này lại xin điềm lạ? Quả thật, Ta bảo các ông hay: Sẽ chẳng cho thế hệ này điềm lạ nào". Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống thuyền sang bờ bên kia.
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm: Dấu lạ của tình thương
Thánh Marcô đặt cuộc tranh luận giữa Chúa và những người Biệt phái, sau một loạt phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện khi bắt đầu sứ vụ công khai của Ngài. Phép lạ mới nhất là việc hóa bánh và cá ra nhiều cho đám đông theo Ngài. Những người Biệt phái đã bắt đầu nghe nói đến hoặc chính mắt họ chứng kiến các phép lạ của Chúa Giêsu, nhưng họ không tin.
Ở đây, chúng ta thấy rõ tương quan giữa phép lạ và lòng tin của con người. Chúa Giêsu không làm phép lạ như một trò ảo thuật; Ngài làm phép lạ trước hết là để biểu lộ quyền năng của Thiên Chúa, loan báo những dấu chỉ của Nước Trời và kêu gọi lòng tin nơi con người, do đó phép lạ là một lời mời gọi hơn là một cưỡng bách.
Khi những người Biệt phái đòi hỏi một dấu lạ, thái độ đó gợi lại sự thử thách mà người Do thái trong thời kỳ lang thang trong sa mạc cũng đã đòi hỏi nơi Thiên Chúa; thái độ đó cũng tương tự thái độ của Satan khi đến cám dỗ Chúa Giêsu. Thật thế, Satan đã bảo Chúa Giêsu hãy gieo mình xuống từ thượng đỉnh Ðền thờ như một cử chỉ vừa ngoạn mục vừa cả thể. Nhưng Chúa Giêsu đã mượn lời của chính Thiên Chúa nói với dân Do thái trong Cựu Ước để khước từ cám dỗ của Satan: "Ngươi chớ thử thách Thiên Chúa là Chúa của ngươi". Trước sự cứng lòng tin của những người Biệt phái, Chúa Giêsu đã khước từ mọi phép lạ, hay đúng hơn, Ngài không làm phép lạ nào để nói với họ hơn là cái chết của Ngài trên Thập giá, bởi vì chỉ cái chết ấy mới có thể lôi kéo mọi người về với Thiên Chúa.
Giáo Hội tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Chúa Kitô; qua cuộc sống của mình, Giáo Hội cũng đang lặp lại những phép lạ của Chúa Giêsu như một lời mời gọi. Thế nhưng, đâu là dấu chỉ đáng tin cậy nhất mà Giáo Hội có thể chứng tỏ cho con người thời nay? Với những phát minh mỗi ngày một tân tiến, con người thời nay dường như vẫn đang tự hào thực hiện được nhiều phép lạ trong mọi địa hạt. Do đó, đối với con người ngày nay, không một dấu lạ nào đáng tin hơn nơi Giáo Hội cho bằng chính cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá mà Giáo Hội có thể lặp lại nơi chính mình. Giáo Hội chỉ đáng tin cậy khi Giáo Hội khước từ vẻ hào nhoáng bên ngoài, để mặc lấy thái độ vâng lời và phục vụ của Chúa Kitô; Giáo Hội chỉ đáng tin cậy khi Giáo Hội là thể hiện của một tình yêu vô vị lợi, một tình yêu của Ðấng sẵn sàng hy sinh và chết cho người mình yêu.
Dấu lạ cả thể mà có lẽ con người thời nay đang chờ đợi nơi Giáo Hội chính là dấu lạ của tình thương. Nói như Staline, thế giới này chỉ cần mười người như thánh Phanxicô Assisi, thì cũng đủ để thay đổi bộ mặt. Người ta mãi mãi vẫn nhớ khuôn mặt từ tốn, nhân hậu của một Gioan XXIII; hoặc chỉ như một ánh sao băng, người ta khó mà quên được nụ cười hiện thân của lòng nhân từ nơi Ðức Gioan Phaolô I; lòng hy sinh quảng đại của Mẹ Têrêsa Calcutta cũng là một dấu lạ cả thể mà con người thời đại đang tìm thấy nơi Giáo Hội.
Trong sự đóng góp khiêm tốn của mình trong cuộc sống hiện tại, xin Chúa cho mỗi Kitô hữu chúng ta luôn ý thức rằng mình đang là một dấu hỏi, một lời mời gọi đối với những người chưa nhận biết Chúa Kitô.
(Veritas Asia)

LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Hai Tuần VI TN
Bài đọc: Jam 1:1-11; Mk 8:11-13.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cần khiêm nhường biết mình trong mối liên hệ với Thiên Chúa.

Thiên Chúa không mắc nợ gì với con người; trái lại, con người mắc nợ mọi sự với Thiên Chúa. Khi con người tin tưởng nơi Thiên Chúa, con người không thêm điều gì cho Ngài; nhưng niềm tin nơi Thiên Chúa sẽ giúp con người đạt tới cuộc sống đời đời. Cũng thế, khi con người làm việc thờ phượng như tham dự Thánh Lễ, đọc kinh, dâng lễ vật, con người chẳng thêm gì cho Thiên Chúa; nhưng con người sẽ nhận được những lợi ích từ các việc làm này.
Các Bài Đọc hôm nay cho thấy những quan niệm sai của con người trong mối liên hệ với Thiên ChúaTrong Bài Đọc I, năm chẵn, tác giả Thư Giacôbê quả quyết đức tin của con người cần bị thử thách trăm bề để đức tin càng ngày càng vững mạnh, toàn hảo, và không gì có thể lay chuyển được. Trong Phúc Âm, các kinh-sư thách thức Chúa Giêsu hãy làm phép lạ để họ có thể tin Ngài là Thiên Chúa; Chúa Giêsu thở dài vì thái độ thách thức của họ. Ngài từ chối không làm bất cứ phép lạ nào cho họ.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I (năm chẵn): Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều.

1.1/ Đức tin cần được thử thách: Giống như người lực sĩ trong tiến trình tập luyện cần được thử thách, hay một học sinh trong tiến trình học tập cần phải qua những kỳ thi cử, đức tin của con người cũng cần phải trải qua những thử thách. Mục đích của việc thử luyện đức tin không phải để con người ngã gục trước thử thách nhưng là:
(1) Để tạo lòng kiên nhẫn: Tác giả khuyến khích các tín hữu Do-thái khắp nơi: "Thưa anh em, anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn." Đức kiên nhẫn là nhân đức đầu tiên phải tập luyện và là mẹ các nhân đức, vì khi một khi đã có nhân đức này, con người sẽ luyện tập các nhân đức khác một cách dễ dàng hơn.
(2) Để kiện toàn lòng tin: Đức tin là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người; nhưng để kiện toàn, con người phải kiên nhẫn luyện tập, sao cho tới chỗ toàn bích như tác-giả ao ước cho các tín hữu: "Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì." Mục đích của việc luyện tập là để có một đức tin hoàn hảo: vững bền, toàn hảo, không thiếu một điều gì. Khi một người đã có đức tin như thế, họ có thể vượt qua mọi thử thách của cuộc đời.

1.2/ Để kiện toàn đức tin, con người cần đến ơn thánh của Thiên Chúa: Khi phải đương đầu với thử thách đau khổ, con người thường có khuynh hướng trốn tránh hay xin Chúa làm phép lạ cất đi. Để tránh rơi vào những thái độ này, tác-giả khuyên: "Nếu ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan, thì hãy cầu xin Thiên Chúa, Người sẽ ban cho. Vì Thiên Chúa ban cho mọi người cách rộng rãi, không do dự." Sự khôn ngoan giúp con người nhìn ra thử thách là điều cần thiết để luyện tập đức tin. Tuy nhiên, khi cầu xin cho có khôn ngoan, con người cần phải có lòng tin vững mạnh. Tác giả khuyên: "Nhưng người ấy phải cầu xin với lòng tin không chút do dự, vì kẻ do dự thì giống như sóng biển bị gió đẩy lên vật xuống." Khi đã được Chúa ban khôn ngoan để nhận ra phải vượt qua thử thách, người ấy cứ mạnh dạn tiến tới; đừng đổi ý lại cầu xin Chúa cất thử thách đi cho.
Một trong những thử thách của đức tin là những thăng trầm trong cuộc sống con người. Tác giả khuyên các tín hữu hãy tự hào trong Chúa, cả khi được nâng lên cũng như khi bị hạ xuống. Đừng ai tự hào về của cải mình có vì: "họ sẽ qua đi như hoa cỏ. Quả thế, mặt trời mọc lên toả ra sức nóng làm cho cỏ khô, khiến hoa rụng xuống, vẻ đẹp tiêu tan. Người giàu có cũng sẽ héo tàn như vậy trong các việc họ làm."

2/ Phúc Âm: Niềm tin dựa trên phép lạ.

2.1/ Niềm tin dựa trên các phép lạ: Mỗi quốc gia trên địa cầu đều có những sắc thái riêng của mỗi dân tộc; Thánh Phaolô nói rất đúng về người Do-thái: “Người Do-thái tìm kiếm dấu lạ; trong khi người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan.” Truyền thống Do-thái đã thêu dệt sẵn kiểu mẫu một Đấng Thiên Sai: Ngài là Đấng uy quyền, có khả năng làm những dấu lạ lùng trong trời đất. Ngài là Chúa của người Do-thái, nên Ngài sẽ giúp họ đánh đuổi ngoại bang, và cai trị toàn thế giới. Với kiểu mẫu có sẵn của Đấng Thiên Sai, những người Pharisees kéo đến với Chúa Giêsu, để thách thức Người làm một dấu lạ từ trời.

2.2/ Niềm tin dựa trên sự hiểu biết chắc chắn về Thiên Chúa: Tại sao Chúa Giêsu không chịu làm phép lạ? Thứ nhất, Ngài đã làm không biết bao nhiêu phép lạ rồi. Những người Pharisees này hoặc đã từng chứng kiến, hoặc đã nghe biết về những phép lạ Ngài đã làm. Thứ đến, phép lạ chỉ giúp khai mở niềm tin. Khi Chúa Giêsu chữa lành các bệnh nhân, Ngài nhắc nhở cho họ những gì tiên-tri Isaiah nói về Đấng Thiên Sai, giờ đây được hiện thực nơi Ngài; mục đích là để giúp họ tin vào Ngài. Hơn nữa, niềm tin chỉ dựa trên dấu lạ sẽ không vững chắc. Họ cần một sự hiểu biết chắc chắn về Thiên Chúa và sự quan phòng của Ngài; chứ không phải theo một Thiên Chúa và các kế hoạch do họ dựng nên. Nếu niềm tin chỉ dựa trên phép lạ, niềm tin sẽ lung lay và biến mất khi không nhìn thấy phép lạ nữa. Sau cùng, Chúa Giêsu không muốn con người điều khiển Thiên Chúa: khi con người cần gì, Thiên Chúa có bổn phận làm phép lạ ban cho họ điều đó; mà không cần biết điều họ xin có tốt hay không!

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta cần khiêm nhường biết mình trong mối tương quan với Thiên Chúa. Tất cả những việc thờ phượng chúng ta làm là cho lợi ích của cá nhân chúng ta, chứ không thêm gì cho Thiên Chúa.
- Đức tin Thiên Chúa ban cho chúng ta có tiềm năng vươn cao vô hạn; nhưng cũng có thể bị đánh mất. Chúng ta cần lợi dụng mọi cơ hội xảy ra trong cuộc đời để luyện tập đức tin sao cho đến độ toàn hảo, vững bền, để có thể vượt qua mọi thử thách trong cuộc đời.
- Khi cầu xin điều gì không được, chúng ta hãy xét xem điều đó có đúng ý Thiên Chúa không. Đừng bao giờ có thái độ giận dữ trả thù bằng cách bỏ đạo hay làm hại những người được Thiên Chúa phù hộ.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.


17/02/2020
THỨ HAI TUẦN 6 TN
Bảy thánh lập dòng Tôi Tớ Đức Mẹ
Mc 8,11-13


HÃY THÔI ĐÒI DẤU LẠ
Họ đòi Chúa một dấu lạ từ trời để thử Người. Chúa Giê-su thở dài não nuột và nói: “Sao thế hệ này lại xin một dấu lạ? Tôi bảo thật cho các ông biết: thế hệ này sẽ không được một dấu lạ nào cả.” (Mc 8,11-12)

Suy niệm: Chúa Giê-su đã phải “thở dài não nuột” vì đám đông đòi Chúa làm một dấu lạ – mà phải là một “dấu lạ từ trời” – không phải để tin Chúa mà là “để thử Người”. Họ không đón nhận bản thân Chúa Giê-su cũng như cuộc đời và những việc làm của Ngài để tin. Thư gởi tín hữu Do Thái khẳng định: “Đức tin bảo cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1). Tin Mừng theo thánh Gio-an thuật lại rằng ngài đi vào ngôi mộ trống, thấy khăn liệm xếp gọn ghẽ một nơi, và cho biết “ông đã thấy và đã tin” (Ga 20,8). Như vậy, đức tin có nền tảng và đem lại cho chúng ta sự sống nhờ dựa vào Danh của Chúa Giê-su, chứ không phải nhờ vào dấu lạ.

Mời Bạn: Nhiều nơi, vì muốn thu hút khách hành hương đến viếng, đã nhấn mạnh nơi này phép lạ đã xảy ra, người kia đã chứng kiến phép lạ. Nghe nơi nào có phép lạ xảy ra, người ta liền tuôn đến. Lời Chúa hôm nay muốn chúng ta hãy thôi đòi hỏi dấu lạ, thay vào đó hãy sống đức tin dựa vào Lời Chúa và các bí tích trong Giáo Hội. Đừng để Chúa phải thở dài vì đức tin èo uột dựa vào phép lạ nơi chúng ta, nhưng hãy làm Chúa vui lòng vì đức tin mạnh mẽ đang dựa vào chính Chúa.

Sống Lời Chúa: Tìm thời giờ dành riêng cho Chúa và chăm chỉ đọc lời Chúa hằng ngày với tâm tình tín thác.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa ở trong con, mà con cứ tìm Chúa nơi những dấu lạ này, dấu lạ khác. Xin cho con biết tín thác vào Chúa và nương tựa vào Chúa.
(5 phút Lời Chúa)

Tìm một dấu lạ từ trời
Nhiều khi chúng ta vẫn đòi những điều lạ lùng hơn, lớn lao hơn. Như người Pharisêu, chúng ta chẳng hề mãn nguyện. Chúng ta vẫn muốn thử Thiên Chúa, bởi lẽ chúng ta không tin Ngài.


Suy nim:
Ai cũng dễ bị hấp dẫn bởi cái lạ thường, cái khác thường.
Còn cái bình thường, như thường, thì ít hấp dẫn, lắm khi tẻ nhạt.
Chỉ cần nghe đâu đó có hiện tượng khác thường là người ta đổ xô đến,
lắm khi chẳng cần suy nghĩ để biết có thực không, có đáng tin không.
Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ trong mấy năm sứ vụ.
Những phép lạ đó không nhằm ra oai biểu diễn quyền uy,
cũng không nhằm lôi kéo sự tôn vinh của dân chúng.
Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc đền thờ:
một cám dỗ làm điều ngoạn mục để thu hút quần chúng.
Ngài cũng từ chối xuống khỏi thập giá:
một hành vi đủ làm bẽ mặt những kẻ giết Ngài.
“Cứ xuống khỏi thập giá để chúng ta thấy và tin” (Mc 15, 32).
Đức Giêsu không mua niềm tin của đám đông bằng sự phản bội Cha.
Ngài đã ở lại trên thập giá như một người có vẻ thua cuộc…
Kitô giáo không đặt nền trên những chuyện dị thường, ma quái.
Đức Giêsu đã làm phép lạ chữa bệnh và trừ quỷ
vì Ngài chạnh lòng thương trước nỗi khổ đau của con người,
vì Ngài muốn đáp lại lòng tin quá lớn của bệnh nhân,
và vì Ngài muốn cho thấy Nước Thiên Chúa đã đến rồi.
Phép lạ lớn nhất của Đức Giêsu là Tình Yêu.
Các ông Pharisêu không phủ nhận chuyện Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ.
Sau này các thượng tế cũng nhìn nhận:
“Hắn đã cứu được người khác…” (Mc 15, 31).
Nhưng họ thấy điều đó vẫn không đủ hoành tráng và gây ấn tượng.
Họ đòi một dấu lạ từ trời, một dấu lạ lớn hơn để họ tin vào Ngài.
Đức Giêsu đã mạnh mẽ từ chối đòi hỏi ấy.
Làm sao chúng ta nhìn ra được những điều bình thường, nho nhỏ
mà Chúa vẫn làm cho chúng ta mỗi ngày?
Nhiều khi chúng ta vẫn đòi những điều lạ lùng hơn, lớn lao hơn.
Như người Pharisêu, chúng ta chẳng hề mãn nguyện.
Chúng ta vẫn muốn thử Thiên Chúa, bởi lẽ chúng ta không tin Ngài.
Xin cho tôi thấy được sự kỳ diệu của Tình Yêu
nơi những điều tưởng như là tự nhiên của cuộc sống.
Cầu nguyn:

Lạy Cha là Đấng Tạo Hóa nhân từ,
xin cho chúng con thấy sự hiện diện của Cha
trong vũ trụ vô cùng lớn,
trong những hạt tử vô cùng nhỏ,
và trong bộ óc vô cùng phức tạp của con người.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một thế giới đầy mầu sắc.
Mầu xanh cỏ non, mầu hồng trái chín,
mầu vàng mặt trời xế chiều.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một thế giới đầy âm thanh.
Tiếng suối róc rách, tiếng chim hót véo von,
tiếng gió rì rào qua kẽ lá.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một thế giới đầy hương thơm.
Hương của đồng lúa mới, của hoa bưởi, hoa cau,
hương thơm của nắng xuân dìu dịu.
Chúng con ca ngợi đôi tay khéo léo của Cha
khi tạo nên sự trong ngần ngời sáng của viên ngọc,
sự lộng lẫy phong phú của muôn loài hoa lan,
sự rực rỡ hài hòa nơi đôi cánh của loài bướm,
và nhất là sự đẹp đẽ cao cả nơi con người.
Dưới lòng đất, trên núi cao,
giữa biển sâu, trong rừng vắng,
chỗ nào chúng con cũng thấy bóng dáng Cha.
Xin cho chúng con
biết chung sống với thiên nhiên này
như một người bạn, một quà tặng Cha ban,
biết giữ gìn ngôi nhà trái đất
để nó khỏi hư hỏng, cạn kiệt,
và biết chia sẻ cho nhau bao tài nguyên còn tiềm ẩn.
Ước gì đến ngày cả trái đất, cả vũ trụ này
và muôn loài Cha đã dựng nên
được cùng với cả nhân loại chúng con
vui hưởng tự do và vinh quang trong Nước Cha. Amen.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
17 THÁNG HAI
Mùa Chay: Tiếng Gọi Ăn Chay Và Cầu Nguyện
“Hãy xé lòng, chứ đừng xé áo” (Ge 2, 13). Giáo Hội công bố mùa Chay bằng những lời kêu gọi ấy của ngôn sứ Giô-en. Vào thời ngôn sứ Giô-en, tiếng gọi ăn chay đã phải được kết hợp với lời cảnh giác: “Hãy xé lòng, chứ đừng xé áo!”
Cũng thế, Đức Giêsu đã phải cảnh giác vào thời của Người: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy… Khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen… Khi anh em cầu nguyện, đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy… Khi anh em ăn chay, chớ làm ra bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay” (Mt 6, 1. 2. 5. 16).
Trong quá khứ, khi Giáo Hội công bố mùa Chay, Giáo Hội đã phải cảnh giác mọi người nên tránh thói ‘biểu diễn’ thuần túy, tránh giả hình trong việc ăn chay, cầu nguyện và bố thí.
Còn hiện nay, điều đáng báo động hàng đầu không hẳn là thói ‘biểu diễn’ ấy. Mối nguy thực sự hiện nay là ở chỗ tiếng gọi mùa Chay bị người ta bỏ hẳn ngoài tai. Đối với rất nhiều người hôm nay, tiếng gọi mùa Chay chỉ là “một tiếng kêu trong sa mạc” (Mc 1, 3). Họ không hưởng ứng tiếng gọi ấy.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 17-02
BẢY THÁNH LẬP DÒNG TÔI TỚ ĐỨC TRINH NỮ MARIA
Gc 1, 1-11; Mc 8, 11-13.
LỜI SUY NIỆM: “Những người Pharisêu kéo ra và bắt đầu tranh luận với Đức Giêsu, họ đòi Người một dấu lạ từ trời để thử Người”
Chúa Giêsu đã làm biết bao nhiêu điều lạ giữa người Do-Thái và dân ngoại từ trong hội đường và khắp mọi nơi trước đám đông có mặt các người Pharisêu và kinh sư, nhưng họ đã cố tình không cho là đủ. Họ đòi một dấu lạ theo cách họ muốn, để thử Chúa. Còn chúng ta, ngày hôm nay có nhận ra những dấu lạ mà Chúa đang thực hiên giữa chúng ta không?
Lạy Chúa Giêsu. Chúng con nhờ ơn Chúa, chúng con nhận ra biết bao là dấu lạ của Chúa ban cho mỗi người chúng con trong học hành,thi cử, làm ăn và sự sống. Xin cho gia đình chúng con luôn biết dâng lời tạ ơn và được đức tin vững mạnh. Tin thờ một mình Chúa.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 17-02
BẢY THÁNH LẬP DÒNG TÔI TỚ ĐỨC MẸ
(Thế kỷ XIII)

Bảy thánh này là những thương gia tên tuổi miền Frorence. Không muốn chỉ là những người thế giá, các Ngài hướng tới đời sống thánh thiện và họp lại thành một nhóm huynh đệ đặc biệt tôn sùng Đức Trinh Nữ. Các Ngài được cảm hứng bởi một thi kiến để giã từ thế gian và hiến thân phụng sự một lý tửơng cao cả hơn. Truớc hết Ngài cư ngụ trên triền núi Seraniô và xây một nhà thờ tại đó.
Sau khi viếng thăm Đức Giám mục, các Ngài được khuyên nhủ nên nhận một luật sống. Các Ngài lại được một thị kiến khác của Đức Mẹ, nhưng đó Đức Mẹ khuyên nên nhận luật dòng của thánh Augustinô. Mẹ cầm nơi tay một y phục đen và thiên thần bên cạnh mẹ cầm một cuộn giấy với danh hiệu "tôi tớ Đức Mẹ". Điều này xảy ra ngày 13 tháng 4 năm1240 và từ nhóm tu sĩ này được biết đến dưới danh hiệu "Tôi tớ Đức Mẹ". Hội dòng lo rao giảng Phúc âm và phổ biến bảy sự thương khó Đức Mẹ khằp vùng Toscanne.
Ơ đây cũng nên ghi nhớ giai thoại thi vị kể lại một phép lạ đánh dấu sự chúc lành của trời cao dành cho hội dòng. Các tôi tớ Đức Mẹ hiến cuộc đời cho cả đất đai lẫn cho các linh hồn. Các Ngài canh tác một miếng đất khô chồi quanh nhà, nhưng các Ngài đã thành công để làm cho mọc lên những thân nho tươi tốt. Một đêm mùa đông vườn nho bỗng chĩu nặng những chùm trái mọng mướt.
Đức giám mục thấy đây là dấu chứng tỏ những phục vụ của các Ngài được Thiên Chúa chúc lành. Thực vậy, các tập sinh tuốn đến đông đảo và nhà dòng được thiết lập trên khắp Au Châu.
Năm 1304 nhà dòng được tòa thánh phê chuẩn. Đến thế kỷ XIV đã đảm nhận việc truyền giáo tại An Độ. Nhiều cơ sở khác cũng được thành lập tại Anh quốc và Mỹ Châu.
Lễ kính nhớ bảy anh em lập dòng được định vào ngày hôm nay. Ngày mà thánh Alexia Falconieri, một trong bảy anh em qua đời vào năm 1310. Bảy Đấng sáng lập sao một cuộc sống hiệp nhất trong nỗ lực nên thánh, đã được an táng chung trong cùng một ngôi mộ và Giáo hội đã trình bày cho các tín hữu kính nhớ.
Tên các Ngài là:
1. Bonfilius Menaldi
2. Benedictô Antella.
3. Giêradô Sestegui.
4. Barthôlômêô Amidei.
5. Gioan Manetti
6. Ricôver Lippi
7. Alexis Falconieri.
(daminhvn.net)


17 Tháng Hai
Người Buồn Cảnh Có Vui Ðâu Bao Giờ
Bỏ xứ mình để đến phục vụ tại nơi đất khách quê người quả là một lý tưởng đáng ca ngợi. Hiện nay, người ta thấy có rất nhiều thanh niên thiếu nữ tây phương chán cuộc sống trống rỗng, thiếu lý tưởng trong xã hội dư dật, đã tình nguyện sang các nước thuộc thế giới thứ ba để phục vụ.
Một thanh niên nọ đã xin đến Ấn Ðộ để phục vụ người nghèo. Ra đi hồ hởi bấy nhiêu, giờ này chạm với thực tế, anh cảm thấy thất vọng bấy nhiêu. Tất cả đều xa lạ và tất cả đều làm anh chán nản: từ khí hậu cho đến thức ăn, điều kiện sống và nhất là những khuôn mặt xem ra rất bí hiểm đối với anh. Nhưng điều làm cho anh mất hết kiên nhẫn lại là một điều không đáng bận tâm mấy...
Người ta dành cho anh một căn phòng không sạch sẽ và dĩ nhiên cũng không nhiều tiện nghi lắm. Anh dọn dẹp và sắp xếp căn phòng lại cho tươm tất. Duy có một chướng ngại mà anh không thể vượt qua để có thể sống bình thản: đó là sự hiện diện của một chú thằn lằn. Anh tìm đủ mọi cách để xua đuổi nó ra khỏi căn phòng, nhưng vô ích: đâu lại vào đó, anh đuổi nơi này, nó chạy vào nơi khác. Cuối cùng con vật chui được vào trong tủ đựng thức ăn và ngự trị hẳn trong đó. Không còn biết làm cách nào khác hơn để tẩy chay con vật, anh đành phải nghĩ đến chuyện làm quen với nó.
Dần dần, con thú đã trở thành một người bạn của anh. Mỗi khi đi đâu về, việc đầu tiên của anh là tìm cho được chú thằn lằn. Khi con vật đã trở thành thân thiết với anh, anh đặt cho nó một cái tên và trò chuyện với nó. Từ một con vật dơ bẩn xấu xa, giờ này anh nhìn thấy nơi nó rất nhiều đức tính trong đó quan trọng hơn cả đó là tài săn muỗi của nó.
Sự hiện diện của chú thằn lằn đã giúp cho anh khám phá được một chân lý trong cuộc sống: những khó khăn không đến từ môi trường chung quanh, mà chính từ bản thân anh.
Chúng ta vẫn thường lặp lại câu thơ của Nguyễn Du: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ", như để nói rằng lắm khi chúng ta mặc cho ngoại cảnh chính tâm trạng của chúng ta. Khi chúng ta vui, chúng ta như thấy cảnh vật xung quanh chúng ta cũng vui lây. Khi chúng ta buồn, cảnh có đẹp đến đâu, chúng ta vẫn thấy u ám. Lắm khi những vấn đề khó khăn không đến với chúng ta từ ngoại cảnh, từ những người khác, mà chính từ chúng ta. Gương mặt cau có của chúng ta thường được chúng ta nhìn thấy nơi tất cả mọi người xung quanh. Trái lại, khi chúng ta vui, chúng ta như cảm thấy mọi người đều vui vẻ với chúng ta. Quả thật, chúng ta đong đấu nào, thì người sẽ đong lại đấu ấy cho chúng ta.
Câu chúc đầu tiên của Ðức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra cho các môn đệ của Ngài là: :bình an cho các con". Có sự bình an đích thực trong tâm hồn, chúng ta mới thắng được sợ hãi, mới vượt qua được những khó khăn trong tâm hồn. Có sự bình an đích thực trong tâm hồn, chúng ta mới dễ dàng tha thứ và chấp nhận chính bản thân để rồi từ đó mới có thể tha thứ và chấp nhận tha nhân cũng như mọi nghịch cảnh. Mang lấy màu xanh của hy vọng, đôi mắt chúng ta mới dễ dàng nhìn đời, nhìn người một cách lạc quan. Trái lại, mang lấy bộ mặt cau có và buồn chán, đi đâu, ở đâu, chúng ta cũng chỉ thấy bất mãn, thất vọng và khó chịu.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét