Trang

Thứ Bảy, 7 tháng 4, 2012

CHÚA NHẬT PHỤC SINH


CHÚA NHẬT PHỤC SINH - Thánh Lễ Chính Ngày
Cv 10,34a.37-43 ; Tv 117 ; Cl 3,1-4 ; Ga 20,1-9.

Bài đọc 1                                 Cv 10,34a.37-43

34 Bấy giờ, tại nhà ông Cô-nê-li-ô ở Xê-da-rê, ông Phê-rô lên tiếng nói : "Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. 37 Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giu-đê, bắt đầu từ miền Ga-li-lê, sau phép rửa mà ông Gio-an rao giảng. 38 Quý vị biết rõ : Đức Giê-su xuất thân từ Na-da-rét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người. 39 Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giê-ru-sa-lem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. 40 Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, 41 không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại. 42 Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. 43 Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội."




Đáp ca                                     Tv 117,1-2.16ab và 17.22-23 (Đ. c. 24)

Đáp :    Đây là ngày Chúa đã làm ra,
nào ta hãy vui mừng hoan hỷ.

Hoặc : Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a.

1          Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ,
            muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
2          Ít-ra-en hãy nói lên rằng :
            muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.                            Đ.

16ab    Tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao,
17        Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống,
            để loan báo những công việc Chúa làm.                                 Đ.

22        Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ
            lại trở nên đá tảng góc tường.
23        Đó chính là công trình của Chúa,
            công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.                                                Đ.



Bài đọc 2                                 Cl 3,1-4

1 Thưa anh em, anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. 2 Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. 3 Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa. 4 Khi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang.



Hoặc                                        1 Cr 5,6b-8

6b Thưa anh em, anh em không biết rằng chỉ một chút men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên sao ? 7 Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy, Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. 8 Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ.



Ca tiếp liên

Nào tín hữu ca mừng hoan hỷ
Đức Ki-tô chiên lễ Vượt Qua
Chiên Con máu đổ chan hòa
cứu bầy chiên lạc chúng ta về đoàn.

Đức Ki-tô hoàn toàn vô tội
đã đứng ra môi giới giao hòa
tội nhân cùng với Chúa Cha
từ đây sum họp một nhà Cha con.

Sinh mệnh cùng tử vong ác chiến
cuộc giao tranh khai diễn diệu kỳ
Chúa sự sống đã chết đi
giờ đây hằng sống trị vì oai linh.

Ma-ri-a hỡi, xin thuật lại
trên đường đi đã thấy gì cô?
Thấy mồ trống Đức Ki-tô
phục sinh vinh hiển thiên thu khải hoàn.

Thấy thiên sứ chứng nhân hiển hiện
y phục và khăn liệm xếp rời
Giê-su, hy vọng của tôi
sẽ đón các ngài tại xứ Ga-lin.

Chúng tôi vững niềm tin sắt đá
Đức Ki-tô thật đã phục sinh.
Tâu Vua chiến thắng hiển vinh
đoàn con xin Chúa dủ tình xót thương.




Tung hô Tin Mừng                 x. 1 Cr 5,7b-8a


            Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a.
            Đức Ki-tô đã chịu hiến tế,
làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta.
Nào ta hãy hỷ hoan trong Chúa
mà ăn mừng đại lễ. Ha-lê-lui-a.




Tin Mừng                                Ga 20,1-9

1 Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. 2 Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói : "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu."
3 Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. 4 Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. 5 Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. 6 Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, 7 và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. 8 Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. 9 Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng : theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.



Hoặc: Thánh lễ Ban Chiều có thể đọc : Lc 24,13-35


13 Vào ngày thứ nhất trong tuần, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số.14 Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. 15 Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ. 16 Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. 17 Người hỏi họ : "Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy ?" Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu.
18 Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời : "Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay." 19 Đức Giê-su hỏi : "Chuyện gì vậy ?" Họ thưa : "Chuyện ông Giê-su Na-da-rét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. 20 Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá. 21 Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. 22 Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, 23 không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. 24 Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói ; còn chính Người thì họ không thấy."
25 Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng : "Các anh chẳng hiểu gì cả ! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ ! 26 Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ? 27 Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.
28 Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa. 29 Họ nài ép Người rằng : "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn." Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. 30 Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. 31 Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. 32 Họ mới bảo nhau : "Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?"
33 Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. 34 Những người này bảo hai ông : "Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-môn." 35 Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.

Suy Niệm:
Sự chết và Phục Sinh của Ðức Giêsu đều nằm trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Kinh Thánh đã tiên báo về Ngài. Ðức Giêsu chết để nhân loại chôn vùi tội lỗi cùng với cái chết của Ngài. Ðức Giêsu Phục Sinh để sự sống Thần Linh của Ðức Giêsu sống động trong tâm hồn mọi người. Ðức Giêsu Phục Sinh đã tái lập sự sống mới trên trần gian. Sự sống mới là sự sống chan hòa yêu thương. Vì tình yêu đã chiến thắng hận thù. Sự đen tối của màn đêm phải lui xa, nhường lại thế giới cho ánh bình minh tươi sáng. Khởi đầu một ngày mới, một trời mới đất mới xuất hiện. Trong niềm hân hoan chúng ta reo vui. Alleluia.

Cầu Nguyện:
Lạy Ðấng Phục Sinh, xin đem niềm vui đến trong tâm hồn chúng con. Chúa đã chết để đem sự sống mới cho chúng con. Xin đừng để chúng con mải mê ngủ vùi trong tội lỗi, nhưng biết vùng dậy để đón mừng Mặt Trời Công Chính tươi sáng chiếu rọi vào tâm hồn chúng con. Cùng với Ðức Giêsu Phục Sinh, chúng con reo vui cuộc chiến thắng khải hoàn. Amen. Alleluia.
(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)

Suy Niệm:
Chúa Nhật Phục Sinh Năm B
Người Ðã Sống Lại Vì Ta
Cv 10,34a.37-43; Co 3,1-4; Yn 20,1-9
Suy niệm:
"Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi:
Người đã từ trời xuống thế
Người chịu đóng đinh vào Thập giá vì chúng tôi
Ngày thứ ba,
Người sống lại như lời Thánh Kinh".
Ðó là những điểm trọng yếu nhất của đức tin Kitô giáo mà ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính tông truyền.
Nghĩa là:
vì ta, Người đã nhập thể,
vì ta, Người đã chịu chết,
vì ta, Người đã sống lại.
Nhưng mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô, ta phải hiểu làm sao? Mầu nhiệm đó ảnh hưởng trên đời ta thế nào?

1. Tranh Tối, Tranh Sáng, Quanh Một Biến Cố Ðịnh Ðoạt
Các sự kiện xảy đến trong ngày thứ Sáu Tuần Thánh đã tạo ra nơi các môn đệ một tâm trạng buồn thảm, chán ngán và hầu như thất vọng. Cứ quan sát nét mặt ủ dột của hai môn đệ trên đường Emmau (Lc 24,17) và lắng nghe giọng nói trầm buồn của họ trong câu chuyện trao đổi với người khách lạ mặt (Lc 24,19-24) thì người ta có thể thấy được nét thất vọng ê chề của họ sau cái chết bi đát của vị tiên tri thành Nadarét mà họ đã từng ngưỡng mộ; đồng thời đọc được vẻ hoang mang của họ trước câu chuyện mồ trống mà mấy người phụ nữ và các môn đệ khác đã chứng kiến. Họ tự hỏi: Chẳng biết có nên tin hay không? Và cuối cùng Ðức Yêsu đích thực là ai?
Sau ngày thứ Sáu Tuần Thánh, biết bao tín hữu ở khắp nơi đã phải chạm trán với những vấn nạn tương tự như hai môn đệ trên đường Emmau. Họ cũng mang một tâm trạng băn khoăn lưỡng lự như hai ông. Nhưng vấn đề quyết định là: liệu họ có biết lắng tai và mở mắt để nhìn ra Người? Có mở lòng để đón nhận Người qua lời Thánh Kinh và qua nghi lễ bẻ bánh? Có gắn bó và tin tưởng vào Người như hai ông khi đối diện với Ðấng vô hình (Lc 24,27-32)? Nói cách khác: liệu họ có tin vào Ðấng Phục sinh hay không? Họ có tin rằng vì Người đã sống lại, nên họ cũng sẽ được sống lại như Người? Tất cả vấn đề là ở đó. Một vấn đề căn bản mà thánh Phaolô đã thẳng thắn đặt ra cho cộng đoàn Kitô hữu tại Côrintô (1C 15,12-34).
Về biến cố Phục sinh, các chứng tích duy nhất ta có thể tra cứu đều nằm trong Tân Ước. Theo đó, khi được nghe loan báo về cuộc Phục sinh, cũng như khi được tiếp xúc với chính Ðấng Phục sinh, ban đầu các môn đệ đã có những phản ứng bán tín bán nghi (Lc 24,11.39-41), nửa mừng nửa sợ (Mt 28,8; Mc 16,8), và phải nói: hoài nghi và hoảng sợ nhiều hơn là tin tưởng và vui mừng. Tiêu biểu nhất cho thái độ hoài nghi ấy là tông đồ Tôma mà tất cả chúng ta đều biết chuyện (Yn 20,24-29). Tựu trung, đó là một phản ứng rất tự nhiên của con người, khi tiếp xúc với những gì là thiêng thánh hoặc những thực tại thần linh. Mầu nhiệm Phục sinh là một trong những thực tại đó.

2. Phục Sinh: Một Bí Quyết Của Thiên Chúa
Ngay từ đầu, trong các bản tuyên tín kỳ cựu, cộng đoàn Kitô hữu đã lần lượt kể liên tiếp nhau: việc Chúa Yêsu chịu chết trên Thập giá, chịu táng xác trong mồ, và ngày thứ ba sống lại như Lời Thánh Kinh, sau đó Người hiện ra với Phêrô, rồi với nhóm Mười Hai tông đồ... (1C 15,3-7). Ðó là những sự kiện đã xảy ra trong không gian và thời gian. Tuy nhiên, trong lúc đám tang Ðức Yêsu diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật, trước mắt nhiều người gồm cả bạn lẫn thù, thì chính việc Phục sinh của Người lại là một bí mật Không một người nào đã có mặt tại đó để xem sự việc xảy ra làm sao, cũng giống như khi Thiên Chúa dựng nên muôn loài từ nguyên thủy: thì lúc ấy cũng chẳng có ai đã đứng xem việc Người làm. Trong cả hai trường hợp, ta đều đụng tới một bí quyết của Thiên Chúa. Cả hai trường hợp đều là những hành động sáng tạo của Người hướng về nhân loại và lịch sử thế giới, để lập nên một trật tự mới mẻ.
Các tài liệu Kinh Thánh liên quan tới biến cố Phục sinh, tựu trung phản ảnh lại hai truyền thống: Truyền thống về ngôi mộ trống và truyền thống về các cuộc hiện ra của Ðấng Phục sinh. Ngôi mộ trống là một tang chứng vật chất, mà mọi người bấy giờ có thể kiểm chứng. Quả thật, theo thánh sử Matthêu, toán lính canh mồ đã thấy mồ trống, đã gặp các phụ nữ đến viếng mồ mà không còn thấy Chúa Yêsu nữa (Mt 28,2-15). Nhưng ngôi mộ trống ấy không phải là một bằng cớ hiển nhiên và có giá trị minh chứng tuyệt đối cho việc Phục sinh của Chúa Yêsu. Ngôi mộ trống tự nó có thể giải thích nhiều cách, trong đó có cả giả thuyết cho rằng các môn đệ đã đến lấy trộm xác Người ban đêm, như chính người Dothái đã tung ra, để khích bác cộng đoàn Kitô hữu (Mt 28,11-15). Chúng ta phải hiểu đúng ý nghĩa của hai truyền thống ấy. Ðó là những truyền thống đức tin của cộng đoàn tiên khởi: cộng đoàn tuyên xưng đức tin trong các buổi họp mừng phụng vụ và các giờ giảng dạy giáo lý.
Chính các tông đồ và những chứng nhân khác đã chia sẻ cho cộng đoàn kinh nghiệm đức tin của mình, sau khi họ được gặp gỡ Ðấng Phục sinh xuất hiện. Làm như thế các ông kêu mời và tạo điều kiện cho người khác tới gặp gỡ Ðấng Phục sinh đang hiện diện trong cộng đoàn tín hữu, qua lời Thánh Kinh và nghi thức bẻ bánh, mà cộng đoàn chia sẻ với nhau trong tình huynh đệ. Việc Ðấng Phục sinh tự tỏ mình ra với những người đã được Thiên Chúa chọn trước làm nhân chứng như thế (Cv 10,41) quả là một ân huệ do sáng kiến của chính Người từ bên ngoài ban cho họ, chứ không phải là một hiện tượng tâm lý do những mong chờ chủ quan tưởng tượng ra. Thực thế, sau ngày thứ Sáu Tuần Thánh, các môn đệ của Ðức Yêsu không còn chờ mong về ước vọng gì nữa cả (Lc 24,21). Thảm bại của Thập giá trên Núi Sọ đã làm cho họ hoàn toàn vỡ mộng và thất vọng ê chề. Chính Ðức Yêsu và sự nghiệp của Người đáng lẽ ra cũng đã bị lịch sử chôn vùi trong quên lãng, hay cùng lắm cũng chỉ được nhắc lại như một trong muôn vàn sự việc thông thường khác, nếu sau ngày thứ Sáu Tuần Thánh, Người không được Thiên Chúa cho sống lại vinh hiển.
Quả thực, đã xảy ra một cái gì rất hệ trọng, làm đảo ngược tình thế, tạo ra một hoàn cảnh mới cho thân thế và sự nghiệp Ðức Yêsu, gây được niềm tin mới cho các môn đệ Người. Các bản văn Thánh Kinh ta đọc trong mùa Phục sinh, chính là những lời tuyên xưng đức tin ấy, những bài công bố Tin Mừng về những hành động ngược đời và bất ngờ của Thiên Chúa. Người ta không thể coi đó như những biên bản của cảnh sát lấy khẩu cung cho tòa án, hay những tài liệu thông thường để viết sử. Nếu là sử liệu, thì đó chính là chất liệu để viết nên lịch sử cứu độ làm nguồn mạch diễn nghĩa và định hướng cho lịch sử loài người. Lịch sử cứu độ bao hàm nhiều bí quyết của Thiên Chúa, trong đó biến cố Phục sinh là bí quyết hệ trọng nhất, mà ta phải đọc với cặp mắt đức tin, để khai triển ra các ý nghĩa bằng những suy tư thần học. Vậy mầu nhiệm Phục sinh hàm chứa những ý nghĩa nào?

3. Người Ðã Sống Lại Vì Ta
Trước tiên, đối với bản thân Ðức Yêsu, Phục sinh có nghĩa là trở lại nếp sống cũ, như Người đã sống cho đến ngày thứ Sáu Tuần Thánh. Chính Người, lúc bình sinh, đã làm cho con gái ông Yairô (Mc 5,35-43), con trai bà góa thành Naim (Lc 7,11-17) và Lazarô, em trai của hai bà Matta, Maria ở làng Bêthania, sống lại như thế. Họ đã chết, nhưng đã được Người dùng lời nói toàn năng kêu gọi chỗi dậy và trả lại cho nếp sống cũ. Sau đó, họ lại chết như mọi người. Cuộc Phục sinh của Ðức Yêsu khác hẳn. Chính Thần Khi của Chúa Cha và sức mạnh vô biên của tình yêu Chúa Con đối với Cha mình, khi Người tự nguyện chịu chết để tuân hành thánh ý Chúa Cha và chuộc tội thế gian, đã làm cho thân xác Người từ cõi chết sống lại và đã tạo nên một hoàn cảnh mới cho Người. Người đã vượt qua từ thân phận tôi đòi trong kiếp sống trần thế đến thiên chức Chúa Tê, được siêu thăng để bá chủ muôn loài, hầu làm rạng rỡ Chúa Cha (Ph 2,7-11). Thân xác Người chính là thân xác loài người chúng ta được thần linh hóa, được nâng lên, được tái tạo. Phục sinh là một cuộc tạo dựng mới nơi con người Ðức Yêsu và từ đó lan tràn sang chính chúng ta và cả thế giới.
Hoàn cảnh mới có những định luật mới và đòi hỏi những quan hệ mới. Ðức Kitô ngày Chúa nhật Phục sinh và Ðức Yêsu ngày thứ Sáu Tuần Thánh vẫn là một. Thân xác còn mang thương tích tuy lành rồi đã giúp các môn đệ nhận ra Người (Yn 20,27). Nhưng thân xác ấy đã được thần-trí-hóa, không còn bị chi phối bởi các định luật vật lý thông thường nữa, nhưng từ nay được thấm nhiễm Thần Khí tự do. Từ nay, phải tiếp xúc với Người một cách khác và mới mẻ. Khi nghe Chúa gọi tên mình, Maria Mađalêna đã nhận ra Người, và thưa lại: "Rabboni, lạy Thầy!" và muốn ôm chân Người mà hôn kính (Yn 20,16-17; Mt 28,9). Nhưng Ðấng Phục sinh đã nói gì với nàng? - "Con đừng giữ Ta lại cho con nữa, vì Ta chưa lên với Cha Ta; nhưng hãy đi đến với anh em Ta và nói với họ: Này Ta lên với Cha Ta và cũng là Cha các con..." (Yn 20,17); "... hãy đi loan báo cho các anh em Ta và bảo họ: hãy đến gặp Ta tại Galilêa" (Mt 28,10). Qua mầu nhiệm Phục sinh, Người được siêu thăng lên với Chúa Cha, nhưng Người cũng đi đến với các môn đệ. Thân xác Người đã được thần-trí-hóa, nên có thể hiện diện một cách sâu xa mật thiết trong lòng mọi người tín hữu và ở giữa mọi nhóm nhân danh Người họp nhau lại (Mt 18,20). Ngoài ra, Người còn có thể hiện ra một cách phổ cập khắp mọi nơi, trong mọi thời với Giáo Hội cho đến tận thế (Mt 28,20b). Từ nay ai muốn gặp Chúa Phục sinh thì phải đến với anh em Người trong Giáo Hội, nhất là khi cộng đoàn tín hữu cử hành bí tích và phụng vụ Lời Chúa. Và ai đã gặp Chúa nơi đó rồi, đều có sứ mạng loan báo Tin Mừng Phục sinh cho anh em như Maria Mađalêna đã làm. "Tôi đã thấy Chúa" (Yn 20,17-18), tôi đã được cảm nghiệm Người.
Người đã phục sinh để lên với Chúa Cha, nhưng cũng là để ở gần với ta hơn trong thế giới này. Vì thế, Giáo Hội tuyên xưng rằng: "Người đã sống lại vì ta", sau lời tuyên xưng: "Vì ta, Người đã chịu chết; vì ta, Người đã nhập thể". Thật vậy, khi Con Thiên Chúa mặc lấy xác phàm, thì mọi thực tại trần gian đã được liên kết mật thiết với Thiên Chúa, để Người lôi kéo tất cả lên với Người. Ðức Kitô được siêu thăng trong mầu nhiệm Phục sinh, là để siêu thăng nhân loại lên hàng con cái Thiên Chúa. Chỉ sau khi Phục sinh, Người mới bắt đầu gọi các môn đệ là anh em mình (Yn 20,17; Mt 28,10) theo một nghĩa sâu đậm và phong phú, vì từ đó, Người gọi Thiên Chúa là Cha mình và Cha của các môn đệ cùng một trật. Thánh Phaolô và thánh Yoan gọi Ðức Kitô Phục sinh là Trưởng tử mọi loài thọ sinh, là Anh Cả của một đoàn em (Rm 8,29; 1C 15,20; Co 1,18; Kh 1,5); nghĩa là Người sống lại đầu tiên như bông hoa đầu mùa nở giữa vườn nhân loại đang chờ ngày phục sinh. Người là Thủ lãnh Giáo hội (Ep 1,22-23; Co 1,15-20) thì cũng trở thành nguyên lý làm cho vạn vật được siêu thăng, đúng như lời đã nói: "Khi bị kéo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ lôi tất cả lên cùng Ta" (Yn 12,32). Với một trực giác thần học sâu sắc, thánh Yoan cũng như thánh Phaolô đã hiểu rằng: chết và sống lại là hai mặt của một mầu nhiệm duy nhất: mầu nhiệm Vượt qua, mầu nhiệm của Con Thiên Chúa tự nguyện đi xuống đáy sâu của hư vô, khốn khổ và ô nhục, để từ đó vươn lên đỉnh cao của vinh quang và sức sống thần linh (Ph 2,6-11). Bản tính thần linh của Ðức Yêsu được biểu lộ ra trên thập giá (Yn 8,28), khi Người dùng cái chết tự nguyện để minh chứng tình yêu tột độ đối với Chúa Cha và anh em loài người. Thiên Chúa chính là tình yêu (1Yn 4,8-16), vì thế tình yêu mang tính chất thần linh mà Ðức Kitô biểu lộ trên thập giá, không thể tàn lụi và trở thành hư vô, nhưng chứa trong mình mầm mống vinh quang và sức sống vô tận, là những thực tại đã bừng lên và trào ra trong biến cố Phục sinh. Vì thế, Phục sinh là trạng thái Khải huyền xán lạn của Thập giá. Thập giá mà ta mang trong tâm hồn và bóng nó bao trùm khắp vũ trụ, đang lập loè ánh lửa Phục sinh.
Ðức Kitô đã sống lại vì ta, để ở lại với ta luôn mãi (Mt 28,20). Ðặc biệt tác động của Người quy hướng về Giáo hội. Những lần xuất hiện giữa các môn đệ, Người muốn khơi dậy niềm tin nơi các ông. Ðấy là một niềm tin mới mẻ. Từ ngày thứ Sáu Tuần Thánh, niềm tin của các ông như kẻ đã chết: vì kẻ thì đã phản bội, người thì bỏ trốn đi, và tất cả đều thất vọng ê chề (Lc 24,17-24). Những lần tiếp xúc đầu tiên với Ðấng Phục sinh hoặc những khi được nghe nói về việc Người sống lại, các ông còn hoài nghi, sợ sệt và do dự. Chính Ðấng Phục sinh đã tác động cách nhiệm mầu trên tâm hồn các ông, để làm cho các ông tin vào Người. Ðó là đức tin Phục sinh, vì chẳng những lòng tin của các ông được phục hồi và tái tạo, mà còn vì một lý do hệ trọng khác: từ nay đối tượng và nội dung của đức tin Kitô hữu chính là mầu nhiệm Phục sinh. Vì Thiên Chúa mà người Cựu Ước tin nhận là Cha của Ðức Yêsu Kitô, đã làm cho Người sống lại từ cõi chết nhờ năng lực Thánh Thần (Rm 4,24; 6,4; 8,11; Co 2,12; 1P 1,21). Qua biến cố Phục sinh, Ðức Yêsu thành Nadarét mà dân chúng cũng như các môn đệ ngưỡng mộ như một vị tiên tri có uy tín (Lc 24,24) nay lại xuất hiện biểu dương trước mắt trần gian như Con Thiên Chúa, như Chúa Tể và như Ðấng Thiên Sai Cứu thế mang bản chất thần linh (Rm 1,3-4; Cv 2,32-36). Người là trung tâm điểm của lịch sử, là tột đỉnh của mạc khải (Hr 1,2), là nguồn phát xuất ơn cứu độ nhân trần. Trong Kinh Tin Kính tông truyền, mầu nhiệm Phục sinh sẽ là hệ điểm chủ yếu cho các tín điều khác.
Chúa Kitô Phục sinh đã gây dựng đức tin cho các tông đồ, thì chính Người cũng sẽ tiếp tục khơi động lên niềm tin mới, niềm tin Phục sinh trong lòng những kẻ nghe các ông rao giảng về Người, vì đức tin bắt nguồn và chớm nở từ chỗ nghe dân chúng nói về Ðấng Phục sinh (Rm 10,17). Do đó, mọi người hôm nay được ban cho ơn đức tin qua trung gian của Giáo hội tông truyền. Ðấng Phục sinh đã sáng tạo ra Giáo hội, thì cũng chính Người nuôi dưỡng Giáo hội bằng Lời Người và Thánh Thể, là "bí tích đức tin" tuyệt hảo.

4. Sống Niềm Tin Phục Sinh Hôm Nay
Ðức tin và đời sống Kitô hữu bắt nguồn từ biến cố Phục sinh. Biến cố ấy đã làm xuất hiện một mẫu người mới trong những tương quan mới với Thiên Chúa và anh em đồng loại. Quả thật, đây là một cuộc tái tạo nơi con người Ðức Yêsu và từ đó lan tràn sang chúng ta và cả thế giới. Thánh Phaolô viết: "Anh em đã chết, và đời sống mới của anh em gắn liền với Ðức Kitô và được bao bọc bởi mầu nhiệm Thiên Chúa (Co 3,3). "Anh em đã được thanh tẩy trong Ðức Kitô, nghĩa là chịu mai táng với Người qua nghi thức tượng trưng dìm anh em trong cái chết, để từ đó anh em nhô đầu vươn lên nếp sống mới, tương tự như Ðức Kitô đã được quyền năng của Chúa Cha làm cho sống lại" (Rm 6,4). Quả thật, chúng ta đã được Chúa Cha tái sinh trong Nước Rửa tội, được ơn Chúa Thánh Thần thêm sức củng cố, và được Lời và Mình, Mát Chúa Yêsu nuôi dưỡng. Chúng ta đang hiệp thông với nhau trong Giáo hội như một dấu chỉ giữa thế giới loài người.
Ðối với ta, sống niềm tin Phục sinh hôm nay, có nghĩa là để cho Thiên Chúa tiếp tục làm những điều bất ngờ và mới mẻ. Các môn đệ ngày xưa đâu có ngờ rằng Thiên Chúa sẽ làm cho Ðức Yêsu sống lại sau ngày thứ Sáu Tuần Thánh.
Có những lúc ta gặp thất bại và tủi nhục đến muốn chết, có những lúc ta bị dồn vào bước đường cùng không thể làm gì được nữa nếu lúc đó, ta ngước mắt nhìn lên Thập giá Chúa Kitô và nhớ lại rằng: từ cơn thảm hại ấy, Thiên Chúa đã làm phát sinh ra sự sống mới và niềm hy vọng mới..., thì chính lúc đó ánh sáng Phục sinh sẽ len lỏi vào cõi lòng trống rỗng và cô quạnh của ta. Ta tưởng như đã hết rồi, nhưng thực sự, bên kia bờ giới hạn của ta, còn có Thiên Chúa, còn có tất cả. Người là Ðấng có khả năng hoàn sinh kẻ chết và gọi cái có từ cõi không (Rm 4,17). Chính lúc đó, tia sáng Phục sinh làm nổi dậy trong lòng ta niềm hy vọng, khi ta không còn gì để hy vọng nữa (Rm 4,18). Ðó là một hy vọng hoàn toàn mới mẻ, một niềm tin Phục sinh từ cõi lòng héo khô tuyệt vọng.
Có những lúc ta bị kềm kẹp trong tội lỗi và thói hư tật xấu, ta đã chết trong tâm hồn. Nhưng, khi ta quyết tâm đứng dậy, để vươn tới một đời sống thanh cao, thánh thiện hơn, thì chính lúc đó mầu nhiệm Phục sinh đang tái diễn trong ta. Tâm tình thống hối ăn năn là một ơn Phục sinh, làm cho ta sống lại trong ân sủng và thanh luyện tâm hồn ta cho sạch mọi vết nhơ.
Có những lúc ta bị vu oan, giáng họa, và bị đối xử tàn tệ; ta bị ghét, nhưng không ghét lại kẻ thù ta. Những lúc ấy, ta đang sống tinh thần Phục sinh, vì ta chứng minh cho mọi người thấy rằng: tình yêu mạnh hơn hận thù, tình yêu mạnh hơn cái chết, giống như Chúa Kitô đã yêu thương tột độ đến chịu chết và còn tha cho kẻ giết mình, nên được Thiên Chúa làm cho sống lại vinh hiển.
Có những lúc ta đối diện với những kẻ tội lỗi hoặc không cùng chia sẻ một niềm tin..., ta tưởng như họ hoàn toàn hư hỏng, hoàn toàn xa lạ. Nếu ta nghĩ được rằng: họ cũng là anh em, họ có thể thay đổi, -thế nào và lúc nào, ta không biết, vì Thiên Chúa hành động bất ngờ- thì lúc đó, ta đang sống niềm tin Phục sinh, tuyên xưng rằng Thiên Chúa có khả năng hoàn sinh kẻ đã chết - chết trong thể xác hay chết trong tâm hồn.
Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Kitô cũng đã mạc khải cho ta bản chất sâu xa của con người, gồm cả cái nhục lẫn cái vinh, cả sự thấp hèn lẫn điều cao trọng. Con người mang trong mình một hình ảnh thần linh, nhưng lại không có khả năng sống tương xứng với hình ảnh ấy, ta phải nhìn nhận sự bất lực đó, để khỏi kiêu căng vô lối, đồng thời ý thức về định hướng cao cả của đời mình để không bao giờ thất vọng. Biến cố Phục sinh đã chứng tỏ cho ta: yếu tố thần linh có thể thắng và biến cái bất lực thành sức mạnh vô song.
Bởi đó, niềm tin Phục sinh đem lại cho ta một cái nhìn lạc quan, một thái độ sống phấn khởi và hòa đồng, vì Chúa Kitô đã sống lại, đã toàn thắng tội lỗi để ban hòa giải cho mọi người.

Giảng Lễ
Làm thế nào để tất cả chúng ta ý thức được tầm mức quan trọng của việc Chúa sống lại, đó là mục đích của Phụng vụ hôm nay và của mùa Phục sinh này. Không ý thức được tầm quan trọng đó, chúng ta sẽ không tha thiết với việc kết hợp cùng Ðức Kitô Phục sinh. Và không kết hợp với Người, chúng ta không có đời sống mới; cuộc đời của ta sẽ hoàn toàn vô ích về phương diện tôn giáo. Chính thánh Phaolô đã viết: nếu Ðức Kitô đã không sống lại, đức tin của anh em trở thành hão huyền và chúng ta thật là những người dại dột nhất. Nói cách khác: vì đạo của chúng ta xây trên nền tảng niềm tin Chúa sống lại, nên chúng ta phải chắc chắn về niềm tin này mới hy vọng xây dựng được một đời sống đạo đức vững vàng. Vậy chúng ta hãy theo Phụng vụ của Giáo hội để thêm ý thức về niềm tin ở việc Chúa Phục sinh.
Trước hết, Phụng vụ lần lượt trích dẫn các đoạn văn Kinh Thánh nói về việc Chúa sống lại. Ba bài đọc hôm nay đều nói về việc đó. Bài Phúc Âm trình bày việc Chúa Phục sinh là một biến cố rõ ràng nhưng quá bất ngờ đối với tất cả mọi người, đặc biệt đối với những người tin Chúa. Chúa đã khẳng định cách công khai và không úp mở cho biết Người sẽ bị nộp, bị đánh, bị treo trên Thập giá, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Nhưng Phêrô chỉ để ý đến đoạn đầu. Ông khăng khăng xin Chúa đừng làm như vậy, đừng để mình bị bắt. Ông không để ý đến câu cuối nói rằng ngày thứ Ba Người sẽ sống lại. Các tông đồ khác cũng chẳng để ý hơn. Họ có nghe nói, nhưng không tin. Nói đúng hơn, họ không muốn tin. Nên vừa thấy Chúa bị bắt, họ đã bỏ Chúa, chối Chúa, muốn trở về làng cũ, chấm dứt lý tưởng theo Chúa. Ít nhất, họ cũng đã rút lui vào nhà, đóng kín cửa, không dám ló mặt ra. Họ chỉ nhớ Ðức Kitô chịu chết: người Dothái có thể sắp bắt đến họ. Lời Chúa nói rằng Người sẽ Phục sinh không còn ở trong đầu óc họ một tí nào nữa. Phúc Âm hôm nay nói rõ: các ông chưa hiểu rằng Người phải sống lại từ cõi chết.
Kẻ thù của Chúa cẩn thận hơn. Họ nhớ như vậy nên xin Philatô cho đặt lính gác mồ. Họ tưởng rằng có thể ngăn chặn không cho Chúa phục sinh. Nhưng Chúa đã làm việc thật kỳ diệu trước mắt thiên hạ, cả những kẻ tin cũng như không tin Người. Người làm việc thật ngoạn mục để ai tin thì được thấm thía tình Người yêu thương họ và để ai không tin phải bàng hoàng khiếp sợ.
Việc Chúa phục sinh vì thế không phải là chuyện mấy tông đồ bịa đặt ra. Họ không còn đầu óc để nhớ lại Lời Chúa nói trước, thì làm sao có được trí tưởng tượng xếp đặt khéo léo câu chuyện sống lại. Cả Phêrô, cả Yoan đã nhận được tin Thầy sống lại. Họ được Mađalêna báo cho biết xác Thầy không còn ở trong mồ nữa. Hai ông đã ra đi, người đi chậm, người chạy nhanh. Nhưng cả hai đều đã quan sát rõ ràng và tỉ mỉ; các khăn liệm còn đó, nhưng Chúa thì ở đâu? Phải đợi khi nhận được nhiều bằng chứng khác, thêm vào bằng chứng mồ trống, và nhất là, như lời Phêrô nói hôm nay, khi được Chúa sống lại hiện ra trò chuyện, ăn uống, dạy dỗ thêm cho mình, và môn đệ mới thật sự tin Chúa sống lại. Như vậy, niềm tin của các tông đồ không những đã căn cứ vào Lời Chúa báo trước, nhưng nhất là vào các sự kiện và bằng chứng rõ ràng của nhiều người và của nhiều nhóm người khác nhau. Ðức tin đó sáng suốt vững vàng đến nỗi có thể nói tất cả đã bằng lòng chịu chết để làm chứng Chúa đã sống lại.
Chúng ta không đặt nặng vấn đề này. Tin Chúa từ bé, chúng ta thuộc lòng Kinh Tin Kính và năm nào cũng mừng lễ Phục sinh; nên chẳng bao giờ đặt vấn đề Chúa sống lại. Hôm nay có nhắc lại sự kiện lịch sử ấy, chẳng qua là để như lời thánh Phêrô nói, sẵn sàng có thể trả lời cho người khác về niềm tin của mình. Ðối với chúng ta, công việc quan trọng hơn là tìm ra liên lạc giữa việc Chúa sống lại và đời sống đạo đức của ta. Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay cho ta một ý tưởng có thể trở thành ánh sáng, giúp ta suy niệm thích hợp. Người viết: sự sống của chúng ta ẩn giấu với Ðức Kitô ở trong Thiên Chúa.
Ta biết Ðức Kitô đã sống lại. Người đang sống trong Thiên Chúa. Và Ðức Kitô vừa là người vừa là Chúa. Nơi Người có cả bản tính Thiên Chúa lẫn bản tính loài người. Người là Ngôi Hai nhập thể để là người ở giữa chúng ta. Hơn nữa, Người đã mang lấy tất cả tội lỗi của loài người vào thân mình để đem theo lên cây Thánh giá; Người chịu đóng đinh thân thể và chết đi như vậy, là để tiêu diệt bản tính tội lỗi loài người của ta, để khi sống lại, Người đổi mới bản tính ấy để bây giờ nó được ở nơi vinh hiển phục sinh. Khi thánh Phaolô viết: chúng ta bây giờ được ẩn giấu với Ðức Kitô trong Thiên Chúa, là có ý nói đến điều ấy. Thánh nhân muốn chúng ta hiểu rằng Ðức Kitô Phục sinh đã mang theo bản tính loài người lên ở với mình trong Thiên Chúa. Và như vậy, ai kết hợp với thân thể Ðức Kitô, thì cũng được ở với Người trong Thiên Chúa. Ðó là điểm then chốt, độc đáo của đạo ta. Kitô giáo không phải là tôn giáo ở đó mỗi người trực tiếp giao thiệp với Thiên Chúa mà thôi; nhưng còn là đạo để ai nấy có thể kết hợp với Ðức Kitô, hầu ở trong Ðức Kitô người ta mới gặp được Thiên Chúa, giao thiệp được với Người và làm đẹp lòng Người. Mà Ðức Kitô làm sao để mọi người mọi thời có thể kết hợp được với mình, nếu thân thể Người vẫn chỉ là một thân thể sống ở một nơi và trong một thời? Không ai có thể ở trong người nào, khi hai người đang còn sống trong xác thịt. Nhưng bây giờ thân xác Ðức Kitô đã phục sinh, đã trở thành thân thể mầu nhiệm, nên bây giờ ta đã có thể ở trong Người bằng tinh thần, chờ ngày được ở trong Người bằng cả xác thịt sống lại nữa.
Mầu nhiệm Phục sinh vì thế là nền tảng của đạo mới. Thân thể Chúa Phục sinh là đền thờ mới, dựng nên sau ba ngày đền thờ cũ đã bị phá hủy. Chính Ðức Kitô đã tuyên bố khi Người đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ Yêrusalem. Người khẳng định: sau ngày Người sống lại, chẳng đền thờ bằng gạch, bằng đá, bằng sắt nào có giá trị nữa. Ai muốn thờ phượng Thiên Chúa Cha, phải ẩn náu ở trong thân thể phục sinh của Người, là đền thờ đạo mới. Và như vậy thật phải, vì chúng ta có thể nào đẹp lòng Thiên Chúa được, nếu không ở trong Con Người phục sinh của Ðức Kitô? Vì chỉ ở nơi đó mới có ơn tha tội và cứu độ. Ðồng thời, thân xác phục sinh của Ðức Kitô bảo đảm cho sự sống lại của thân xác chúng ta sau này, nếu ngay bây giờ ta đã bắt đầu sống kết hợp với Chúa Phục sinh.
Vấn đề phải đặt ra trước mắt là phải làm thế nào để kết hợp được với Ðức Kitô phục sinh, để hiện tại đời sống đạo của ta có giá trị trước mặt Chúa và để sau này thân xác chúng ta cũng được phục sinh? Chỉ có một cách là biết vượt qua như Ðức Kitô, là tham dự vào mầu nhiệm vượt qua của Người. Mà vượt qua có nghĩa là chế ngự xác thịt, tội lỗi và thế gian để vươn lên cùng Thiên Chúa. Lễ Phục sinh là lễ Vượt qua mới. Người dự lễ Phục sinh phải chấm dứt đời sống lầm than, tội lỗi và bắt đầu cuộc đời mới chân thành và thánh thiện. Chúng ta xem gương các môn đệ: sau khi tin Thầy đã sống lại, họ đã thay đổi như thế nào, để trở thành những con người xây dựng một nếp sống mới và một thế giới mới. Dĩ nhiên, họ đã phải chờ Thần Trí của Chúa Phục sinh nhập vào mình để trở nên những con người mới như vậy. Chúng ta cũng sẽ nhận được Thánh Thể ban Thần Trí của Ðức Kitô Phục sinh.
Vậy hôm nay và từ nay chúng ta hãy đem tinh thần và cảm nghĩ mới vào tất cả đời sống, để đổi mới đời ta, đổi mới xã hội bằng tinh thần của Ðức Kitô Phục sinh. Như vậy lễ Phục sinh hằng năm phải như là lễ Phục sinh của các tông đồ ngày trước: hay tin Chúa sống lại các môn đệ đã nhớ lại Lời Người và gương Người đã sống để dần dần thay đổi tất cả tâm tư, nếp sống và xã hội của mình. Ước gì hôm nay chúng ta cũng lãnh nhận được ơn Phục sinh mạnh mẽ như vậy!


(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


 Ngôi mộ trống
Tại một nghĩa trang bên Đức, có mội ngôi mộ rất được chú ý, đó là ngôi mộ được làm bằng đá hoa cương, bên dưới đúc xi măng cột sắt rất kiên cố. Ngôi mộ được nhiều người chú ý vì đó là ngôi mộ của một người đàn bà giàu có. Trong chúc thư, bà yêu cầu người ta xây cho bà một ngôi mộ kiên cố, để nếu có sự sống lại của người chết, thì bà vẫn nằm yên dưới mộ. Trên mộ, bà ta xin được ghi: “Đây là ngôi mộ sẽ không bao giờ mở ra”.
Thời gian trôi qua, ngôi mộ xem ra vẫn kiên cố. Thế nhưng một hôm có một hạt giống rơi vào khe đá của ngôi mộ, gặp đất bên dưới, nó bắt đầu nẩy mầm, lớn lên thành cây, rễ của nó đâm xuyên qua ngôi mộ để rồi cuối cùng làm cho quan tài của người đàn bà vỡ ra.
Câu truyện trên đây có thể là một dụ ngôn về tình yêu vô bờ của Thiên Chúa đối với con người, khi Ngài cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết để mở lối cho con người vào sự sống vĩnh cửu với Ngài. Con người có thể chối bỏ và khước từ Thiên Chúa, nhưng với muôn ngàn cách thế mà con người khôn lường được, Thiên Chúa vẫn tiếp tục theo đuổi con người. Con người tưởng mình có thể lẩn trốn được Thiên Chúa, nhưng khi một hạt giống nhỏ bé, tình yêu của Ngài vẫn tiếp tục len lỏi vào tâm hồn của con người. Thiên Chúa là Chúa của sự sống. Vinh quang, danh dự và niềm vui của ngài là con người được sống. Cho dù con người có loại bỏ Thiên Chúa để đi tìm cái chết, ngài vẫn đeo duổi và chờ đợi con người.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đi vào cõi chết của con người. Người ta đã chôn ngài trong mộ đá. Nhưng rồi sang ngày thứ nhất trong tuần, người ta không thấy xác Ngài ở đó nữa. Bà Maria Mađalêna ra thăm mộ đã hoảng hốt kêu lên: “Người ta đã lấy mất xác thầy rồi!” Hai môn đệ Phêrô và Gioan chạy ra mộ kiểm chứng. Hai ông thấy ngôi mộ mở toang. Nhì vào trong thấy khăn liệm còn đó, nhưng xác Ngài đã biến mất. Phêrô im lặng suy nghĩ, còn Gioan, người môn đệ Chúa yêu đã thấy và đã tin: “Đúng như Thầy đã nói, Thầy đã sống lại thật rồi”.
Thưa anh chị em,
Tất cả khởi đầu với ngôi mộ trống. Nhưng nếu chỉ có ngôi mộ trống mà thôi thì cũng chẳng làm nên chuyện. Câu chuyện chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó có nội dung, và nội dung ở đây là: “Ngài không còn ở trong mộ nữa, vì Ngài đã sống lại như Ngài đã nói”. Từ ngôi mộ ấy đã bật lên sự sống. Đó là niềm tin của chúng ta. Cả cuộc đời Kitô hữu là những cuộc mai táng liên tục, nhưng caí chết và từ bỏ liên tục. Đừng sợ những ngôi mộ. Đừng sợ chôn đi điều phải chôn, mất đi điều phải mất. Đừng sợ bị thối rữa hay bị tảng đá to che chặt đời mình. Ước gì mọi ngôi mộ của chúng ta cũng giống như ngôi mộ của Chúa Giêsu: bị mở tung để sự sống bừng dậy.
Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, thì mọi sự sẽ vẫn như cũ: sự sống có nghĩa lý gì, nếu bao giờ nó cũng kết liễu bằng cái chết như một trái thúi rơi nát dưới gốc cây? Con người có nghĩa là gì, nếu mọi cố gắng đạt hạnh phúc chỉ bảo tồn được ảo tưởng của hạnh phúc, của những hạnh phúc luôn bị cái chết đe dọa từ bên trong? Tình yêu có nghĩa là gì, nếu mọi cú sét ái tình sẽ tắt nghẽn trên nấm mộ phân ly? Sống mà giả quên sự chết hiện diện khắp nơi, phải chăng là một trò chơi không xứng với một con người? Trò chơi của cuộc sống ấy sẽ phi lý và thất vọng, nếu Chúa Kitô đã không sống lại.
Thánh Phaolô đã nói: Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, thì chúng ta là những người vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô đã không sống lại thì chúng ta vẫn còn mang tội lỗi ở trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem chúng ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu của nhục nhã, đau khổ của con người sẽ không có lối thoát và cái chết của con người sẽ là đường cùng, là ngõ cụt. (x. 1Cr 15,12tt)
Nhưng, Chúa Kitô đã sống lại thật rồi. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng. Ngài đã làm cho những quằn quại đau thương của người sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau sẽ phát sinh sự sống mới, một niềm vui mới. Ngài đã làm cho cuộc sống trần gian không còn là một ảo tưởng, nhưng là một phản ảnh và là con đường đưa tới cuộc sống vĩnh cửu.
Đức Kitô đã sống lại: Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là dấu hiệu của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết của con người không còn là đường cùng, là ngõ cụt, vì ánh sáng của Chúa Kitô đã bừng lên trong đêm tối, đã chiếu sáng ở cuối con đường hầm. Chúa Kitô đã sống lại, niềm hy vọng Phục Sinh của thân xác chúng ta không phải là hão huyền, vì Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang điều khiển giòng lịch sử và khi Ngài xuất hiện trong vinh quang, thì chúng ta cũng được xuất hiện trong vinh quan cùng với Ngài.
Chúa Kitô là người chiến thắng chung quyết trên đau khổ, tội lỗi và sự chết. Trong Ngài, mỗi người và cả nhân loại, quá khứ, hiện tại và tương lai đều phải chết và đã sống lại. Không còn người nào, không còn một tội nào, không còn một giây phút nào của cuộc sống chúng ta thoát khỏi cuộc chiến thắng của Chúa Kitô. Không có gì nằm ở ngoài cuộc cứu độ mà Chúa Kitô đã vĩnh viễn hoàn thành. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô đã Phục Sinh, Ngài đang sống trong vinh quang của Chúa Cha. Chính vì chúng ta tin rằng chúng ta đã được Phục Sinh trong Chúa Kitô và sau này sẽ được Phục Sinh như Ngài, nên chúng ta đón nhận cuộc đời, kể cả đau khổ và cái chết, một cách tích cực, chủ động và vui tươi. Đau khổ không còn phi lý nữa, bởi vì thập giá đã được đưa vào vinh quang Phục Sinh. Không còn gì là tuyệt đối bi đát, tuyệt đối hư hỏng, vì từ cái chết, Thiên Chúa đã làm phát sinh sự sống trong Chúa Kitô. Nếu chúng ta đã tin vào sự Phục Sinh, vào chiến thắng chung quyết của Chúa Kitô, thì chúng ta sẽ không còn lo âu buồn phiền, không còn sống ích kỷ hẹp hòi, mà dám từ bỏ, hy sinh, xả thân, liều mạng vì sự sống và hạnh phúc của mọi người. Phục Sinh không chỉ nhằm ngày mai, nhằm bên kia thế giới, nhằm thiên đàng đã được hứa ban. Phục Sinh cũng nhằm và còn nhằm hôm nay, nhằm chính cuộc sống cụ thể của chúng ta.
Chúng ta có thể thực hiện trước kỳ hạn lễ Vượt Qua của chúng ta trên miền đất chúng ta đang sống hằng ngày bằng cách sống cho tình yêu, chết vì tình yêu: yêu Chúa, yêu anh em, yêu quê hương, yêu đồng bào, đó phải là chương trình mới của cuộc sống vượt qua của chúng ta ở cõi đời này: chương trình Phục Sinh.

Chúa đã Phục Sinh
Năm B – 08-043-2012
Tin Mừng: Ga 20, 1-9
“Chúa đã phục sinh”, đó là tiếng hô vui mừng của Phêrô, của Gioan, và của mọi thế hệ Kitô hữu. Đó là niềm tin của Giáo hội, là Tin Mừng trọng đại không chỉ cho các môn đệ Đức Giêsu mà thôi, nhưng còn cho tất cả mọi người, mọi dân tộc. Tin Mừng đó phải được vang xa đến tận chân trời góc biển. Giờ đây, cái chết không còn là tiếng nói cuối cùng, bởi vì sau sự chết là sự sống lại, và những người cùng chết với Chúa thì sẽ được sống lại với Người.
Sự kiện Đức Giêsu sống lại là một biến cố lịch sử, với những chứng từ lịch sử được tất cả bốn sách Tin Mừng và các sách Tân Ước ghi lại: Ngôi mộ trống, khăn liệm xếp ngay ngắn gọn gàng, Đức Giêsu đã nhiều lần hiện ra cùng ăn uống và đàm đạo với các môn đệ.
Hơn nữa, sự kiện Đức Giêsu phục sinh còn là một Mầu Nhiệm Đức tin, một biến cố siêu việt vượt trên lịch sử. Sau khi sống lại, thân xác Đức Giêsu trở nên vinh hiển thần thiêng, không bị thời gian và không gian chi phối. Người được biến đổi hoàn toàn, trở nên sáng láng, linh thiêng.
Sự phục sinh của Đức Giêsu xác nhận tất cả những gì Chúa đã làm và đã dạy. Nhờ sự phục sinh, những lời báo trước trong Cựu Ước và của chính Người được hoàn thành. Sự phục sinh cũng xác nhận chân lý về thần tính của Đức Giêsu, Người thực sự là Thiên Chúa và là Con Thiên Chúa.
Đức Kitô phục sinh để mở đường cho chúng ta bước vào sự sống mới, chúng ta được trở nên người anh em của Đức Giêsu và được thông phần vào sự sống của Người Con Một. Đức Kitô phục sinh là nguyên lý và nguồn mạch cho sự sống sau này của chúng ta.
Hân hoan trong biến cố phục sinh, các môn đệ Đức Giêsu đã không chỉ làm chứng về ngôi mộ trống, nhưng họ đã làm chứng Đức Giêsu đã thực sự phục sinh vì Người đã hiện ra với họ. Họ không làm chứng bằng “đầu môi chót lưỡi”, nhưng bằng cách thay đổi lối sống của mình. Họ không còn sống cho chính bản thân nhưng đã “sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình”. Họ sẵn sàng chịu đau khổ, chịu chết vì danh Đức Kitô phục sinh.
Hôm nay, Giáo hội vẫn không ngừng làm chứng cho thế giới biết rằng: Đức Giêsu Nazaret đã chịu chết và sống lại vì yêu thương nhân loại, chính Người là đường hạnh phúc của tất cả mọi người, mọi dân tộc. Giáo hội diễn tả lại khuôn mặt đầy nhân hậu của Đấng Phục sinh đang hiện diện trên thế giới. Giáo hội tiếp tục sứ mạng của Thầy Chí thánh đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm…
Chúng ta cũng được mời gọi làm chứng về sự phục sinh của Đức Giêsu. Vậy làm sao để trở thành chứng nhân? Các môn đệ đã được gặp gỡ, được ăn uống và trò chuyện với Đức Giêsu Phục sinh và đã được biến đổi, từ những người nhút nhát trở nên kiên cường. Như các môn đệ, chúng ta phải thao thức gặp gỡ Người qua Kinh thánh, qua lời cầu nguyện, qua anh chị em chúng ta…và khao khát được biến đổi, để có thể làm chứng cho Người.
Gợi ý chia sẻ: Anh chị em đã làm chứng cho Tin Mừng Phục sinh như thế nào?
Học viện Đa Minh
(CSTMHĐGDĐM tháng 4.2012)

08/04/12 CHÚA NHẬT PHỤC SINH
Ga 20,1-9
TÌNH YÊU BIẾN ĐỔI

Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. (Ga 20,1)

Suy niệm: Bà Maria Mácđala chỉ chờ vừa hết ngày Sabát, mới sáng sớm, “lúc trời còn tối” là đã tất tả đi mua dầu thơm, chạy ra mộ để “ướp xác Chúa” (Mc 16,1). Thế mà, thật bàng hoàng, ngôi mộ trống hoang, xác Thầy đã biến đâu mất. Bà chỉ còn biết khóc. Chỉ có động lực tình yêu mãnh liệt mới lý giải được những việc làm và tâm trạng của bà Maria trong lúc này. Tình yêu Chúa đã giật bà ra khỏi bàn tay của “bảy quỉ” (Lc 8,2) và biến đổi bà khiến bà từ đấy chỉ sống vì tình yêu: vì yêu, bà đã đi theo Thầy Giêsu trong suốt con đường khổ nạn cách kiên trung đến tận dưới chân thập giá; và cũng nhờ tình yêu đó, bà đã được Chúa cho gặp Ngài ngay trong những giờ phút đầu tiên Ngài sống lại, và là người đầu tiên được Chúa sai đi loan tin mừng Ngài đã phục sinh.

Mời Bạn: Người môn đệ đích thực của Chúa Kitô là người gắn bó với Ngài bằng một tình yêu nồng nàn và nhờ đó xác tín chắc chắn rằng Ngài “đã chịu chết nhưng nay Ngài đang sống” (x. Cv 2,32; 25,19) như thế mới có đủ tư cách để làm chứng cho người khác rằng: “Tôi đã thấy Chúa.” Mời bạn tự vấn: Tôi cần làm gì để được Chúa biến đổi, trở nên người môn đệ đích thực của Ngài?

Chia sẻ: Bạn có thói quen hay cung cách sống sống nào làm lời chứng về Chúa Kitô Phục Sinh bị lu mờ không?

Sống Lời Chúa: Mạnh dạn sống theo những giá trị của Tin Mừng Làm chứng niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh.

Cầu nguyện: Xin Ánh sáng Phục Sinh của Chúa bao phủ cuộc đời con và chiếu soi vào những chỗ tăm tối trong tâm hồn, để con được biến đổi mỗi ngày.


Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật Phục Sinh, Năm ABC
Bài đọc: Acts 10:34, 37-43; Col 3:1-4; Jn 20:1-9.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: 
Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết.

Để hiểu niềm vui của Tin Mừng Phục Sinh, chúng ta cần so sánh hai thái độ của các tông đồ: nỗi thất vọng của các ông khi phải đối diện với Cuộc Thương Khó và cái chết của Chúa Giêsu; các ông đã sợ hãi và bỏ trốn hết vì sợ liên lụy: Chúa chết hết truyện. Nhưng nỗi thất vọng của các ông được bừng lên thành niềm hy vọng của Ngày Phục Sinh: vì Chúa sống lại, mọi biến cố của quá khứ cùng sống lại, được nhìn và mang ý nghĩa với Chúa Phục Sinh,
Các Bài Đọc hôm nay tập trung vào các nhân chứng của Mầu Nhiệm Phục Sinh và Tin Mừng họ làm chứng và rao giảng. Trong Bài Đọc I, Phêrô, từ một con người chối từ Chúa 3 lần trong Cuộc Thương Khó của Ngài, giờ can đảm làm chứng cho Chúa Giêsu trước mặt mọi người. Điều đã cải biến ông là Tin Mừng Phục Sinh: Nếu Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại, quyền lực thế gian đã không thắng nổi quyền lực Thiên Chúa, chẳng còn gì để sợ hãi nữa. Trong Bài Đọc II, tác giả Thư Côlossê nhắc nhở cho các tín hữu biết hậu quả của Mầu Nhiệm Phục Sinh mang lại: Họ mang trong mình mầm sống của Đức Kitô Phục Sinh; mầm sống này đòi hỏi họ phải luôn biết tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời, đừng chỉ bằng lòng với những giá trị của hạ giới là của thế gian này. Họ phải sống làm sao để có ngày được cùng sống lại với Chúa Kitô phục sinh. Trong Phúc Âm, Bà Maria Magdala ra thăm mộ Chúa từ sáng sớm khi trời còn tối; Bà không tìm thấy xác Chúa nên vội chạy về báo cho các môn đệ biết. Phêrô và Gioan, khi biết được, đã vội vã chạy đến mộ. Các ông thấy và các ông đã tin những gì Chúa tiên báo trước khi Ngài chịu chết.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Tin Mừng về Chúa Giêsu.
Trình thuật của Sách Tông Đồ Công Vụ chỉ tập trung trong những biến cố chính của cuộc đời Chúa Giêsu; một phần có lẽ vì rao giảng cho thế hệ cùng thời với Chúa, một phần vì bản tính đơn sơ, chất phác của Phêrô.
1.1/ Ông Phêrô làm chứng cho Chúa Giêsu.
(1) Về cuộc đời của Ngài: Ông Phêrô nhắc lại những gì khán giả biết về Chúa Giêsu:
- Gioan Tẩy Giả là Tiền Hô của Thiên Chúa: “Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Judah, bắt đầu từ miền Galilee, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng.” Phêrô chỉ nhắc lại cuộc đời công khai rao giảng của Chúa.
- Phêrô muốn nhắc lại cho khán giả cuộc đời Chúa Giêsu cách tổng quát: lai lịch, biến cố Rửa Tội tại sông Jordan, các phép lạ chứng tỏ uy quyền của Ngài. “Quý vị biết rõ: Đức Giêsu xuất thân từ Nazareth, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người.”
(2) Về cái chết và sự sống lại của Ngài:
- Phêrô làm chứng cho sự chết của Đức Kitô trên Thập Giá: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Jerusalem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi.”
- Phêrô làm chứng cho sự phục sinh của Đức Kitô: “Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại.”
1.2/ Bổn phận của các Tông-đồ: Chúa chọn các ông là cho một sứ vụ; giờ đây đã đến lúc các ông phải thay Ngài để rao truyền Tin Mừng cho muôn dân. Hai bổn phận chính của các Tông-đồ:
(1) Phải rao giảng: “Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân.”
(2) Phải long trọng làm chứng hai điều:
- Chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết.
- Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai mà các tiên tri đã loan báo: “Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội." Lời của tiên tri Isaiah trong các Bài ca về Người Tôi Trung của Thiên Chúa mà chúng ta nghe trong Tuần Thánh là căn bản của lời chứng này.

2/ Bài đọc II: Nguyên lý của đời sống mới: kết hợp với Đức Kitô phục sinh.
2.1/ Thượng giới và hạ giới: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới.”
- Thượng giới là Thiên Đàng nơi Đức Kitô đang sống với Thiên Chúa; hạ giới là trần gian nơi con người chúng ta đang sinh sống. Chúa Giêsu cũng đã đề cập đến sự cách biệt này khi tranh luận với người Do-thái: "Các ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã nói với các ông là các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết. Thật vậy, nếu các ông không tin là Tôi Hằng Hữu, các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết."
- Vấn đề của con người hiện đại là đang quá chú tâm đến hạ giới: nhà cửa sang trọng, xe cộ mắc tiền, hưởng thụ các thú vui vật chất … Dĩ nhiên, con người cần phải chú tâm đến các vấn đề ăn, uống, ở … nhưng không đến nỗi gạt bỏ hay không chút quan tâm đến các giá trị của thượng giới.
2.2/ Sự sống mới của Đức Kitô đang tiềm tàng nơi các tín hữu: “Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang.”
Làm sao biết có sự sống mới này đang tiềm tàng nơi con người? Thứ nhất, qua tấm áo trắng của Bí-tích Rửa Tội, người Kitô hữu được “mặc lấy” toàn thể Đức Kitô: cả sự chết lẫn sự phục sinh của Ngài. Thứ đến, qua Bí-tích Thánh Thể, người Kitô hữu được tháp nhập vào thân thể của Ngài. Vì có sự sống mới này trong người, các Kitô hữu phải từ bỏ nếp sống cũ với các tội lỗi của nó, để sống đời sống mới, đời sống ân sủng và nhân đức như Đức Kitô. Khi con người sống kết hợp với Đức Kitô, họ có thể thốt lên như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi.”

3/ Phúc Âm: Ngôi mộ trống
3.1/ Sức mạnh của tình yêu: Tác giả Sách Diễm Ca ca tụng tình yêu: “Nước lũ không dập tắt nổi tình yêu, sóng cồn chẳng tài nào vùi lấp. Ai đem hết gia tài sự nghiệp mà đổi lấy tình yêu, ắt sẽ bị người đời khinh dể.”
(1) Chúa Giêsu yêu Mary Magdala: Bà là người được Chúa Giêsu chữa cho khỏi bảy quỉ. Đối với con người, chẳng có gì là đáng yêu trong người đàn bà này; nhưng đối với Thiên Chúa, Ngài thương con cái mình bị ma quỉ xiềng xích. Từ lúc được lành bệnh, Bà luôn theo Chúa Giêsu, và đứng dưới chân Thập Giá khi Ngài hấp hối.
(2) Bà Mary Magdala yêu Chúa Giêsu: Bà là người đã khóc công khai để lấy nước mắt rửa chân, lấy tóc lau chân, và lấy dầu đắt tiền xức chân Chúa. Ngay cả cái chết cũng không dập tắt nổi tình yêu của Bà Mary Magdala dành cho Chúa Giêsu. Một người có thể nói Bà là người sống tình yêu với Chúa hơn ai hết qua sự kiện Bà chỉ chờ khi bắt đầu ngày mới (3-6 giờ sáng), là người đầu tiên lên đường ra mộ tìm Chúa. Tình yêu dành cho Chúa Giêsu làm Bà vượt qua nhiều sự sợ hãi: quân lính Rôma, người Do-thái, bóng tối, ma quỉ, lạnh lẽo, lười biếng …
Khi đến nơi và thấy tảng đá lớn đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simon Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu."
3.2/ Hai ông Phêrô và Gioan ra thăm mộ: Các môn đệ không dám xuất hiện trước công chúng vì họ sợ sẽ bị truy tố như Thầy mình. Các ông chắc cũng thất vọng vì Chúa Giêsu không hoàn thành ước mơ của các ông. Khi được Mary Magdala cho biết tin ngôi mộ trống, ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào.
(1) Ngôi mộ trống: Ông Simon Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Hai câu hỏi được nêu ra từ trình thuật này:
- Tại sao người môn đệ chạy tới trước không vào lại chờ cho Phêrô tới và vào trước? Phải chăng vì ông sợ? Phải chăng vì ông muốn tôn trọng quyền bính của Phêrô? Tuy Phêrô đã chối Chúa ba lần, nhưng ông luôn là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Chính Chúa Giêsu đã đặt Phêrô vào địa vị này.
- Vì các ông không ngờ là Chúa đã sống lại, nên chỉ còn giả thuyết là người ta đã đánh cắp xác Chúa; nhưng điều làm các ông ngạc nhiên là tại sao lấy xác mà không lấy khăn niệm, lại còn cuộn lại cẩn thận và xếp gọn lại một nơi!
(2) Ông đã thấy và ông đã tin: “Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết.” Bản dịch của NPVCGK dịch không chính xác, phải dịch: “Ông đã thấy và đã tin; dù chưa hiểu theo Kinh Thánh Đức Giêsu phải sống lại từ cõi chết.” Thánh sử Gioan muốn phân biệt hai niềm tin:
- Thấy và tin: Đây là niềm tin thực nghiệm.
- Theo Kinh Thánh: Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết. Đây là niềm tin dựa vào uy thế của Sách Thánh.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Biến cố Chúa Giêsu phục sinh chứng tỏ rõ ràng cho chúng ta một điều quan trọng: chết không hết. Chúa Giêsu đi trước để dọn đường, và Ngài sẽ kéo mọi người chúng ta lên với Ngài. Vì thế, chúng ta không được sống như không có đời sau.
- Chúa Giêsu đã gánh chịu mọi đau khổ để đền thay tội lỗi của chúng ta, và Ngài đã phục sinh vinh hiển để chuẩn bị cho chúng ta cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Còn ai yêu thương và lo lắng cho chúng ta hơn Chúa Giêsu? Hãy dành trọn vẹn tình yêu cho Ngài.
- Hãy làm hết sức cho có được tình yêu với Chúa Giêsu như Mary Magdala. Một khi có được tình yêu như thế, chúng ta sẽ vượt qua mọi trở ngại để trung thành với Thiên Chúa và làm chứng cho Thiên Chúa bằng cách yêu thương mọi người.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************
Lời Chúa Trong Gia Đình
THÁNH LỄ CHÚA NHẬT PHỤC SINH. Cv 10, 34a. 37-43; Cl 3, 1-4; Ga 20, 1-9.
LỜI SUY NIỆM: “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simon Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến.” (Ga 20,1-2)
          Mặc dầu Phêrô đã ba lần chối bỏ Chúa trong đêm Chúa bị tra hỏi, vì sợ phải liên lụy đến bản thân mình. Ông đã sám hối, ông đã than khóc vì lỗi lầm yếu đuối mà chối Chúa. Nhưng ông đã không bỏ cuộc, ông không mặc cảm về tội lỗi của mình. Ông tin vào tình yêu thương của Chúa Giêsu nên Ông đã khiêm tốn, can đảm đến sum họp với anh em tông đồ của Chúa. Qua thái độ của Bà Maria Mácđala về báo tin cho ông và người môn đệ được Đức Giêsu thương mến, và cử chỉ của người môn đệ này đến mộ trước cũng chờ Phêrô đến nơi, rồi mới vào bên trong mộ: nói lên sự tôn trọng Phêrô trong cương vị của ông.
          Trong đời sống cộng đoàn chúng ta cũng cần có thái độ như Thánh Phêrô, cũng như Maria Mácđala và người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến, khi sống với nhau và phục vụ cộng đoàn.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
08 Tháng Tư
Cái Này Của Tôi

Hai hiền nhân đã chung sống với nhau dưới một mái nhà trải qua nhiều năm tháng, nhưng không bao giờ họ lớn tiếng cãi vã nhau. Một hôm kia, một người có ý nghĩ ngộ nghĩnh. Ông bảo bạn:
"Ít ra là một lần, tôi muốn chúng ta phải cãi vã nhau, như chúng ta thấy thiên hạ thường làm".
Ông kia không khỏi ngạc nhiên về ý nghĩ kỳ lạ này, nhưng chiều bạn, ông ta hỡm hờ hỏi: "Cãi vã thế nào được, ít ra chúng ta phải tìm ra một việc gì chính đáng để cãi nhau chứ". Người có ý kiến phải cãi nhau đề nghị: "Này nhé, dễ lắm! Tôi để một viên đá ra giữa sân và quả quyết viên đá này là của tôi. Ông phải phùng mang trợn mắt, đỏ mặt tía tai và lớn tiếng cãi lại: làm gì có chuyện đó, viên gạch là của tôi. Rồi sau đó chúng ta cãi nhau".
Nói xong ông ta bèn ra đường và tìm một viên đá to, khệ nệ khiêng ra đặt ở giữa sân. Ông bạn kia bắt đầu ngay, ông ta lớn tiếng:
"Viên đá đó của tôi mà mắc mớ gì ông lại mang ra giữa sân". Ông kia cãi lại: "Viên đá này là của tôi. Tôi vừa tìm được ở ven đường. Bộ ông mù rồi sao mà không thấy?". Nghe nói thế, ông kia đáp:
"À phải rồi, viên đá đó ông tìm được thì đúng là của ông rồi. Vả lại tôi cũng không cần có đá để làm gì".
Nói xong, ông ta bỏ đi làm việc khác. Thế là ý định cãi nhau của hai người không được thành tựu như ý muốn.
Ngay từ thuở bập bẹ nói được, con người đã học câu "Cái này là của tôi" để thể hiện quyền làm chủ của mình. Quan sát các cuộc cãi nhau của trẻ con, chúng ta nghe thấy câu nói đó được lặp đi lặp lại nhiều nhất.
Rồi trong xã hội của những người lớn, dù có những cách nói hoa mỹ hay những lý luận có vẻ hợp lý hơn, nhưng chung quy phần lớn những mối bất hòa vẫn xoay xung quanh câu xác quyết "Cái này là của tôi".
Trẻ con tranh nhau hòn bi, trái banh. Người lớn giành nhau địa vị, lợi lộc. Quốc gia tranh nhau đất đai, hòn đảo, vùng ảnh hưởng, môi trường tiêu thụ.
Trẻ con dùng lời vã cãi nhau, dùng thoi đánh đấm nhau. Người lớn dùng bạo lực, thủ đoạn thanh toán nhau. Quốc gia dùng khí giới, bom đạn giết hại, tàn phá nhau.
Ngược lại bẩm tính thích tranh nhau chiếm hữu này, sứ điệp của Giáo Hội luôn vang lên hai tiếng: Chia sẻ.
Ở Hoa Kỳ, mỗi gia đình công giáo được phân phát một hộp giấy, để trong suốt Mùa Chay, mỗi phần tử trong gia đình bỏ vào đấy những đồng tiền tiết kiệm do bớt ăn, bớt uống, bớt chi tiền vào những việc giải trí. Cuối Mùa Chay, những số tiền dành dụm đó được đóng góp vào quỹ dành cho việc tài trợ những chương trình cứu tế xã hội trong và ngoài nước.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++

Ngày 08
CHÚA NHẬT PHỤC SINH

Phép lạ vĩ đại

Chỉ có một con đường giúp cho đời sống tinh thần được lớn dậy: con đường tình yêu! Để cho đời sống tinh thần được phát triển - ở đây không nói đến lý trí và ký ức, những điều có thể bị già cỗi, nhưng từ điều tế nhị của hữu thể qua đó tôi ở trong liên hệ với Mầu nhiệm sự sống, Tình yêu và bình an - chỉ có một con đường duy nhất: bước vào liên hệ với Mầu nhiệm và nguồn mạch hiện hữu, mà nhiều người gọi là Thiên Chúa. Vào những giây phút quyết định nhất, chúng ta không cảm thấy sức mạnh của sự sống và tình yêu này đang run động trong trái tim giữa lổng ngực chúng ta sao? Chúng ta có cảm thấy sức mạnh này từ rất xa hay sao?

Cảm giác, đó là dấu vết của sự phục sinh đã bắt đầu trong chúng ta. Thánh Phaolô đã xác nhận:"Anh em đã được sống lại cùng với Đức Kitô". Ngài không nói "anh em sẽ"; nhưng ngài viết "anh em đang" trên đường hướng tới sự Phục sinh. Vì thế, tôi cảm nhận được lời mời bước vào liên hệ tôn trọng, công chính và tình yêu với một số rất đông con người.

Còn Đức Kitô thì sao? Người là Đấng đầu tiên và chói sáng nhất giữa các người được sống lại, để trong Người và với Người, chúng ta sẽ được trở thành những người được Phục sinh.

Viện phụ Marc Donzé


CHÚC MỪNG PHỤC SINH



Chúa Nhật 8-4

Thánh Julie Billiart

(1751 - 1816)

S
inh ở Cuvilly, nước Pháp, trong một gia đình nông dân trung lưu, ngay từ nhỏ Marie Rose Julie Billiart đã có lòng đạo hạnh và muốn giúp đỡ người nghèo. Mặc dù những năm niên thiếu thật êm đềm và thanh thản, nhưng khi lớn lên Julie đã phải làm việc lao động để giúp đỡ tài chánh cho gia đình. Tuy nhiên, cô vẫn dành thời giờ để dạy giáo lý cho các trẻ em và các nông dân.
Khoảng 20 tuổi, sau khi tận mắt chứng kiến cảnh kẻ thù địch muốn giết hại cha mình, cô Julie đã bị chấn động đến độ bất toại và tàn phế. Trong thời gian này, khi chịu lễ hàng ngày, cô luyện tập đời sống tâm linh và dành bốn đến năm giờ đồng hồ trong sự chiêm niệm. Trong vòng hai thập niên kế đó, dù phải liệt giường nhưng cô vẫn tiếp tục dạy giáo lý, khuyên bảo và thu hút nhiều người đến với cô vì nghe tiếng thánh thiện của cô.
Khi cuộc Cách Mạng Pháp bùng nổ năm 1789, cô Julie dùng nhà mình làm nơi ẩn náu cho các linh mục đang bị lùng bắt. Do đó, chính cô trở thành nạn nhân bị săn đuổi. Với sự giúp đỡ của bạn bè, cô ẩn trong chiếc xe bò chở rơm trốn đến Cuvilly; trong một vài năm kế tiếp cô trốn ở Compeigne, di chuyển từ nhà này sang nhà khác bất kể sự đau đớn về thể xác. Có lần cô đau đớn đến độ mất cả tiếng nói.
Nhưng giai đoạn này là thời gian phát triển đời sống tâm linh của Julie. Chính trong thời gian này cô được nhìn thấy Chúa Giêsu trên đồi Canvê mà bao quanh là các phụ nữ mặc áo dòng, và cô nghe có tiếng nói, "Ðây là những người con tinh thần mà Ta trao cho con trong một tổ chức có dấu thập giá." Thời gian trôi qua và Julie quen biết với một phụ nữ quý tộc, cô Francoise Blin de Bourdon, là người cùng chia sẻ việc dạy giáo lý với cô. Vào năm 1803, hai người bắt đầu thành lập một tổ chức lấy tên là Hội Dòng Ðức Bà Namur, để giáo dục người nghèo cũng như các thiếu nữ Công Giáo và huấn luyện giáo lý viên. Năm 1804, cô Julie được bình phục và có thể đi lại bình thường sau 22 năm tàn phế. Vào năm 1805, Julie và ba người bạn là các nữ tu đầu tiên của Hội Dòng Ðức Bà Namur khấn trọn. Sơ Julie được bầu làm Mẹ Bề Trên của tu hội trẻ trung này.
Mặc dù Sơ Julie luôn luôn chú ý đến nhu cầu của người nghèo và đó vẫn là điều tiên quyết, nhưng sơ nhận thấy những người thuộc giai cấp khác của xã hội cũng cần được học hỏi về giáo lý Công Giáo. Từ lúc thành lập tu hội Các Nữ Tu của Ðức Bà cho đến khi từ trần, Sơ Julie luôn luôn di chuyển để mở các trường học khác nhau ở Pháp và Bỉ để phục vụ người nghèo cũng như giầu. Sau cùng, Sơ Julie và Sơ Francoise di chuyển nhà mẹ đến Namur, nước Bỉ.
Sơ Julie từ trần năm 1816, và được Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI phong thánh năm 1969.

Copyright © 2010 by Nguoi Tin Huu.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét