Trang

Thứ Ba, 10 tháng 4, 2012

THỨ TƯ TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH


Thứ Tư trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh
Cv 3,1-10; Tv 104; Lc 24,13-35.
(Phê-rô và Gioan ở Cửa Đẹp)
Bài đọc 1 : Cv 3,1-10

1 Một hôm, ông Phê-rô và ông Gio-an lên Đền Thờ, vào buổi cầu nguyện giờ thứ chín. 2 Khi ấy, người ta khiêng đến một người què từ khi lọt lòng mẹ. Ngày ngày họ đặt anh ta bên cửa Đền Thờ gọi là Cửa Đẹp, để xin kẻ ra vào Đền Thờ bố thí. 3 Vừa thấy ông Phê-rô và ông Gio-an sắp vào Đền Thờ, anh liền xin bố thí. 4 Hai ông nhìn thẳng vào anh, và ông Phê-rô nói : "Anh nhìn chúng tôi đây !" 5 Anh ta chăm chú nhìn hai ông, tưởng rằng sẽ được cái gì. 6 Bấy giờ ông Phê-rô nói : "Vàng bạc thì tôi không có ; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây : nhân danh Đức Giê-su Ki-tô người Na-da-rét, anh đứng dậy mà đi !" 7 Rồi ông nắm chặt lấy tay mặt anh, kéo anh chỗi dậy. Lập tức bàn chân và xương mắt cá của anh trở nên cứng cáp. 8 Anh đứng phắt dậy, đi lại được ; rồi cùng với hai ông, anh vào Đền Thờ, vừa đi vừa nhảy nhót và ca tụng Thiên Chúa. 9 Toàn dân thấy anh đi lại và ca tụng Thiên Chúa. 10 Và khi nhận ra anh chính là người vẫn ngồi ăn xin tại Cửa Đẹp Đền Thờ, họ kinh ngạc sững sờ về sự việc mới xảy đến cho anh.



Đáp ca : Tv 104,1-2.3-4.6-7.8-9 (Đ. c. 3b)

Đáp :    Tâm hồn những ai tìm kiếm Chúa, nào hoan hỷ.

Hoặc:
Đáp : Ha-lê-lui-a.

1          Hãy tạ ơn Chúa, cầu khẩn danh Người,
            vĩ nghiệp của Người, loan báo giữa muôn dân.
2          Hát lên đi, đàn ca mừng Chúa,
            và suy gẫm mọi kỳ công của Người.                            Đ.

3          Hãy tự hào vì danh thánh Chúa,
            tâm hồn những ai tìm kiếm Chúa, nào hoan hỷ.
4          Hãy tìm Chúa và sức mạnh của Người,
            chẳng khi ngừng tìm kiếm Thánh Nhan.                                  Đ.

6          Hỡi anh em, dòng dõi Áp-ra-ham tôi tớ Chúa,
            con cháu Gia-cóp được Người tuyển chọn !
7          Chính Đức Chúa là Thiên Chúa chúng ta,
            những điều Người quyết định
            là luật chung cho cả địa cầu.                                                   Đ.

8          Giao ước lập ra, muôn đời Người nhớ mãi,
            nhớ lời đã cam kết đến ngàn thế hệ !
9          Đó là điều đã giao ước cùng Áp-ra-ham,
            đã đoan thề cùng I-xa-ác.                                                        Đ.



Tung hô Tin Mừng                   Tv 117,24

Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a.
Đây là ngày Chúa đã làm ra,
nào ta hãy vui mừng hoan hỷ. Ha-lê-lui-a.




Tin Mừng : Lc 24,13-35

13 Vào ngày thứ nhất trong tuần, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số.14 Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. 15 Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ. 16 Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. 17 Người hỏi họ : "Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy ?" Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu.
18 Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời : "Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay." 19 Đức Giê-su hỏi : "Chuyện gì vậy ?" Họ thưa : "Chuyện ông Giê-su Na-da-rét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. 20 Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá. 21 Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. 22 Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, 23 không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. 24 Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói ; còn chính Người thì họ không thấy."
25 Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng : "Các anh chẳng hiểu gì cả ! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ ! 26 Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao ? 27 Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.
28 Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa. 29 Họ nài ép Người rằng : "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn." Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. 30 Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. 31 Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. 32 Họ mới bảo nhau : "Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao ?"
33 Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. 34 Những người này bảo hai ông : "Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-môn." 35 Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
(bản văn theo UB.Kinh Thánh/HĐGMVN)
Suy Niệm:
Chúa hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau. Emmau cách Giêrusalem sáu mươi dặm (phỏng mười một kilômét). Chúa Giêsu đã đồng hành với họ, giải thích Kinh Thánh cho họ. Nhưng họ chỉ nhận ra Ngài khi Ngài bẻ bánh. Sau khi đã nhận ra Chúa, hiểu Lời Chúa, họ liền quay về Giêrusalem. Như một hành trình vượt qua đêm tối của đời họ, đã mấy hôm họ luôn sống trong thất vọng. Hôm nay họ trở về để chia sẻ niềm vui với các bạn hữu.
Sự kiện Phục Sinh đem lại cho các môn đệ nguồn sống mới, và là nguồn động lực thúc giục họ mau mắn ra đi rao giảng Tin Mừng.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, bài Tin Mừng hôm nay cho chúng con thấy: nhờ biết Kinh Thánh và được giải thích Kinh Thánh, tâm hồn hai môn đệ được nóng lên, được biến đổi để nhận ra sự hiện diện của Chúa khi bẻ bánh.
Lạy Chúa, lời Chúa trong Kinh Thánh rất cần thiết cho chúng con. Xin cho chúng con siêng năng đọc Lời Chúa. Ðược Lời Chúa hướng dẫn, chúng con luôn vui tươi vì nhận ra Chúa đang sống đồng hành với chúng con trong cuộc sống. Nhờ đó cuộc sống chúng con là lời loan báo sống động sự phục sinh vinh quang của Chúa. Amen.

(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)

Chúa Ðã Sống Lại


Anh chị em thân mến!
Trên đường về làng Emmau có hai kẻ song hành. Họ âm thầm bước đi bên nhau, mỗi người một suy nghĩ nhưng có cùng một mẫu số chung là tuyệt vọng. Và tuyệt vọng cũng là điều dễ hiểu vì Thầy họ, một người đầy uy quyền mà phải đầu hàng trước hội đường Do Thái, phải gục ngã trước uy quyền của thần chết.
Bởi thế, dù bước đi bên nhau mà tưởng chừng như độc hành. Cùng trên đoạn đường đi ấy, một người thứ ba xuất hiện đi cùng và đối thoại trao đổi cách thân tình. Vì thế, lòng họ ấm áp lại và rồi tâm hồn họ đã hồi sinh thực sự khi Ngài bẻ bánh trao cho họ. "Trao bánh" là ban một cử chỉ thông hiệp thân mật và là mối dây thông cảm thân tình giữa Thầy và Trò.
Thế giới hôm nay cũng không thiếu những tâm hồn cô độc tuyệt vọng. Tuyệt vọng vì mất niềm tin, vì không thấy ý nghĩa cuộc đời. Tuyệt vọng vì chiến tranh bạo lực, vì những cấu xé tranh giành giữa con người cùng chung một dòng máu. Tuyệt vọng vì nghèo đói, bị khinh bỉ, bị đặt ra ngoài lề xã hội.
Giữa những cảnh tuyệt vọng ấy, bổn phận người Kitô hữu là gì nếu không phải là đốt lên ngọn lửa yêu thương để sưởi ấm tâm hồn. Bổn phận này không đòi hỏi phải có những tổ chức rộng lớn, nhưng phương tiện tân kỳ hoặc những khả năng phi thường, nhưng chỉ cần những đối thoại trao đổi đơn sơ nhưng đầy tình Chúa và tình người cũng mang lại những giá trị của nó: "Phải chăng trong lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong khi Ngài đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?"
Một cử chỉ cầm tay và ngồi bên giường bệnh nhân hàng giờ của người nữ y tá chẳng là gì, nhưng nếu không có cử chỉ ấy thì giá trị của cuộc giải phẫu sẽ chẳng lường trước được.
Lạy Chúa, nếu cuộc sống đã làm cho con đau lòng tuyệt vọng thì xin Chúa cho con biết tìm về Lời Chúa và Mình Chúa để lấy lại sức mạnh cho tâm hồn. Vì Lời Chúa sẽ hâm nóng tâm hồn giá lạnh của con; và bàn tiệc Thánh Thể sẽ cho con được hồi sinh. Ðể như hai môn đệ trên đường Emmau, một khi đã được hồi sinh, con sẽ đến với người anh em để nói cho họ về niềm tin vui Phục Sinh, về tình thương của Chúa. Amen.

(Veritas Asia)

Suy Niệm:
Dưới dáng dấp một người khách lạ, 
Chúa Giêsu phục sinh đến với hai môn đệ Emmau. 
Ngài đến đúng lúc, đúng lúc họ đang bỏ cuộc, 
quay quắt và ray rứt vì chuyện đã qua. 
Ngài đi cùng với họ, đi gần bên họ, 
khiêm tốn trở thành một người bạn đồng hành. 
Ngài gợi chuyện, hay đúng hơn, 
Ngài muốn tham dự vào câu chuyện dở dang của họ. 
Chúa Giêsu không nản lòng trước câu trả lời lạnh nhạt: 
“Chắc chỉ có ông mới không biết chuyện vừa xảy ra…” 
Ngài không cắt đứt cuộc đối thoại: “Chuyện gì vậy?” 
Ngài giả vờ không biết để họ nói cho vơi nỗi buồn. 
Chúa Giêsu kiên nhẫn lắng nghe lời họ tâm sự. 
“Trước đây, chúng tôi hy vọng rằng…” 
Như thế niềm hy vọng này chỉ còn là chuyện quá khứ. 
Cả niềm tin cũng trở nên chai lì, 
họ đâu có tin vào lời của các bà ra thăm mộ.
Khi lắng nghe, Chúa Giêsu nhận ra cái gút của vấn đề, 
những câu hỏi mà họ không tìm ra lời giải đáp. 
Tại sao một người của Chúa, người mà họ tin là Ðức Kitô 
lại bị đóng đinh như một kẻ bị Thiên Chúa chúc dữ? 
Chúa Giêsu vén mở ý nghĩa của mầu nhiệm đau khổ. 
Ðau khổ là nhịp cầu mà Ðức Kitô phải vượt qua 
để sang bờ bên kia là vinh quang bất diệt. 
Ðau khổ không phải là chuyện xui xẻo, rủi ro, 
nhưng nó có chỗ đứng trong chương trình cứu độ. 
Lời của Chúa Giêsu là Tin Mừng ngọt ngào, 
khiến nỗi đau của họ dịu đi, lòng họ như ấm lại. 
Họ cố nài ép Ngài ở lại dùng bữa chiều. 
Và chính lúc Ngài cầm bánh bẻ ra trao cho họ 
thì họ nhận ra vị khách lạ chính là Thầy Giêsu.
Kinh nghiệm của hai môn đệ Emmau cũng là của chúng ta. 
Lúc ta tưởng Ngài vắng mặt, thì Ngài lại đang ở gần bên. 
Lúc ta nhận ra Ngài ở gần bên, thì Ngài lại biến mất rồi. 
Nhưng chính lúc Ngài biến mất, 
ta lại cảm nghiệm sâu hơn sự hiện diện của Ngài. 
Ngài đến lúc ta không ngờ. 
Ngài đi mà ta không giữ lại được. 
Ngài ở lại với ta cả khi ta không thấy Ngài nữa.
Ðấng Phục Sinh vẫn đến với ta hôm nay 
qua một người bạn hay một người lạ ta gặp tình cờ. 
Qua họ, Ngài thổi vào lòng ta niềm hy vọng tin yêu. 
Ngài vẫn đến với ta qua từng thánh lễ. 
Ngài đích thân giảng Tin Mừng và bẻ bánh trao cho ta. 
Sống như Chúa phục sinh là tập đến với tha nhân, 
tập đồng hành, tập gợi ý, tập lắng nghe, tập soi sáng… 
Hôm nay vẫn có nhiều người bạn đang lê gót về Emmau.
Cầu Nguyện:
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần có Chúa hiện diện
để con khỏi quên Chúa.
Chúa thấy con dễ bỏ Chúa biết chừng nào.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con yếu đuối,
con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ.
Không có Chúa,
con đâu còn nồng nhiệt hăng say.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn,
cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.
Con cần được thêm sức mạnh
để khỏi ngừng lại dọc đường.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời.
Con không dám xin những ơn siêu phàm,
chỉ xin ơn được Ngài hiện diện.
Xin ở lại với con
vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa
và không đòi phần thưởng nào khác
ngoài việc được yêu Chúa hơn.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J

Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? (Lc 24, 26)
Suy niệm: 
Mắt họ mở ra và lòng họ bừng cháy lên.
Thầy của mình đã chết, các môn đệ mất lý tưởng, họ buồn bã bỏ cuộc, bỏ cộng đoàn để trở về đời sống cũ. Có thể nói khi đánh mất lý tưởng, các ông đi tìm cái mình tưởng là có lý. Chính khi buồn sầu như thế, Chúa Giêsu đồng hành với các ông nhưng các ông không hề hay biết. Khi trao đổi với Chúa họ còn trách Ngài không biết sự kiện lớn lao vừa xảy ra. Họ trách chính người trong cuộc. Qua cuộc đối thoại, hai ông biểu lộ rõ tham vọng trần tục đã bị tuột mất. Trước đây các ông hy vọng rất nhiều vào Chúa, nhưng đã đến ngày thứ ba rồi. Cả khi các phụ nữ loan tin cho các ông rằng Chúa đã Phục Sinh nhưng các ông vẫn không tin.
Khi các ông thất vọng ê chề, Chúa Phục Sinh đã hiện diện, đồng hành với các ông, Ngài muốn gánh lấy những đau khổ nặng nề của các ông, giải thoát các ông ra khỏi đám mây mù u ám đang che lấp ánh mắt và tâm hồn các ông. Ngài gợi mở, dẫn các ông bước vào và đón nhận ánh sáng của Đấng Phục Sinh.
Nhưng chỉ khi Chúa dùng Kinh Thánh, dùng Ngôn sứ mà giảng dạy về Đấng Cứu Độ, và chỉ khi các ông được tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể với Chúa. Lúc đó mắt các ông mới mở ra, lòng các ông mới bừng cháy và nhận ra Ngài. Khi gặp đau khổ chúng ta rất dễ buông xuôi, chán nản, ngại chiến đấu. Bài học của hai người môn đệ chỉ cho chúng ta nơi chốn để chúng ta gặp được Chúa Phục Sinh đó chính là Thánh Lễ, tâm điểm của đời sống Giáo Hội. Bàn tiệc Lời Chúa trong Thánh Lễ sẽ soi sáng và dẫn chúng ta đến gặp Đức Kitô Phục Sinh để mắt chúng ta được mở ra. Bàn tiệc Mình và Máu Chúa sẽ nuôi dưỡng chúng ta, gia tăng nghị lực và lòng can đảm để chúng ta không bỏ cuộc nhưng biết quay về sống trong sự hiệp thông của những người con cùng một Cha.
Vai trò chứng nhân:
Ngay sau khi các ông trở về cộng đoàn thì nhóm 11 và các bạn hữu đã tụ tập ở đó với nhau. Điều đáng chú ý là hai ông đã không bị cộng đoàn từ khước. Ngược lại, cộng đoàn đã làm chứng cho hai ông về việc Phục Sinh của Thầy mình khi nói Chúa đã chỗi dậy thật rồi và hiện ra với ông Simon. Simon được nói ở đây như là một chứng nhân mang tính pháp lý đích thực. Về phần mình, hai ông cũng làm chứng Chúa đã sống lại ngang qua kinh nghiệm bỏ cuộc của các ông. Đúng là một trải nghiệm đầy ý nghĩa.
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa, sự đồng hành của Chúa trên đường Emmau đã đánh tan thất vọng, lo âu trong tâm hồn các môn đệ. Xin cũng ban cho chúng con sự bình an và ơn thánh qua bí tích Thánh Thể mà chúng con lãnh nhận mỗi khi chúng con tham dự Thánh lễ. Xin giúp chúng con đừng bao giờ dửng dưng như khách lạ với tha nhân, nhưng luôn liên kết, cảm thông và nâng đỡ những rủi ro, bất hạnh của tha nhân. Xin giúp chúng con đừng bao giờ chỉ tìm niềm vui nơi mình nhưng luôn nghĩ đến thiện ích cho tha nhân.

11/04/12 THỨ TƯ TUẦN BÁT NHẬT PS
Lc 24,13-35
ĐIỀU CHẮC CHẮN HƠN

“Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người.”
 (Lc 24,31) 

Suy niệm: Đối với hai môn đệ Emmau, việc Chúa chịu đóng đinh, chịu chết và được an táng, đó mới là chuyện chắc chắn mà mắt họ chứng kiến. Còn việc xác Ngài biến mất khỏi mồ rồi dựa vào đó mà truyền tai nhau rằng Chúa đã sống lại chẳng qua chỉ là tin đồn mà thôi. Giữa cái chắc chắn và tin đồn, hai môn đệ đã chọn cái họ cho là chắc chắn, một cái chắc chắn đưa họ đến thất vọng và trở về quê cũ. Chúa Kitô đã hiện đến đồng hành và chia sẻ nỗi lòng với họ, đã dùng lời Kinh Thánh soi sáng và nhất là dùng dấu chứng của Thánh Thể để kéo họ ra khỏi vũng lầy thất vọng. Mắt họ mở ra và họ nhận ra Chúa Phục Sinh, đó là điều chắc chắn hơn và họ nhanh nhẹn quay trở lại Giêrusalem hô to Tin Mừng Phục Sinh.

Mời Bạn: Có những cảnh sống mà ngày mai chỉ thấy tăm tối; có những gia đình mà nhìn quanh chỉ có đổ vỡ thay cho yêu thương; có những cuộc đời bị trói buộc trong bệnh hoạn tật nguyền; những điều đó đeo đẳng quay quắt trong cuộc sống hằng ngày khiến bạn tưởng rằng điều chắc chắn bạn phải đối đầu là những ngõ cụt của bất ổn, bất hoà, bất hạnh. Bạn hãy nhớ rằng có một điều chắc chắn hơn, đó là Đức Kitô đã phục sinh đem lại cho bạn niềm hy vọng cuộc sống hạnh phúc bất diệt.

Sống Lời Chúa: Kết hiệp với Chúa qua việc suy niệm Lời Chúa và rước Thánh Thể là bạn chọn lựa điều chắc chắn nhất; bạn sẽ không bao giờ thất vọng.
Cầu nguyện: Chúa vẫn hiện diện với chúng con trong bí tích Thánh Thể. Xin cho chúng con biết đến đồng bàn với Chúa nơi bàn tiệc Thánh Thể, để ngày sau chúng con cũng được đồng bàn với Ngài trong nhà Cha muôn đời. Amen.


Chúa vẫn đồng hành với các môn đệ sau cái chết của Ngài
Bài đọc: Acts 3:1-10; Lk 24:13-35.
Xa cách Chúa là một khủng hỏang và mất mát tất cả cho các môn đệ, vì họ đã đặt trọn vẹn niềm tin và cuộc đời của họ nơi Ngài. Hầu hết đã bỏ Chúa trong Cuộc Thương Khó của Ngài; và giờ đây không còn được nhìn thấy Ngài nữa, họ chán nản, thất vọng. Nhiều người rời Jerusalem để trở về với gia đình, làm lại cuộc đời như hai môn đệ trên đường về Emmaus. Chính Chúa Giêsu đã nhìn thấy trước viễn ảnh này khi Ngài nói với các môn đệ: “Họ sẽ diệt chủ chăn, và đàn chiên sẽ tan tác.”
Các Bài Đọc hôm nay muốn nhấn mạnh: mặc dầu không còn sống trên dương gian, Chúa vẫn đồng hành và hoạt động trong và với các ông. Ngài vẫn có thể chữa lành, dạy dỗ, và làm cho con người thất vọng được sống hy vọng qua các môn đệ của Ngài. Trong Bài Đọc I, Chúa cho Phêrô quyền lực để chữa lành người què từ khi sinh, như Ngài đã từng làm cho dân chúng. Phêrô đã nhân danh Chúa Giêsu Kitô người Nazareth để làm phép lạ này. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu thắp lên niềm hy vọng cho 2 môn đệ trên đường Emmaus khi Ngài cùng các ông bẻ bánh và học hỏi những biến cố vừa xảy ra dưới lăng kính của Kinh Thánh.
I. KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ông Phêrô chữa lành người què từ khi lọt lòng mẹ.
Một hôm, ông Phêrô và ông Gioan lên Đền Thờ, vào buổi cầu nguyện giờ thứ chín. Các ông vẫn giữ thói quen lên Đền Thờ cầu nguyện mặc dù Chúa Giêsu không còn nữa và Ngài đã khai mào một kỷ nguyên mới. Điều này chứng tỏ cho chúng ta thấy, có những thói quen tốt lành cần giữ, chứ không phải khi bắt đầu kỷ nguyên mới là đạp đổ tất cả những gì của kỷ nguyên cũ.
(1) Phép lạ chữa lành cần thiết để khơi dậy niềm tin: Thiên Chúa vẫn không ngừng cảm thương với những đau khổ của kiếp người, và Ngài luôn dùng tình thương của con người để làm vơi đi những nỗi bất hạnh của đồng loại. Phép lạ chữa lành của Phêrô hôm nay chứng minh điều này, và cần thiết để cho các tông đồ biết Chúa ban uy quyền và tình thương để các ông tiếp tục thi hành sứ vụ mang con người về cho Thiên Chúa.
(2) Giúp đỡ tha nhân không chỉ bằng vàng bạc: nhưng có thể là làm cho bình phục, hay mở mang trí tuệ bằng sự dạy dỗ, hay làm cho tha nhân có được niềm tin và hy vọng ... Khi anh què nhìn thấy ông Phêrô và ông Gioan sắp vào Đền Thờ, anh liền xin bố thí. Ông Phêrô nói với anh: "Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giêsu Kitô người Nazareth, anh đứng dậy mà đi!" Rồi ông nắm chặt lấy tay mặt anh, kéo anh chỗi dậy. Lập tức bàn chân và xương mắt cá của anh trở nên cứng cáp. Anh đứng phắt dậy, đi lại được.
(3) Phản ứng của con người khi chứng kiến phép lạ: Sau khi được chữa lành, anh què vào Đền Thờ cùng với hai ông, anh vừa đi vừa nhảy nhót và ca tụng Thiên Chúa. Toàn dân thấy anh đi lại và ca tụng Thiên Chúa. Và khi nhận ra anh chính là người vẫn ngồi ăn xin tại Cửa Đẹp Đền Thờ, họ kinh ngạc sững sờ về sự việc mới xảy đến cho anh.
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu hiện đến với hai môn đệ trên đường đi Emmaus.
Có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Emmaus, cách Jerusalem chừng mười một cây số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. Sự kiện hai ông đi khỏi Jerusalem và tâm sự của hai ông khi trò chuyện với Chúa Giêsu chứng tỏ hai ông đã đánh mất niềm tin và hy vọng vào Đức Kitô.
2.1/ Họ nghe và nhìn thấy Chúa, nhưng không nhận ra Ngài: Đang lúc hai ông trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản nên không nhận ra Người. Chúa đồng hành với họ, để tìm ra những băn khoăn lo lắng của họ, và Ngài giúp họ để nhìn thấy ý nghĩa của những biến cố liên quan đến Ngài.
(1) Nỗi lo âu và thất vọng của hai môn đệ: Người hỏi họ: "Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?" Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu, và thưa: "Chuyện ông Giêsu Nazareth. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Israel. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy." Các ông đã không thể nối kết các sự kiện đã xảy ra nên đã không nhìn ra ý nghĩa của chúng. Trong cuộc đời, chúng ta đã nhiều lần như vậy. Chúng ta để cho những biến cố qua đi mà không nhận ra sự liên hệ của chúng trong cuộc đời chúng ta. Để có thể nhìn thấy ý nghĩa và vai trò của chúng, chúng ta cần năng nhìn lại và dành thời giờ suy tư về những biến cố xảy ra.
(2) Giải thích Kinh Thánh: Bấy giờ Đức Giêsu nói với hai ông rằng: "Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” Rồi bắt đầu từ ông Moses và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh. Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa. Họ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn." Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ.
2.2/ Các môn đệ nhận ra Chúa.
(1) Qua việc cử hành Thánh Lễ: Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. Họ mới bảo nhau: "Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?" Đây là hình ảnh của một Thánh Lễ mà chúng ta tham dự: phần cắt nghĩa Kinh Thánh tương xứng với phần Phụng Vụ Lời Chúa, và phần bẻ bánh tương xứng với phần Phụng Vụ Thánh Thể; cả hai đều cần thiết để chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mỗi người, và có sức mạnh để đương đầu với mọi vấn đề của cuộc sống.
(2) Qua việc hiệp thông huynh đệ và học hỏi: Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Jerusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông: "Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon." Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh. Khi đứng riêng lẻ một mình, chúng ta dễ cảm thấy chán nản, thất vọng; nhưng khi hội họp cùng nhau chia sẻ niềm tin, chúng ta sẽ được thêm khôn ngoan và sức mạnh để nâng đỡ niềm tin của nhau.
II. ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúa vẫn đang sống; Ngài vẫn hoạt động giữa chúng ta. Cuộc sống sẽ vô nghĩa, nặng nề, và buồn tẻ nếu chúng ta không có Chúa Giêsu đồng hành; nhưng cuộc sống sẽ vô cùng ý nghĩa nếu chúng ta có sự hiện diện của Ngài trong đời sống. Ngài cung cấp cho chúng ta tất cả khôn ngoan, sức mạnh, ơn thánh để sống cách ý nghĩa trong cuộc đời này.
- Những lúc chán nản, nghi nan, và thất vọng, chúng ta hãy cầu nguyện với Ngài: “Mời Chúa ở lại với chúng con, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.”
Anthony Đinh Minh Tiên, OP.

Lời Chúa Trong Gia Đình
THỨ TƯ TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH; Cv 3, 1-10; Lc: 24, 13-35
LỜI SUY NIỆM: “Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất.” (Lc  24, 30-31)
          Khi đi đường hai môn đệ đã nghe Chúa Giêsu giải thích về Kinh Thánh, và lòng trí các ông bừng cháy lên, nhưng hai ông cũng đã không nhận ra Ngài. Cho đến khi cung cách bẻ bánh, dâng lời chúc tụng của Chúa Giêsu họ mới nhận ra Ngài. Khi chúng ta đã thường thấy những cử chỉ quen thuộc, hay thường dùng quen một cử chỉ riêng biệt nào đó, thì khi đối diện chúng ta dễ nhận ra nhân vật mà ta đã quen biết.
          Trong đời sống Ki-tô hữu của chúng ta rất dể nhận ra nhau, bởi chúng ta có dấu Thánh Giá. Bởi những khởi đầu chúng ta đều Nhân Danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần để ăn, để cầu nguyện, để làm việc…, và để sống. Đồng thời giúp cho chúng ta thêm ý thức là mọi sự đã nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa thì phải làm sáng danh Ngài. Để đem lại lợi ích cho bản thân và tha nhân.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
11 Tháng Tư
Ðám Cưới Vĩ Ðại Nhất

Một trong những đám cưới được xem là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại đó là đám cưới của Alexandre Ðại đế với công chúa Roxane của Ba Tư vào thế kỷ thứ tư trước công nguyên.
Khi quyết định một người Á châu, dĩ nhiên, Alexandre theo tiếng gọi của con tim. Nhưng qua cuộc hôn nhân này, ông muốn biểu tỏ ý muốn thống nhất tất cả lãnh thổ đã được chinh phục từ Ðông sang Tây. Ông cũng hy vọng có một người con nối dõi với hai dòng máu Ðông Tây để thống nhất hai phần đất của địa cầu.
Ðám cưới được cử hành trong vòng bảy ngày, bảy đêm. Nơi nơi đều có yến tiệc. Và để tăng thêm phần long trọng, Alexandre đã cho tổ chức những cuộc tranh tài thể thao: thế vận hội đã được khai sinh từ đó. Chính Ðại đế là người đích thân trao giải thưởng cho những người thắng cuộc. Thông thường hoàng đế trao tặng những chiếc cúp bằng vàng. Nhưng, người được coi là đoạt được nhiều giải thưởng nhất trong cuộc thi thế vận hội đầu tiên ấy chỉ nhận được có mỗi một cành lá. Alexandre Ðại đế giải thích như sau: chỉ có vinh hiển mới có thể tưởng thưởng được người xuất sắc nhất.
Có một hôn lễ còn vĩ đại gấp bội so với hôn lễ của Alexandre Ðại đế với công chúa Roxane: đó là hôn lễ của Trời với Ðất, của Thiên Chúa với Nhân Loại. Ðây là cuộc hôn lễ mà loài người đã chờ đợi từ khi có mặt trên trái đất. Hôn lễ ấy diễn ra qua việc Con Thiên Chúa xuống thế mặc lấy xác phàm. Ngài đến không kèn không trống, không quân đội, không thế vận hội. Ngài không mang lại các cúp vàng, Ngài không chỉ trao cành lá vinh thắng cho một người, nhưng cho tất cả mọi người. Ai cũng có thể chiến thắng cho cuộc sống của mình và ai cũng có thể nhận lãnh cành lá vinh hiển ấy.
Ai trong chúng ta cũng có một phần thưởng vô giá, ai trong chúng ta cũng là người đoạt giải nhất và ai trong chúng ta cũng nhận được cành lá vinh hiển của sự sống đời đời.
Với Chúa Giêsu là Ðấng đã thắng thế gian và đang tiếp tục chiến đấu bên cạnh chúng ta, chúng ta tin chắc rằng chúng ta cũng sẽ chiến thắng.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Ngày 11
THỨ TƯ TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH 
Thánh Stanislao, giám mục, tử đạo

Ai sẽ ban cho chúng ta hy vọng?

Trên con đường Emmaus... Cléophas và người bạn trở về làng; họ thất vọng và buồn bã. Họ đã mất định hướng và niềm hy vọng bị tan tành..

Trong nhà của Cléophas và người bạn, với một người lạ cùng đi đường với họ và họ đã mời vào cùng ăn bữa đạm bạc và ở lại với họ, điều bất ngờ đã xảy ra. Họ đã nhìn thấy Đức Giêsu Phục sinh, thật sống động; cái nhìn này soi sáng và chuyển đổi họ. Và kìa họ đã trở lại Giêrusalem: cùng những người bạn đó, nhưng không như xưa. Hy vọng đã đem lại cho họ can đảm để vội vã bước đi giữa sự mệt nhọc và đêm tối. Họ không đuổi theo một ngôi sao chiếu sáng chỉ vì họ đã tìm được một ý nghĩa cho cuộc đời mình. Họ phải loan báo tin mới, Đức Giêsu đang sống và đã đến tìm họ; trong Người họ có thể đặt tin tưởng; chỉ mình Người làm nẩy sinh hy vọng và giúp họ sống, niềm hv vọng mà họ vừa đánh mất, chỉ mới ba ngày thôi.

Các môn đệ làng Emmaus đã tìm lại được Đức Chúa thật, Cha của Đức Giêsu Kitô, một người Cha đầy lòng thương xót, giơ tay cho con người để giải thoát họ khỏi sự thất vọng và tù đày.

P.Paul-Franẹois de Torquat, s.j
Thứ Tư 11-4

Thánh Stanislaus

(1030 - 1079)
B
ất cứ ai đọc lịch sử Ðông Âu đều phải biết đến tên Stanislaus, vị giám mục thánh thiện nhưng bi thương của giáo phận Krakow. Cùng với các Thánh Tôma More và Tôma Becket, ngài thường được nhớ đến vì sự chống đối quyết liệt của ngài đối với một chính phủ hung bạo và bất chính thời ấy.
Thánh Stanislaus sinh trong một gia đình quý tộc ở Szczepanow gần Krakow. Ngài theo học các trường Công Giáo ở Gniezno, sau đó ở thủ đô Ba Lan, và ở Balê. Ngài thụ phong linh mục ở Gnesen và được bổ nhiệm làm tổng phó tế và người thuyết giáo của Ðức Giám Mục Krakow, là nơi tài hùng biện và gương mẫu của ngài đã giúp nhiều người thực sự hoán cải đời sống, trong đó có cả hàng giáo sĩ. Ngài trở thành giám mục của Krakow năm 1072.
Trong cuộc viễn chinh chống với Ðại Ðế Duchy của Kiev, Ðức Stanislaus bị dính líu đến tình hình chính trị ở Ba Lan. Nổi tiếng là người thẳng thắn, ngài tấn công những hành động xấu xa của vua và người dân, nhất là các cuộc chiến bất chính cũng như các hành động vô luân của Vua Boleslaus II vì ông đã cướp vợ của một nhà quý tộc.
Lúc đầu nhà vua tự ý xin lỗi và bày tỏ sự ăn năn sám hối, nhưng sau đó lại trở về con đường cũ. Ðức Stanislaus tiếp tục công khai chống đối bất kể những hăm dọa về tội phản quốc và tử hình. Sau cùng ngài đã ra vạ tuyệt thông nhà vua và từ chối cử hành Thánh Lễ mỗi khi có sự hiện diện của ông. Ðiên lên vì tức giận, nhà vua ra lệnh quân lính hạ sát vị giám mục. Khi binh lính từ chối không tuân phục, chính tay ông đã giết Ðức Stanislaus trong khi ngài cử hành Thánh Lễ trong một nhà nguyện ở ngoại ô thành phố.
Ðức Stanislaus là biểu hiệu của tinh thần dân tộc Ba Lan. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Innôcentê IV phong thánh năm 1253 và được đặt làm quan thầy chính thức của Krakow.

Lời Bàn

Thánh Gioan Tẩy Giả, Tôma Becket, Tôma More và Stanislaus là một vài ngôn sứ dám tố giác sự thối nát của những người có địa vị. Các ngài đã theo chân Ðức Giêsu Kitô, là người vạch ra sự sa đọa luân lý của các nhà lãnh đạo tôn giáo thời ấy. Ðó là một công việc đầy nguy hiểm đòi hỏi sự can đảm sống chứng nhân cho Tin Mừng.

Lời Trích

"Những người khao khát muốn có quyền bính để có thể áp đặt luật lệ, mệnh lệnh và kiểm soát người khác, thì chính họ là những người sống vô kỷ luật và không kiềm chế" (Thánh Tôma More, Một Ðối Thoại Về Sự Tiện Nghi).

Copyright © 2010 by Nguoi Tin Huu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét