Trang

Thứ Tư, 18 tháng 4, 2012

THỨ NĂM TUẦN II MÙA PHỤC SINH


Thứ Năm sau Chúa nhật II Phục Sinh
Cv 5,27-33; Tv 33; Ga 3,31-36.

Bài đọc                                    Cv 5,27-33

27 Bấy giờ, viên lãnh binh Đền Thờ cùng các thuộc hạ điệu các Tông Đồ đến giữa Thượng Hội Đồng ; vị thượng tế hỏi các ông rằng : 28 "Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Giê-ru-sa-lem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi !" 29 Bấy giờ ông Phê-rô và các Tông Đồ khác đáp lại rằng : "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm. 30 Đức Giê-su đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi ; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, 31 và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Ít-ra-en ơn sám hối và ơn tha tội. 32 Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người." 33 Nghe vậy, họ giận điên lên và muốn giết các ông.



Đáp ca                                     Tv 33,2 và 9.16-18.19-20 (Đ. c. 7a)

Đáp :    Kẻ nghèo này kêu xin, và Chúa đã nhận lời.

Hoặc:
Đáp :    Ha-lê-lui-a.

2          Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa,
            câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi.
9          Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy :
            hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người !                       Đ.

17        Chúa đối đầu với quân gian ác,
            xoá nhoà tên tuổi chúng trên đời,
16        nhưng để mắt nhìn người chính trực
            và lắng tai nghe tiếng họ kêu.
18        Họ kêu xin, và Chúa đã nhận lời,
            giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn.                  Đ.

19        Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ,
            cứu những tâm thần thất vọng ê chề.
20        Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân,
            nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi.              Đ.



Tung hô Tin Mừng                 x. Ga 20,29

Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói : "Này anh Tô-ma, vì đã thấy Thầy nên anh mới tin. Phúc thay những người không thấy mà tin". Ha-lê-lui-a.




Tin Mừng                                Ga 3,31-36

31  Khi ấy, Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng : "Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người ; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người ; 32 Người làm chứng về những gì Người đã thấy đã nghe, nhưng chẳng ai nhận lời chứng của Người. 33 Ai nhận lời chứng của Người, thì xác nhận Thiên Chúa là Đấng chân thật. 34 Quả vậy, Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn. 35 Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người. 36 Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời ; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy."
(bản văn theo UB.Kinh Thánh/HĐGMVN)

Suy Niệm:
Ðức Giêsu vạch ra cho chúng ta con đường dẫn đến ơn cứu độ: là được làm con Thiên Chúa. Ðức Giêsu đã được Chúa Cha sai đến thế gian, để ai tin vào Ngài thì được sự sống đời đời. Chúa Cha đã giao mọi sự trong tay Ðức Giêsu. Thế nên sứ mạng của Ngài là bảo vệ và cứu vớt những gì Cha đã ban cho Ngài.
Là những Kitô hữu, chúng ta thuộc về Ðức Giêsu, chúng ta được tiếp nhận sức sống của Thiên Chúa, chúng ta thuộc trọn về Thiên Chúa. Chúng ta phải sống thế nào để xứng hợp với bản chất thần thiêng của mình?

Cầu Nguyện:
Lạy Cha, Cha đã sai Ðức Giêsu đến để bảo vệ và cứu vớt chúng con khỏi nô lệ tội lỗi. Chúng con được Cha trao cho Ðức Giêsu nên chúng con chỉ được sự sống đời đời khi biết tin vào Ngài. Xin cho chúng con ý thức được rằng, chúng con thuộc về Cha. Ðể cuộc sống của chúng con, mọi hành vi, suy nghĩ, lời nói, chúng con đều làm vì yêu mến Cha, theo gương Ðức Giêsu Con Cha. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)


Tin Vào Ngài Thì Sẽ Ðược Sống

Một chú sói xám đang quan sát xem có cách nào để lọt vào vườn nho hầu làm giảm bớt cơn đói khát đang làm khổ mình. Tình cờ sói xám lọt được vào một vườn nho có đầy quả chín mọng, thật là một điều may mắn. Những chùm nho mơn mởn đang đong đưa trước gió, nhưng chúng lại quá cao, khiến sói ta chẳng có cách gì với tới. Sói xám đành nằm dưới gốc nho há miệng chờ đợi xem trái nho nào chín rụng chăng. Vừa đợi sói xám vừa thầm ước: "Ôi, những trái nho ngon ngọt làm sao! Lúc này ước chi có được một trái nho rơi vào miệng ta, chắc hẳn là tuyệt vời".
Chờ mãi, chờ mãi mà chẳng có một chút may mắn nào. Soi xám nổi giận nguyền rủa: "Những chùm nho khốn kiếp, chùm nào rớt xuống ta sẽ nghiền nát chẳng còn chút xót thương". Tuy nhiên, dù cho sói xám có mơ ước hay nguyền rủa đến đâu đi nữa, thì những chùm nho vẫn điềm nhiên vui đùa trước gió. Dưới đất chú sói rũ rượi nằm chờ và trên không những chùm nho vẫn tiếp tục đong đưa trước gió.
Anh chị em thân mến!
Nếu không có mầu nhiệm cứu chuộc thì mãi mãi đất trời xa cách và nhân loại vẫn luôn khao khát đợi chờ. Thiên Chúa đã đoái thương trông đến những sự cùng cực khổ sở của nhân loại, Ngài đã bắc một nhịp cầu nối liền trời với đất để cho con người hạ giới được no thỏa niềm vui thiên quốc.
Tiếp nối bài Tin Mừng hôm qua, Tin Mừng hôm nay cũng trình bày cho con người về tình yêu thương ấy. Thật vậy, để tìm đến cội nguồn sự thật của một công việc hay một biến cố, luôn luôn cần đến những người đã nghe và đã thấy, vì họ là những người đã được chúng kiến.
Tòa án cần nhiều chứng để việc xét xử được trung thực. Khế ước cần nhiều người chứng để công việc được minh bạch và bảo đảm. Lời nói của người làm chứng càng giá trị khi họ là những người theo dõi sự việc suốt từ đầu đến cuối, và chính bản thân họ là những người trực tiếp đến sự việc chứ không qua trung gian một ai khác.
Trong hành trình tìm kiếm nguồn hạnh phúc đích thực trên trời, nhân loại may mắn gặp được người chứng thực. Người này không phải chỉ chứng thực mà thôi, nhưng đã sống từ đầu, và người ấy chính Chúa Giêsu.
Khi nói về Thiên Chúa Cha và những sự trên trời, thì chẳng ai bằng Chúa Giêsu. Vì những điều Ngài nói, Ngài đã không lấy từ một nguồn tài liệu nào cũng chẳng do ai kể lại, nhưng là những gì mà Ngài đã sống, vì ngoài Ngài ra chưa một ai được lên trời.
Lời nói của Chúa Giêsu không những bảo đảm về sự thật Nước Trời mà còn ban Nước Trời cho những ai đón nhận và tin vào lời Ngài, vì Ngài là Thiên Chúa: "Cha yêu mến Con nên đã ban mọi sự trong tay Ngài". Bởi thế, lời của Chúa Giêsu không đơn thuần chỉ trình bày chân lý, nhưng còn đòi hỏi phải tin và sống theo. Nếu không mãi mãi mang lấy hình phạt.
Một dịp may đã đến với Nicôđêmô, ông đã gặp được chính Ðấng từ trời xuống để nói về trời. Tuy nhiên, ông chưa được gọi là môn đệ Ðức Kitô, vì ông chưa tin.
Hôm nay, Kitô hữu cũng có một may mắn như Nicôđêmô là được gặp gỡ và hiểu biết về Ðức Kitô. Hệ luận của sự gặp gỡ này là: nếu không tin và không sống điều đã lãnh nhận thì sẽ không được sống đời và phải nằm dưới cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.
Nguyện xin Ðấng có Lời ban sự sống đời đời ban thêm sức mạnh cho mỗi người trong chúng ta để chúng ta luôn trung thành với những điều Ngài đã chỉ dạy. Dù rằng thế giới hôm nay đang có nhiều khuynh hướng muốn đi ngược lại với lời dạy của Ngài, muốn xóa bỏ gương mặt của Ngài hoặc muốn đuổi Ngài ra khỏi tâm hồn của con người.

(Veritas Asia)

Ai tin vào Người Con thì được sự sống đời đời (Ga 3,36)
Suy niệm: 
“Đấng tự Trời mà đến...thấy gì, nghe gì thì làm chứng như vậy” (c.32). Khi chúng ta muốn tới một nơi xa lạ, chúng ta phải làm điều gì? Có bản đồ ư, có cẩm nang ư, có người dẫn đường chỉ lối ư? Giữa nhiều điều cần phải lựa chọn, chắc chắn chúng ta sẽ chọn điều nào an toàn nhất giúp ta đạt được mục đích. Nói về nước Trời, đang khi chúng ta hiểu mù mờ thì Chúa Giêsu đã từ trời xuống thế chỉ lối cho chúng ta về Trời.
Nước trời là một thực tại huyền nhiệm mà chỉ Chúa Kitô mới có thể mạc khải cho chúng ta biết bản chất của nó. Chúa mạc khải cho những kẻ bé mọn chứ không cho người khôn ngoan tài trí theo kiểu thế gian (Mt 11,25), cho các môn đệ chứ không cho người ngoài, vì đối với họ tất cả đều bí ẩn (Mc 4,11). Chúa Giêsu mạc khải nước trời cách tiệm tiến qua các ngụ ngôn.
Những dụ ngôn nói lên bản tính nước trời:
Nước Trời là một mầu nhiệm, mỗi dụ ngôn soi sáng một khía cạnh của nước trời. Dụ ngôn gieo giống chỉ việc rao giảng và sự tăng trưởng của nước trời (Mt 13,3-9.18,23). Hạt giống có một sức tăng trưởng tự nó và riêng nó thôi (Mc 4,26-29) để ám chỉ vai trò âm thầm và khiêm hạ của ơn Chúa nơi mỗi tâm hồn. Dụ ngôn hạt cải (Mt 13,31-32) cho biết sự tăng trưởng vượt lên của nước trời theo chiều rộng. Dụ ngôn men trong bột (Mt 13,38) chỉ sức mạnh cảm hóa chiều sâu của Phúc âm. Dụ ngôn kho báu và đá ngọc dạy cho biết giá trị tuyệt đối của nước Trời (Mt 15,44-46). Dụ ngôn lúa và cỏ lùng để ám chỉ nước Chúa khi còn tại thế gồm kẻ tốt người xấu bên nhau, để nói lên sự tàn hại ngấm ngầm của ma quỉ và sự hững hờ không tỉnh thức của người tín hữu. Dụ ngôn thả lưới biển chỉ việc đánh cá thiêng liêng (Mt 13,47). Dụ ngôn mùa màng cần thợ gặt nói lên sự cần thiết của việc truyền giáo (Mt 9,37). Dụ ngôn Đấng chăn chiên lành, cây nho và cành nho (Ga 10,1.15,1) nói lên mối tương quan mật thiết giữa Thiên Chúa và con người. Ai ở trong Nước Chúa thật hạnh phúc như người dự tiệc cưới (Mc 2,19) hay ngày mùa hy vọng (Mt 9,37).
Điều kiện vào Nước trời:
Vào được nước Chúa là cả một ân huệ tuyệt hảo nhưng không của Thiên Chúa, là giá trị tuyệt đối mà người ta phải hy sinh tất cả để chiếm lấy cho bằng được (Mt 13,44). Vì thế, xin đừng coi việc vào đó như là quyền riêng của mình. Vì chính Thiên Chúa tự do thuê mướn và trả công bao nhiêu cho người nào Ngài muốn (Mt 20,1-6). Vào nước Chúa phải có tâm hồn nghèo khó (Mt 5,3t), một thái độ bé thơ (Mt 18,1-4), một thái độ tích cực tìm kiếm sự công chính trước (Mt 6,33), sự chịu đựng nhẫn nại của bát phúc (Mt 5,10), phải từ bỏ những gì mình có (Mt 13,44). Thiên Chúa sẽ lựa lọc kỹ càng những ai xứng đáng như lựa chiên và dê (Mt 13,24.30), lựa chọn cá tốt (13,47-50), lựa chọn người nào mặc áo cưới (22,11).
Thánh Gioan ghi lại hai cái nhìn về Chúa Giêsu: một của Nicôđêmô và một của Gioan Tẩy. Nicôđêmô nhìn vào Chúa Giêsu với những hiểu biết uyên bác nhưng hoàn toàn phàm tục của ông; ông lượng giá về Chúa Giêsu theo thước đo thông thường của loài người, đó là cái nhìn từ dưới đất. Trong khi đó, Gioan Tẩy giả mời gọi các môn đệ của ông vượt qua cái nhìn từ dưới đất để có cái nhìn từ trên cao. Thánh Phaolô đã nói: "Anh em hãy mặc lấy tâm tình của Chúa Kitô". Với tâm tình của Chúa Kitô, nghĩa là với cái nhìn của tin yêu và hy vọng, chúng ta sẽ đứng vững trong mọi nghịch cảnh và thử thách; với tâm tình của Chúa Kitô, chúng ta sẽ cảm nhận được tình thương của Thiên Chúa và luôn biết hướng lòng trí về trời cao.
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa, năm xưa nhờ sự Phục sinh, Chúa đã củng cố đức tin nơi các tông đồ. Xin Chúa cũng kiện toàn lòng tin nơi chúng con. Một lòng tin còn ngổn ngang giữa những lo toan trần thế. Một lòng tin còn mong manh trước những cám dỗ. Một lòng tin cần phải được Chúa bổ sức để có thể lướt thắng những cạm bẫy của thế gian. Xin tình yêu và ân sủng của Chúa hằng ở cùng chúng con luôn mãi, giúp chúng con vững vàng trong niềm tin cậy mến.

Suy niệm:
Giêsu ơi! Ngài từ đâu đến?
Tôi là Đấng từ trên cao mà đến.
Tôi là Đấng từ trời mà đến (c.31).
Tôi sinh ra trên đất, sống trên đất, chết trên đất.
Nhưng tôi không thuộc về đất, đất không phải là gốc của tôi.
Gốc của tôi ở nơi cung lòng Thiên Chúa (Ga 1, 18).
Dù cư ngụ trên mặt đất, tôi vẫn luôn hướng về Cha tôi trên trời.
Khi làm xong sứ mạng, tôi sẽ trở về với gốc của tôi.
Giêsu ơi! Ngài làm gì vậy?
Tôi làm chứng về điều tôi đã thấy và đã nghe (c. 32).
Tôi làm chứng về Thiên Chúa là Cha của tôi.
Tôi đã thấy việc Người làm và đã nghe tiếng Người nói.
Nhiều vĩ nhân diễn tả rất hay, rất đúng về Thiên Chúa
và cũng có kinh nghiệm rất sâu về Người.
Nhưng họ không phải là Con như tôi.
Họ chẳng thể nào gần mầu nhiệm Thiên Chúa như tôi.
Chẳng ai biết Cha bằng Con, không ai biết Cha trừ ra Con (Lc 10, 22).
Chỉ mình tôi mới có thể vén mở trọn vẹn khuôn mặt Thiên Chúa.
Giêsu ơi! Ngài là ai?
Tôi là người được Thiên Chúa sai đến với nhân loại trên mặt đất (c. 34).
Chẳng có giây phút nào tôi quên mình là Con, người được sai.
Chẳng có giây phút nào tôi quên Cha tôi là Đấng sai tôi.
Khi nhận mình triệt để tùy thuộc vào Cha, tôi chẳng hề xấu hổ.
Tôi đáng tin vì chính sự tùy thuộc đó.
Tôi chẳng làm điều gì tự mình,
tôi chỉ làm điều tôi đã thấy Cha tôi làm (Ga 5, 19).
Tôi chẳng nói điều gì tự mình,
tôi chỉ nói điều tôi đã nghe Cha tôi nói (Ga 8, 26).
Chính khi tôi tùy thuộc trọn vẹn vào Cha mà tôi được tự do.
Giêsu ơi! Ngài có hạnh phúc không?
Tôi hạnh phúc vì tôi yêu và được yêu.
Cha tôi yêu mến tôi và tôi ở lại trong tình yêu của Cha (Ga 15, 10),
Người vẫn ở với tôi và không để tôi cô độc (Ga 8, 29).
Người yêu mến tôi vì tôi dám hy sinh mạng sống cho đoàn chiên (Ga 10, 17).
Tình yêu của Cha thể hiện qua việc Người trao phó mọi sự trong tay tôi (c. 35).
Tôi có quyền phán xét, quyền cho sống lại ngày sau hết, quyền trên mọi xác phàm.
Bởi vậy tôi mới nói mọi sự Cha có là của tôi (Ga 16, 15).
Hãy đón nhận lời chứng của tôi (c. 33).
Hãy tin vào tôi để được sự  sống vĩnh hằng ngay từ đời này (c. 36).
Hãy đến với tôi để được chia sẻ cùng một sứ mạng và vinh quang. 
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
con phó mặc con cho Cha,
xin dùng con tùy sở thích Cha.
Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.
Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.
Miễn là ý Cha thực hiện nơi con
và nơi mọi loài Cha tạo dựng,
thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.
Con trao linh hồn con về tay Cha.
Con dâng linh hồn con cho Cha,
lạy Chúa Trời của con,
với tất cả tình yêu của lòng con,
Vì con yêu mến Cha,
vì lòng yêu mến
thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,
thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,
không so đo,
với một lòng tin cậy vô biên,
vì Cha là Cha của con.
(Charles de Foucauld)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J
_____19/04/12 THỨ NĂM TUẦN 2 PS
Ga 3,31-36
NGƯỠNG VỌNG TRỜI CAO

“Đấng từ trời cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất.” (Ga 3,31)

Suy niệm: Với những người quá thực dụng, cuộc đời họ xoay quanh bốn động từ: “làm, ăn, chơi, ngủ.” Trái lại, tầm nhìn của người Kitô hữu không chỉ dừng lại những điều dưới đất, trước mặt, nhưng còn phóng xa đến những điều trên trời. Đức Giêsu, Đấng từ trời cao mà đến, đã kể lại cho họ những điều chính Ngài đã biết, đã thấy và đã nghe. Chỉ mình Ngài mới có thể nói chính xác cho ta biết về Chúa Cha và đời sống trên thiên đàng. Đây thật sự là Tin Mừng cho chúng ta vì qua lời chứng của Đức Giêsu, chúng ta được hạnh phúc có Chúa là Cha yêu thương, luôn quan tâm chăm sóc, và muốn ta cũng được vui hưởng hạnh phúc muôn đời với Ngài: “Ai tin vào Ta thì được sự sống đời đời.”

Mời Bạn: Thiên Chúa là Tình Yêu. Vì thế, khi sống trong tình yêu thân thiết với Thiên Chúa và với những người thân cận, bạn đang thuộc về trời cao, đang cảm nghiệm phần nào hạnh phúc của thiên đàng.“Muốn nhìn đúng phải nhìn bằng trái tim - mắt thường làm sao thấy được những điều vô hình”(St. Exupéry). Nhờ quả tim yêu thương, bạn sẽ nhận ra, “nhìn thấy” Thiên Chúa đang hiện diện trong đời bạn và lòng bạn sẽ tràn ngập hạnh phúc của người đang được yêu mến.

Sống Lời Chúa: Suy gẫm và cầu nguyện theo mầu nhiệm thứ hai của Năm Sự Mừng: “Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời.”

Cầu nguyện: Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa đã kể cho con những sự trên trời; Chúa còn dạy chúng con phương cách về trời nữa, là hãy tin Chúa. Xin cho chúng con luôn hướng về và ái mộ những sự trên trời. Amen.


Con người cần khiêm nhường nhận ra
và chấp nhận uy quyền của Thiên Chúa
Bài đọc: Acts 5:27-33; Jn 3:31-36.
 Vũ trụ quá bao la trong khi khả năng hiểu biết của con người quá hạn hẹp. Nếu con người chưa biết hết được những gì xảy ra dưới đất, làm sao có thể thông suốt những sự trên trời? Vì thế, con người cần tránh thái độ “cóc ngồi đáy giếng.” Vì cóc chỉ thấy được một bầu trời hạn hẹp bằng miệng giếng, cóc cho mình là nhất. Cóc có biết đâu bên ngoài miệng giếng là cả một vũ trụ mênh mông!
Vũ trụ tiềm tàng bao sức mạnh kinh hồn trong khi con người lại quá yếu đuối. Nếu con người chưa có sức mạnh đủ để đương đầu với những sức mạnh của thiên nhiên (gió bão, núi lửa, động đất), làm sao con người có thể chống lại uy quyền của Thiên Chúa? Nếu con người vẫn ngoan cố chống chọi uy quyền của Thiên Chúa, khác nào như con người lấy trứng chọi vào đá!
Các Bài Đọc hôm nay nhắc nhở cho con người biết khả năng hạn hẹp của mình. Trong Bài Đọc I, khi Thượng Hội Đồng cấm các tông đồ không được rao giảng đạo lý Đức Kitô; các tông đồ cương quyết bảo vệ lập trường của mình: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.” Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhắc nhở cho mọi người về nguồn gốc của Ngài: “Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người.”
I. KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.
Trong Cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Đức Kitô, tất cả các Tông-đồ và Thượng Hội Đồng đều chối từ và chống lại Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa không kết tội con người, nhưng Ngài muốn con người phải chịu trách nhiệm về những việc mình làm: Nếu họ đã làm sai, hãy có can đảm chấp nhận và tìm cách sửa sai; chứ không thể cứ nhắm mắt và đổ lỗi cho người khác.
1.1/ Các Tông-đồ trình bày niềm tin của mình: Mặc dù các ông đã chối từ và bỏ chạy trong Cuộc Thương Khó, nhưng khi được Chúa Giêsu hiện ra, các ông đã nhận ra tội của mình; và sau khi được củng cố bởi quyền lực của Thánh Thần, các ông mạnh dạn ra đi và làm chứng cho Đức Kitô trước mặt mọi người: Trước tiên, các Tông-đồ tố cáo Thượng Hội Đồng tội giết Đấng Thiên Sai: “Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi.” Sau đó, các ông vạch ra cho mọi người nhìn thấy uy quyền Thiên Chúa: “Nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israel ơn sám hối và ơn tha tội.”
Khi bị Thượng Hội Đồng đe dọa và ngăn cấm không cho rao giảng Danh Chúa Giêsu, ông Phêrô và các Tông-đồ khác đáp lại rằng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.”
1.2/ Phản ứng ngoan cố của Thượng Hội Đồng: Đã sai lầm khi luận tội và xin đóng đinh Chúa Giêsu, họ vẫn không chịu nhận tội khi các Tông-đồ làm chứng cho Ngài. Vị Thượng Tế hỏi các Tông-đồ: "Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Jerusalem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi!" Khi các Tông-đồ trả lời phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm, họ giận điên lên và muốn giết các ông.
Một câu trả lời hết sứ hợp lý, nhất là cho những con người mang tiếng bảo vệ Lề Luật của Thiên Chúa; thế mà họ không nhận ra sự thật, lại còn để cho sự kiêu ngạo và ghen tị thống trị con người họ, và dùng sức mạnh để áp đảo các Tông-đồ. Họ nhân danh bảo vệ Lề Luật; nhưng thực ra họ coi thường Lề Luật; chẳng hạn: (1) Họ kết án Chúa Giêsu mà không điều tra về Ngài như Lề Luật đòi hỏi; (2) Họ đòi đóng đinh Chúa vào thập giá ngay cả khi một người ngoại, Philatô, đã tuyên bố Ngài vô tội; và (3) Họ đe dọa, đánh đòn, và muốn giết cả hai nhân chứng, Phêrô và Gioan, khi các ông muốn làm chứng cho Chúa Giêsu. Nói tóm, họ không còn biết gì đến Lề Luật như chức vụ họ đòi phải thi hành; nhưng họ để cho tính nóng giận và sự ghen tức làm chủ, để rồi chỉ biết dùng bạo lực để đàn áp người vô tội.
2/ Phúc Âm: Ai tin vào Người Con thì được sự sống đời đời.
2.1/ Chúa Giêsu mặc khải cho con người những gì từ Thiên Chúa: Chân lý căn bản con người cần khiêm nhường nhìn nhận: “Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người.” Tiên tri Isaiah cũng từng tuyên sấm những gì Thiên Chúa nói: “Trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường lối của Ta cũng cao hơn các ngươi bấy nhiêu (Isa 55:9).
Vì có sự khác biệt lớn lao như thế, nên con người không thể hiểu những gì từ Thiên Chúa, nếu những điều đó không được mặc khải và soi sáng cho con người. Chúa Giêsu đến để mặc khải cho con người những mầu nhiệm của Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần soi sáng cho con người để họ có thể hiểu những chân lý này. Chúa Giêsu nói: “Người làm chứng về những gì Người đã thấy đã nghe, nhưng chẳng ai nhận lời chứng của Người. Ai nhận lời chứng của Người, thì xác nhận Thiên Chúa là Đấng chân thật.”
Sở dĩ con người không tin vào Đức Kitô là vì từ trước tới giờ họ chỉ tin có Một Thiên Chúa. Tuy họ biết, theo lời các ngôn sứ, Thiên Chúa sẽ gởi Đấng Thiên Sai đến để cứu chuộc dân; nhưng họ tin Ngài là Đấng sẽ dùng uy quyền mà cứu chuộc và thống trị dân, chứ không phải bằng khiêm nhường chịu đau khổ như Đức Kitô. Chúa Giêsu đến cắt nghĩa cho họ biết về sự liên hệ giữa Thiên Chúa và Ngài, Người được Thiên Chúa sai đến, nhưng họ từ chối không tin vào lời chứng của Người. Chúa muốn nhắc nhở cho họ biết nếu họ chưa thông suốt việc dưới đất, làm sao có thể thông suốt việc trên trời.
2.2/ Hậu quả của việc nhìn nhận hay chối từ Con Thiên Chúa: Nếu một người nhìn nhận Đức Kitô là Đấng được Thiên Chúa sai đi, họ sẽ được hưởng sự sống đời đời, được nhận lãnh Thánh Thần, và được hưởng muôn hồng ân mà Thiên Chúa Cha đã trao vào tay Người Con. Nếu họ từ chối không tin Đức Kitô là Đấng được Thiên Chúa sai đến, họ sẽ không được hưởng sự sống đời đời, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy.
II. ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần học hỏi để nhận biết sự khôn ngoan và uy quyền của Thiên Chúa. Chúng ta cũng phải nhìn nhận khả năng giới hạn và sự yếu đuối của mình. Có như vậy, chúng ta mới biết cách sống làm sao cho đúng và đạt được kết quả tốt đẹp cho cuộc đời.
- Ai tuyên bố phải hiểu mới tin là người kiêu ngạo và rồ dại. Kiêu ngạo vì cho mình có thể thông suốt mọi sự trên trời cũng như dưới đất. Rồ dại vì không biết giới hạn của mình và bỏ lỡ cơ hội để học hỏi những điều mới lạ.
Anthony Đinh Minh Tiên, OP.

Lời Chúa Trong Gia Đình
Cv 5, 27-33; Ga: 3, 31-36.
LỜI SUY NIỆM: "Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy.” (Ga 3,36)
          Tin Mừng Gioan trong câu này đặt con người phải chọn lựa dứt khoát một lần, Tin vào Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ. Chỉ một mình Ngài vì yêu thương chúng ta và chết vì chúng ta khi chúng ta đang còn là tội nhân, để giải thoát chúng ta ra khỏi tội lỗi, ra khỏi nô lệ Satan, ra khỏi cái chết đời đời hầu đưa chúng ta trở về với Thiên Chúa, được sống hạnh phúc đời đời.
          Sự chọn lựa này đã từng đặt trước mặt dân Ítraen: “Hãy xem, ngày nay Ta đăt trước mặt ngươi sự sống và phúc lành, sự chết và tai họa…, ngày nay Ta bắt trời và đất làm chứng cho các ngươi là Ta đã đặt trước mặt nguợi sống và sự chết, phúc lành và rủa sả. Vậy hãy chọn sự sống, hầu cho ngươi và dòng dõi ngươi sự sống (Đnl 30,15-20)
          Thiên Chúa ban cho con người tình yêu của Ngài, Ngài tạo mọi cơ hội và thời gian để con người nhận ra Ngài, tin vào Ngài, nhưng chính sự khướt từ của con người tự mình đã tự kết án họ. Thiên Chúa không giáng cơn thịnh nộ Ngài trên con người, mà chính con người đã khiến cơn thịnh nộ ấy giáng xuống trên mình.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
19 Tháng Tư
Trò Chơi Hòa Bình

Một ngày kia, trên con đường đi bách bộ ngang qua một sân chơi, ông Marschak, một nhà văn Liên Xô, dừng lại quan sát các trẻ em vừa lên sáu, lên bảy đang chơi đùa với nhau trên sân cỏ.
Thấy chúng chơi trò gì là lạ, ông cất tiếng hỏi: "Này các em, các em đang chơi trò gì đó?". Bọn trẻ nhôn nhao trả lời: "Các em chơi trò đánh nhau".
Nghe thế, ông Marschak hơi cau mày. Rồi ra dấu cho các em đến gần, ông ôn tồn giải thích: "Tại sao các em chỉ chơi trò đánh nhau mãi. Các em biết chứ, đánh nhau hay chiến tranh có gì đẹp đẽ đâu. Các em hãy chơi trò chơi hòa bình xem nào".
Ông vừa dứt lời, một em bé reo lên: "Phải rồi, tụi mình thử chơi trò hòa bình một lần xem sao". Rồi cả bọn kéo nhau chạy ra sân, chụm đầu nhau bàn tán. thấy chúng chấp nhận ý kiến của mình, nhà văn Marschak tỏ vẻ hài lòng, mỉm cười tiếp tục cất bước. Nhưng không được bao lâu, ông nghe có tiếng chân chạy theo. Và chưa kịp quay lại, ông nghe một giọng trẻ em hỏi: "Ông ơi, trò chơi hòa bình làm sao? Chúng cháu không biết".
Vâng, làm sao bọn trẻ có thể chơi trò chơi hòa bình khi chúng chỉ thấy người lớn "chơi trò chiến tranh". Khi chúng thấy các anh lớn lên đường thi hành nghĩa vụ quân sự trong lúc đất nước không còn một bóng quân thù.
Làm sao bọn trẻ có thể chơi trò chơi hòa bình, khi mỗi ngày chúng thấy trên truyền hình, trên các mặt báo hình ảnh của những người lớn bắn giết nhau, thủ tiêu nhau, ám sát nhau.
Làm sao bọn trẻ có thể chơi trò chơi hòa bình, khi trong chính gia đình chúng thấy anh chị, thậm chí đôi khi cả cha mẹ chúng lớn tiếng cãi vã, mắng chửi nhau. Có khi họ dùng cả tay chân để thay lời nói. Trong thức tế, bầu khí người lớn tạo ra để cho các trẻ em lớn lên không phải là bầu khí hòa bình.
Ðến bao giờ thế giới của người lớn mới hiểu và thực tâm tìm phương thế giải quyết sự mâu thuẫn: là hằng ngày thế giới của người lớn bỏ ra cả tỷ Mỹ kim cho việc nghiên cứu và trang bị về vũ khí.
Trong khi đó, trên thế giới có 800 triệu người sống dưới mức tối thiểu cần thiết cho con người, nghĩa là họ đang bị đe dọa chết đói. Có 600 triệu người trên thế giới đang bị mù chữ. Chỉ có 4 trong số 10 trẻ em được cắp sách đến trường tiểu học trong hơn ba năm. Và cứ 10 đứa trẻ sinh ra trong cảnh cơ hàn thì 2 trẻ bị chết trong năm đầu tiên.
Vâng, thế giới người lớn phải bắt đầu loại bỏ chiến tranh và xây dựng hòa bình, nếu họ muốn trẻ con cũng noi gương chơi trò chơi ấy.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++


Ngày 19
Kỷ niệm ngày Đức giáo hoàng Bênêđíctô 
được bầu làm Giáo Hoàng

Kết hợp với Đức Kitô cũng đồng thời là kết hợp với tất cả những người mà Đức Kitô tự hiến cho họ. Tôi không thể có Đức Kitô cho riêng tôi; tôi chỉ thuộc về Người khi kết hợp với tất cả những ai đã hay sẽ trở thành môn đệ của Người.
Đức giáo hoàng Benedicto XVI

Xin ban cho chúng con niềm vui của hồng ân Ngài

Nhờ các bí tích của Ngài, mỗi ngày chúng con có thể ôm lấy Ngài khi lãnh nhận Mình Thánh của Ngài. Xin ban cho chúng con khả năng cảm nghiệm sự phục sinh mà chúng con hy vọng. Chúng con ẩn giấu kho tàng này trong thân xác chúng con với ân sủng của bí tích Rửa tội; ước gì kho tàng này được thêm phong phú nơi bàn tiệc các bí tích của Ngài. Xin ban cho chúng con niềm vui của hồng ân Ngài. Chúng con lãnh nhận ký ức về Ngài nơi bàn tiệc tinh thần; xin cho chúng con có khả năng gìn giữ mãi cho đến ngày canh tân trong tương lai.

Xin cho chúng con hiểu được nét đẹp mà chúng con được kêu gọi, khi khám phá nét đẹp tinh thần mà ý định muôn thuở của Ngài chiếu tỏa ngay trong chính cái chết.

Thánh Ephrem
Thứ Năm 19-4

Chân Phước Luchesio và Buonadonna

(c. 1260)
Ô
ng Luchesio và bà Buonadonna là hai vợ chồng muốn sống theo gương Thánh Phanxicô. Do đó họ đã gia nhập Dòng Ba Phanxicô.
Hai ông bà sống ở Poggibonzi, nơi họ hành nghề thương mãi và là con buôn tham lam. Nhưng sau khi gặp Thánh Phanxicô -- có lẽ năm 1213 -- họ đã thay đổi đời sống. Ông Luchesio bắt đầu thi hành nhiều việc bác ái.
Lúc đầu, bà Buonadonna không nhiệt tình sống bác ái như ông Luchesio, và thường than phiền chồng là đã bố thí quá nhiều của cải cho các người lạ. Một ngày kia, khi có người gõ cửa xin được giúp đỡ, và ông Luchesio nhờ vợ lấy cho họ ít bánh mì. Bà nhăn mặt khó chịu nhưng cũng đi vào bếp, và lạ lùng thay, bà nhận thấy số bánh mì đang có thì nhiều hơn khi trước. Không bao lâu, bà cũng trở nên hăng say sống đời khó nghèo và thanh bạch như ông chồng. Cả hai bán cả tiệm buôn, chỉ giữ lại ít đất để cầy cấy trồng trọt đủ cho nhu cầu và phân phối đất đai còn lại cho các người nghèo.
Vào thế kỷ thứ 13, với sự ưng thuận và sự cho phép của Giáo Hội, một số vợ chồng sống ly thân để người chồng vào dòng tu nam và người vợ vào dòng tu nữ. Nhưng điều này chỉ có thể xảy ra nếu họ son sẻ hoặc con cái đã trưởng thành. Ông bà Luchesio lại muốn kiểu khác, họ muốn sống đời tu trì, nhưng bên ngoài tu viện.
Ðể đáp ứng nhu cầu này, Thánh Phanxicô đã lập Dòng Phanxicô Thế Tục. Ðầu tiên, thánh nhân viết một Quy Luật đơn giản cho Dòng Ba (Phanxicô Thế Tục), sau đó Ðức Giáo Hoàng Honorius III đã chấp thuận một quy luật chính thức vào năm 1221.
Công việc bác ái của hai ông bà Luchesio đã thu hút người nghèo đến với họ, và cũng như các vị thánh khác, dường như hai ông bà không bao giờ thiếu của cải để giúp đỡ tha nhân.
Một ngày kia, khi ông Luchesio đang cõng một người tàn tật mà ông bắt gặp bên vệ đường thì có một thanh niên đến hỏi ông, "Cái tên quỷ quái nào mà ông đang cõng trên lưng đó?" Ông Luchesio trả lời, "Tôi đang cõng Ðức Giêsu Kitô." Ngay lập tức người thanh niên ấy đã phải xin lỗi ông.
Hai ông bà Luchesio và Buonadonna đều từ trần vào ngày 28 tháng Tư 1260. Ông được phong chân phước năm 1273. Truyền thống địa phương cũng gọi bà Buonadonna là "chân phước" dù rằng Tòa Thánh chưa chính thức công bố.
Lời Bàn
Thật dễ để chế nhạo người nghèo, và chà đạp phẩm giá con người mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Mẹ Têrêsa Calcutta thường đề cập đến sự nghèo túng như "sự đau khổ tiềm ẩn" của Ðức Kitô. Chúng ta dễ khiến người khác cảm thấy là họ vô ích -- người nghèo, người bệnh hoạn, người tật nguyền thể xác cũng như tâm thần, người lớn tuổi, người thất nghiệp -- do đó, chống lại sự cám dỗ ấy đòi hỏi một mức độ đại lượng trong cuộc sống chúng ta. Nếu ai nấy cũng đều nhìn thấy Ðức Kitô trong người nghèo như hai ông bà Luchesio, họ sẽ phong phú hóa Giáo Hội và giữ được sự trung tín với Thiên Chúa.

Lời Trích

Thánh Phanxicô thường nói, "Bất cứ ai nguyền rủa người nghèo là tổn thương đến Ðức Kitô, vì họ đang mang hình ảnh của Người, hình ảnh của Ðấng đã trở nên nghèo hèn vì chúng ta" (1 Celano, #76).

Copyright © 2010 by Nguoi Tin Huu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét