Trang

Thứ Sáu, 20 tháng 4, 2012

THỨ BẢY TUẦN II MÙA PHỤC SINH


Thứ Bảy sau Chúa nhật II Phục Sinh
Cv 6,1-7 ; Tv 32 ; Ga 6,16-21.

Bài đọc                                    Cv 6,1-7

1 Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do-thái theo văn hoá Hy-lạp kêu trách những tín hữu Do-thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên. 2 Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói : "Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. 3 Vậy, thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. 4 Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa." 5 Đề nghị trên được mọi người tán thành. Họ chọn ông Tê-pha-nô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông Phi-líp-phê, Pơ-rô-khô-rô, Ni-ca-no, Ti-môn, Pác-mê-na và ông Ni-cô-la, một người ngoại quê An-ti-ô-khi-a đã theo đạo Do-thái. 6 Họ đưa các ông ra trước mặt các Tông Đồ. Sau khi cầu nguyện, các Tông Đồ đặt tay trên các ông.
7 Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn, và tại Giê-ru-sa-lem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin.



Đáp ca                                     Tv 32,1-2.4-5.18-19 (Đ. c. 22)

Đáp :    Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa,
            như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài.

Hoặc:
Đáp :    Ha-lê-lui-a.

1          Người công chính, hãy reo hò mừng Chúa,
            kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi khen.
2          Tạ ơn Chúa, gieo vạn tiếng đàn cầm,
            kính mừng Người, gảy muôn cung đàn sắt.                 Đ.

4          Vì lời Chúa phán quả là ngay thẳng,
            mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin.
5          Chúa yêu thích điều công minh chính trực,
            tình thương Chúa chan hoà mặt đất.                           Đ.

18        Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa,
            kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương,
19        hầu cứu họ khỏi tay thần chết
            và nuôi sống trong buổi cơ hàn.                                  Đ.



Tung hô Tin Mừng                
           
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a.
Đức Ki-tô nay đã phục sinh,
chính Người đã tạo thành vạn vật
và xót thương cứu độ loài người. Ha-lê-lui-a.



Tin Mừng                                Ga 6,16-21

16 Chiều đến, các môn đệ xuống bờ Biển Hồ, 17 rồi xuống thuyền đi về phía Ca-phác-na-um bên kia Biển Hồ. Trời đã tối mà Đức Giê-su chưa đến với các ông. 18 Biển động, vì gió thổi mạnh. 19 Khi đã chèo được chừng năm hoặc sáu cây số, các ông thấy Đức Giê-su đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần thuyền. Các ông hoảng sợ. 20 Nhưng Người bảo các ông : "Thầy đây mà, đừng sợ !" 21 Các ông muốn rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc đó thuyền đã tới bờ, nơi các ông định đến.
(Bản văn theo UB.Kinh Thánh/HĐGMVN)


Suy Niệm:
"Trời tối và Ðức Giêsu chưa đến với họ. Biển động vì cuồng phong đốc thổi". Thuyền của các môn đệ chao đảo giữa mù tối và sóng gió.
Con thuyền Giáo hội đang vật lộn giữa vòng xoáy của cuộc sống hôm hay: Giữa những giáo thuyết sai lạc và luân lý suy đồi. Cuộc sống của mỗi chúng ta, gia đình của chúng ta cũng lao đao khốn đốn giữa dòng chảy cuộc đời nếu không có Chúa đồng hành.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết đặt Ngài làm trung tâm cuộc sống của chúng con. Xin cho chúng con biết tìm Chúa khi đời chúng con dậy sóng. Vì đến muôn đời Chúa vẫn là bến bờ hạnh phúc và an vui. Amen.

(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)
Chúa Ði Trên Biển

Biến cố Chúa đi trên biển cũng được mô tả trong Phúc Âm Nhất Lãm (Mt 14 và Mc 6), nhưng tường thuật của Gioan xem ra nhấn mạnh những chi tiết khác, ngài muốn làm nổi bật một ý nghĩa khác. Thánh sử Gioan không nói đến việc Chúa đến để trợ giúp cho các Tông Ðồ đang lúc gặp khó khăn, cũng không nói gì về việc làm cho sóng gió im lặng. Thay vì nhắc chi tiết làm sóng gió im lặng, ngài nhắc đến việc chiếc thuyền đến bờ bình an. Nhưng khi nhắc đến chi tiết này, tác giả xem ra cũng không chú ý nhiều đến nó, mà chỉ chú ý đến chi tiết qui về Chúa Giêsu nhiều hơn.
Tác giả muốn cho chúng ta nhìn thấy một Chúa Giêsu Kitô đầy quyền năng, không tùy thuộc vào những giới hạn thiên nhiên áp đặt. Chúa Giêsu đi trên mặt nước không bị chìm, không bị nguy hiểm bởi sóng to gió lớn trên mặt biển. Lúc đó, quyền năng Chúa Giêsu được diễn tả bằng lời xác nhận của Ngài: "Thầy đây đừng sợ". Trong Phúc Âm Gioan thì nói: "Ta đây". Ðó là cách nói diễn tả thực thể Thiên Chúa, nhắc đến Giavê Thiên Chúa mạc khải chính mình cho Môisê như là Ðấng "Ta là: Ego sum qui sum". Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các Tông Ðồ để mạc khải cho các ông nhận ra Ngài là thực thể Thiên Chúa, là Ðấng "Ta là". Như thế, sau phép lạ Chúa làm cho năm chiếc bánh và hai con cá hoá nhiều để nuôi sống 5,000 người, thì biến cố đi trên mặt biển giữa sóng gió được mạc khải rõ hơn về thực thể Thiên Chúa quyền năng "Ta là".
Ðáp lại, thái độ của dân chúng nhìn thấy Chúa chỉ như một tiên tri, một con người phi thường và muốn tôn Chúa lên làm vua. Họ hiểu sai thực thể Chúa là ai. Trong biến cố Chúa đi trên mặt nước chứng tỏ cho các môn đệ nhìn thấy thực thể đúng thật của Ngài, Ngài là Thiên Chúa, là Ðấng "Ta là".
Như thế, qua lời nói trấn an các tông đồ "Thầy đây đừng sợ", mạc khải này chuẩn bị thêm cho việc Chúa Giêsu giảng dạy về Bánh Hằng Sống nơi hội đường Caphanaum, Bánh ấy chính là Ngài. Hơn nữa, trong hội đường khi rao giảng về Bánh Hằng Sống, Chúa Giêsu được tường thuật năm lần khi dùng đến lời quả quyết "Ta là" để diễn tả thực thể Ngài là Thiên Chúa: "Ta là Bánh Hằng Sống". Như thế phần nào chúng ta thấy lý do tại sao Phúc Âm Gioan nhắc đến dấu lạ này sau phép lạ bánh và cá hoá nhiều và liền trước bài giảng về Bánh Hằng Sống.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ðấng cứu rỗi hiện diện giữa loài người, Như thế, có thể kết luận rằng nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa để có thể tin nhận mạc khải của Chúa về Bí Tích Thánh Thể, về Bánh Hằng Sống. Hai việc này luôn đi đôi với nhau: tin Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thì sẽ tin nhận bí tích Thánh Thể. Ngược lại, nếu không tin Chúa Gêsu Kitô là Thiên Chúa thì cũng không thể tin vào Thánh Thể, và nếu không tin vào Thánh Thể thì cũng không tin vững mạnh vào Chúa Giêsu là Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được nhìn thấy những dấu lạ Chúa vẫn thực hiện hôm nay và tin nhận Chúa là Thiên Chúa, từ đó tin nhận những gì Chúa mạc khải cho chúng con để cứu rỗi chúng con. Xin cho chúng con được luôn tín thác vào Chúa, nhất là khi gặp những nghịch cảnh thử thách. Chúa hiện diện trong Thánh Thể để đến với chúng con và trấn an chúng con "Thầy đây đừng sợ", xin cho chúng con biết đến với Chúa trong Thánh Thể để nghe Chúa nói "Thầy đây đừng sợ". Amen.

(Veritas Asia)


Suy niệm:
Vào thời Đức Giêsu, người ta chờ Thiên Chúa sai đến một vị vua.
Vị Vua này chính là một Đấng Mêsia hùng mạnh, toàn thắng,
Đấng sẽ giải phóng dân khỏi ách nô lệ của người Rôma.
Sau khi Đức Giêsu cho dân chúng được ăn no nê một cách kỳ diệu,
họ nghĩ ngay Ngài chính là người họ mong đợi từ lâu.
Họ toan bắt Ngài để tôn làm vua,
làm người đứng lên lãnh đạo phong trào cách mạng (Ga 6, 15).
Nhưng Đức Giêsu đã chối từ sự mong mỏi của dân chúng.
Ngài trốn lên núi một mình.
Đức Giêsu biết mình không phải là một Mêsia đầy quyền lực,
để giải phóng dân Israel khỏi ách của người Rôma.
Nhưng Ngài sẽ là một Mêsia như người Tôi Trung đau khổ,
chịu chết ô nhục và sống lại để giải phóng nhân loại khỏi ách tội lỗi.
 Dân chúng hẳn đã bị hụt hẫng khi thấy Đức Giêsu trốn đi.
Các môn đệ chắc đã tiếc ngẩn tiếc ngơ,
vì Thầy bỏ qua cơ hội ngàn năm một thuở để tỏ mình cho dân Israel,
và chính họ cũng mất đi một cơ hội để tiến thân.
Tin Mừng của thánh Gioan không nói cho ta biết tại sao sau đó
các môn đệ lại chèo thuyền qua Caphácnaum, ở bờ bên kia (c. 16).
Nhưng theo Tin Mừng Marcô, Đức Giêsu đã bắt buộc họ (Mc 6, 45).
Ngài rõ ràng không muốn họ dính dáng vào chuyện chính trị này.
 Bị Thầy bắt qua lại bờ bên kia khi chiều đã sụp tối,
trong khi dân chúng và Thầy còn ở bờ bên này,
điều ấy chẳng dễ chịu chút nào cho các môn đệ.
Họ muốn ở lại hưởng chút dư vị của thành công vang dội vừa rồi.
Dù sao các môn đệ đã biết vâng phục.
Chuyến đi qua biển hồ cũng không suôn sẻ gì.
Họ phải chiến đấu với trận cuồng phong bất ngờ gây biển động.
Con thuyền bé nhỏ lênh đênh giữa sóng gió gào thét.
Cả nhóm gặp nguy hiểm mà không có Thầy trong thuyền.
Họ đã cố chèo được chừng năm, sáu cây số.
Có thể họ tự hỏi: tại sao Thầy lại vội sai mình ra khơi giữa đêm đen?
 Cuối cùng Thầy Giêsu cũng đến với họ như họ mong ước.
Nhưng Thầy không đến trên một chiếc thuyền như họ nghĩ.
Thầy đi trên mặt biển mà đến gần thuyền các ông (c. 19).
Cách đến của Thầy thật khác thường khiến họ hoảng sợ.

Có thể họ chưa nhận ra khuôn mặt của Thầy vì trời tối.
“Thầy đây mà, đừng sợ!”, Đức Giêsu vội vã trấn an.
 Giáo Hội hôm nay cũng có kinh nghiệm như nhóm môn đệ ngày xưa,
vất vả một mình chống chọi với sóng gió, khi không có Thầy ở bên.
Nhưng khi Chúa đến, chúng ta lại hoảng sợ, không nhận ra Ngài.
Thật ra Chúa chẳng bỏ chúng ta, dù có lúc Ngài để chúng ta một mình.
Phải tập quen dần với những cách xuất hiện mới mẻ của Chúa
để nhận ra Ngài vẫn có mặt trong thế giới hôm nay.
 Cầu nguyện:
 Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách:
những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương;
những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng còn trong tinh thần nữa,
bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“Điều mà ngươi làm
cho người bé mọn nhất trong anh em
là làm cho chính Ta”
 (Chân phước Têrêxa Calcutta)

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
21/04/12 THỨ BẢY TUẦN 2 PS
Th. Ansenmô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh 
Ga 6,16-21
TIẾP THÊM NIỀM TIN

…Biển động vì gió thổi mạnh… Các ông hoảng sợ. Nhưng Người bảo các ông: “Thầy đây mà, đừng sợ !” (Ga 6,18-20)

Suy niệm: Dấu lạ Chúa Giêsu hóa nước thành rượu tại Cana, chữa người đau ốm 38 năm ở hồ Bếtdatha, hóa bánh ra nhiều... vẫn chưa đủ sức thuyết phục các môn đệ tin vào Ngài. Vì thế, khi “Chúa Giêsu đi trên mặt biển” đến thuyền các ông, các ông đã “hoảng sợ,” thay vì nhận ra ngay đó là Chúa. Tin nằm ở một trật tự khác với thấy. Có người phải thấy mới tin, nhưng tự bản chất, tin không đòi hỏi phải thấy mà trước hết là một hành vi nội tâm, một ơn ban vô điều kiện của Thiên Chúa. Bao lâu chưa đạt tới tầm vóc này, Chúa vẫn có thể thực hiện một số dấu lạ để tiếp thêm lòng tin của con người. Đó là điều Ngài đã làm cho các môn đệ hôm nay.

Mời Bạn: Có khi nào ta đòi dấu lạ để tin chưa? Thật ra khi ta đòi điều kiện, Chúa có thể sẽ đáp ứng, nhưng cứ đòi mãi thì còn gì là tin, bởi đức tin là sáng kiến của chính Thiên Chúa. Tin vào sáng kiến không thể sai lầm của Ngài chính là hành vi của đức tin vậy.

Chia sẻ: Hiện tại đức tin của ông, bà, anh, chị… hệ tại điều gì? Ơn Chúa ta nhận được, thử thách ta vượt qua, tình yêu ta cảm nhận hay còn phải đợi chờ dấu lạ của Chúa?

Sống Lời Chúa: Giữa cơn khủng hoảng đang làm chao đảo con thuyền Hội Thánh, mỗi tín hữu hãy nhớ lại Lời Chúa hôm nay: “Thầy đây, đừng sợ!”

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin tiếp thêm sức mạnh cho chúng con, giúp chúng con vững tin vào những việc Chúa đang làm, nhất là trong những hoàn cảnh éo le của cuộc đời. Xin cho chúng con nhận ra Chúa Phục Sinh đang hiện diện với chúng con, bảo đảm cho sự trợ giúp của Chúa. Amen. 

Làm sao để giải quyết các khó khăn trong cuộc đời?
Bài đọc: Acts 6:1-7; Jn 6:16-21.

Khó khăn và xung đột ý kiến xảy ra ở mọi nơi và mọi thời; nói cách khác, hễ có sống chung, là có đụng nhau. Làm thế nào để giải quyết khi phải đương đầu với những khó khăn hay xung đột? Người khó khăn nóng tính sẽ la hét, chửi rủa, làm cho ra lẽ; rồi sau đó muốn ra sao thì ra. Người thâm trầm ít nói sẽ lặng lẽ rút lui, và chép miệng thở dài: thôi thì đường ai nấy đi cho đẹp cả đôi bên. Nhưng cả hai cách giải quyết đều không đẹp ý Chúa và giúp ích cho tha nhân;vả lại, có đi đâu chăng nữa, con người vẫn phải đương đầu với vấn đề “chung đụng.”
Các Bài Đọc hôm nay giúp chúng ta giải quyết vấn đề cách đẹp lòng Chúa và giúp ích cho tha nhân. Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ tường thuật các khó khăn của cộng đồng các tín hữu sơ khai, họ cũng phải đương đầu với thiên vị và ghen tị giữa các tín hữu Do-thái theo văn hóa Hy-lạp và các tín hữu Do-thái bản xứ. Thay vì trốn tránh vấn đề, hay tìm cách ly khai, các Tông-đồ chọn thêm bảy Phó-tế để giúp các ngài lo cho các bà góa Do-thái theo văn hóa Hy-lạp. Mọi người đều vui vẻ với giải quyết khôn ngoan này. Trong Phúc Âm, khi phải đương đầu với phong ba bão tố, các Tông-đồ hỏang sợ, và càng sợ hãi hơn khi thấy một bóng người lướt trên nước tới thuyền của họ, vì các ông tưởng là ma; nhưng Chúa Giêsu lên tiếng trấn an các ông: “Chính Thầy đây! Đừng sợ!”
I. KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Biết khôn ngoan giải quyết vấn đề.
1.1/ Vấn đề thiên vị và ghen tị xảy ra trong cộng đòan: “Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do-thái theo văn hoá Hy-lạp kêu trách những tín hữu Do-thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên.”
(1) Nhận định vấn đề: Thói quen của con người là bảo vệ những người thân quen mình trước, rồi mới đến những người xa hơn. Vấn nạn trên xảy ra giữa những người Do-thái, nhưng theo những văn hóa khác nhau: các bà góa người bản xứ được cung cấp lương thực đầy đủ hơn những bà góa theo văn hóa Hy-lạp. Nếu không biết cách giải quyết vấn đề, tình trạng thiên vị và ghen tị sẽ ngày càng trầm trọng hơn, sẽ đưa đến việc tách rời giữa hai nhóm, sẽ gây thiệt hại cho sự đòan kết, và sẽ làm gương mù cho các tín hữu khác.
(2) Cách giải quyết: “Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: "Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. Hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó.”
Một người không thể làm hết, và cũng không tốt để làm hết, vì sẽ không mang lại kết quả tốt đẹp bằng nhiều người cộng tác. Hơn nữa, việc mở mang Nước Chúa là bổn phận của tất cả mọi người, chứ không phải chỉ là bổn phận của giới lãnh đạo mà thôi. Các Tông-đồ biết sắp xếp các thứ tự ưu tiên: việc rao giảng Tin Mừng là bổn phận hàng đầu không thể xao lãng. Để có người lo cho các nhu cầu của cộng đoàn, cần tuyển thêm các Phó-tế có những đức độ cần thiết. Các Tông-đồ để cho các tín hữu tham gia vào việc tìm kiếm các ứng viên; sau đó các ngài sẽ chuẩn y bằng việc đặt tay, và hướng dẫn họ trong việc phục vụ cộng đoàn.
1.2/ Phẩm trật Hội Thánh dần dần được hình thành: “Đề nghị trên được mọi người tán thành. Họ chọn ông Stephanô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông Philíp, Prochorus, Nicanor, Timon, Parmenas và ông Nicolaus, một người ngoại quê Antioch đã theo đạo Do-thái. Họ đưa các ông ra trước mặt các Tông Đồ. Sau khi cầu nguyện, các Tông Đồ đặt tay trên các ông.” Đây là 7 Phó-tế đầu tiên của Hội Thánh. Phó-tế Stephanô là thánh tử đạo đầu tiên làm chứng cho Chúa Giêsu trong trình thuật mà chúng ta sẽ được nghe ít ngày nữa.
Số các tín hữu càng đông, phẩm trật của Hội Thánh càng phải được nới rộng để đáp ứng nhu cầu của cộng đoàn và của các tín hữu. Dưới sự hướng dẫn của các Tông-đồ và hoạt động của Chúa Thánh Thần, “Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn, và tại Jerusalem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin.”
2/ Phúc Âm: Đừng sợ hãi khi phải đương đầu với các khó khăn trong cuộc sống.
Khó khăn trong cuộc sống không thể thiếu trong tiến trình thăng tiến và làm cho con người trưởng thành. Những khó khăn có thể do Thiên Chúa gởi đến để thử thách đức tin hay do tha nhân gây ra qua cuộc sống chung đụng. Trình thuật trong Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến trường hợp thứ nhất.
2.1/ Biển động làm các ông hỏang sợ: Trình thuật này xảy ra sau khi phép lạ Bánh hóa nhiều và dân chúng muốn tôn Chúa Giêsu làm vua của họ. Chúa Giêsu truyền cho các Tông-đồ qua bờ bên kia trước, còn Ngài lên núi cầu nguyện. Đứng trên núi của vùng Tiberias, Chúa Giêsu có thể quan sát rõ ràng thuyền của các ông trong Biển Hồ. Nhiều tác giả của các bài thánh ca đã so sánh Giáo Hội và cuộc đời con người như chiếc thuyền lênh đênh trên biển cả trong hành trình tiến về quê trời; ví dụ: Lạy Mẹ là ngôi sao sáng. Chúa Giêsu có thể đã nhìn thấy trước những khó khăn mà các Tông-đồ phải đương đầu với khi các ông phải hướng dẫn con thuyền Giáo Hội sau này; nên Ngài chuẩn bị cho các ông bằng biến cố biển động hôm nay.
Từ Tiberias, nơi các Tông đồ khởi hành khởi hành, đến Capernaum, nơi các ông muốn tới không xa lắm; nhưng đêm ấy biển động vì gió thổi mạnh. Khi đã chèo được chừng năm hoặc sáu cây số, các ông thấy Chúa Giêsu đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần thuyền. Điều này làm các ông hoảng sợ, vì từ trước tới giờ, các ông chưa từng được chứng kiến một con người đi trên nước. Chỉ có ma quỉ với làm được việc ấy. Vì thế, nỗi lo sợ các ông tăng gấp đôi.
2.2/ Chúa Giêsu trấn an các ông: "Thầy đây! Đừng sợ!" Các ông muốn rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc đó thuyền đã tới bờ, nơi các ông định đến. Nhiều lần trong cuộc đời công khai rao giảng, Chúa Giêsu đã nói những lời tương tự với các môn đệ: Khi hiện ra với các Tông-đồ sau khi sống lại, Chúa nói với các ông: “Đừng sợ!” (Mt 28:10). Những lời từ giã cuối cùng của Ngài với các ông: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Jn 14:27).
Hay khi chọn Phêrô để xây dựng Giáo Hội, Ngài đã nói với ông “Phêrô! Con là đá, và trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy. Thầy sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời và quyền lực của hỏa ngục cũng không thắng được” (Mt 16:18). Một khi sống trong sự bảo vệ của Ngài, con người không có gì phải sợ hãi nữa.
II. ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Khi phải đương đầu với khó khăn và xung đột, cả hai thái độ tức giận chửi rủa và từ chối rút lui đều phải tránh. Chúng ta cần phối hợp cả hai: sự trợ giúp tinh thần của Chúa và sự tế nhị trong cách đối xử, để giải quyết vấn đề cách khôn ngoan và bác ái.
- Tất cả các tín hữu đều có bổn phận góp phần trong việc mở mang Nước Chúa. Những nhà lãnh đạo cần biết khôn ngoan hướng dẫn để mọi thành phần của Dân Chúa đều có cơ hội đóng góp tùy khả năng và hoàn cảnh của họ.
- Khi những khó khăn xảy đến, đừng sợ! Hãy bình tĩnh, cầu nguyện, và tìm cách đối phó.
Anthony Đinh Minh Tiên, OP.

Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh Anselsô, giám mục tiến sĩ Hội Thánh; Cv 6,1-7; Ga: 6, 16-21.
LỜI SUY NIỆM: Chiều đến, các môn đệ xuống bờ Biển Hồ, rồi xuống thuyền đi về phía Caphácnaum bên kia Biển Hồ. Trời đã tối mà Đức Giêsu chưa đến với các ông. Biển động, vì gió thổi mạnh. Khi đã được chừng năm hoặc sáu cây số, các ông thấy Đức Giêsu đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần thuyền. Các ông hoảng sợ. (Ga 6, 16-19)
          Từ trên đỉnh đồi Chúa Giêsu vẫn trông chừng các ông, Ngài không quên họ. Ngài không vì quá bận rộn với Chúa Cha mà quên nghĩ đến họ.
          Trong cơn biển động, vì gió thổi mạnh, các ông đầy lo lắng và đã  đem hết sức mình ra để vật lộn với hiểm nguy. Chúa đã đến giúp các môn đệ Ngài trong nổ lực cuối cùng của họ để cập bến an toàn.
          Trong cuộc sống của chúng ta cũng lắm lúc gặp những gian nan, tưởng chừng như bị Chúa bỏ rơi. Nhưng thực ra trong mọi hoàn cảnh của chúng ta luôn có Chúa hiện diện. Chúa luôn quan tâm, và sắp đặt cho chúng ta cách tốt nhất để chúng ta vượt thắng những khó khăn và gặp được bình an
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 21-04:
Thánh ANSELMÔ
Giám mục, Tiến Sĩ  (1033 - 1109)
Thánh Anselmô chào đời năm 1033 tại Aosta, trong một gia đình quí phái. Mẹ Ngài, một người rất đạo đức lãnh trách nhiệm huấn luyện Ngài theo đàng nhân đức. Từ nhỏ, Ngài đã được theo học những bậc thầy danh tiếng. Bởi thế, Ngài đã mau mắn tiến triển cả về học vấn lẫn đức hạnh. Vào tuổi 15, thánh nhân đã biết chán ghét danh vọng giả trá thế trần và quyết theo đuổi đời sống tu trì, nhưng cha Ngài chống lại ý muốn này, thánh nhân buồn rầu ngã bệnh. Nhiệt tình theo đuổi đời sống tu trì không kéo dài bao lâu, nhất là bà mẹ đạo đức qua đời.
Anselmô rơi vào tình trạng nguội lạnh, nhiệt tình tuổi trẻ bị lôi cuốn vào những hấp dẫn thế trần. Cho đến lúc này, Anselmô vẫn còn thần tượng của cha Ngài, nhưng Thiên Chúa đã tha phép cho tình âu yếm của ông biến thành cay cú, đòi hỏi và cứng cỏi, đến nỗi Anselmô đã phải bỏ nhà trốn đi. Ngài từ giã không phải khỏi nhà cha mẹ mà thôi, nhưng còn bỏ luôn quê hương xứ sở cho tới tận miền Bourgogne. Tại đây, Ngài lấy lại nhiệt tình ban đầu. Ba năm sau, Ngài đến thụ huấn với tu viện trưởng Lanfrane ở Bec.
Một ngày kia, Anselmô xét thấy mình đã khổ cực để nên thông thái nhiều hơn là để nên đạo đức. Ngài đến quì dưới chân thày và nói : - Con có ba đường để theo : hoặc là trở thành tu sĩ phải Bec, hoặc sống ẩn tu, hoặc ở giữa thế gian để phân phát cho người nghèo gia sản của cha con để lại.
Đức Tổng giám mục giáo phận Rouen khuyên Ngài theo đuổi đời sống tu trì. Thế là Anselmôgia nhập tu viện Bec. Lúc ấy Ngài được 27 tuổi, Ngài đã dồn nỗ lực để nghiên cứu thần học và đời sống khiêm tốn vâng phục. Năm 1072, Đức Đan viện phụ Lanfrane được đặt làm tổng giám mục Canterbury. Anselmô được cử lên thay thế làm tu viện trưởng rồi làm Đan viện phu.
Sự đơn sơ và nhân hậu của Ngài đã đánh tan mọi ghen tương nghi kỵ. Hơn nữa sự thánh thiện và trí thông minh của thánh nhân đã khiến cho Ngài trở thành danh tiếng không những đối với các vị vua Chúa và các đức giám mục mà cả với thánh giáo hoàng Grêgôriô nữa. Tu viện Đức Bà ở Bec trở thành nơi trung tâm của phong trào trí thức thế kỷ XI năm 1087. Vua Willian I nước Anh từ trần. William Rufus lên kế vị. Nhà độc tài này không muốn có những chủ chăn mới và sang đoạt được nhiều tài sản của Giáo hội, nên khi Đức tổng giám mục Lanfrane qua đời, tòa giám mục Canterbury bị trống ngôi, năm 1093 khi thánh Anselmô viếng thăm Anh quốc, Rufus trong cơn trọng bệnh đã xin thánh nhân lãnh nhiệm vụ cai quản giáo phận Canterbury. Thánh nhân đã từ chối, nhưng rồi cũng phải lãnh nhận vì sự nài nỉ của các giám mục và nhất là vì sự chỉ định của đức Giáo hoàng Urbanô II.
Nhưng rồi khi nhà vua bình phục, ông hối tiếc vì việc sám hối của mình. Khi bị Đức Anselmô buộc phải chấp nhận quyền của Đức Urbanô, ông đã gây áp lực để truất phế đức tổng giám mục. Đức Giáo hoàng không nhận những giáo dân có thế giá cho biết sẽ không tha thứ cho việc truất phế thánh nhân, nhưng rồi năm 1097, sau nhiều cuộc cãi vã liên tục và vô hiệu, thánh Anselmô tự ý xin đi lưu đày, Rufus ưng thuận.
Thánh Anselmô trở về Roma và được khen ngợi vì sự can đảm của Ngài sau khi tham dự cộng đồng Bari và Roma. Thánh nhân tìm về đời sống tu viện tại dãy núi Apennins. Nơi đây Ngài hoàn thành tác phẩm: tại sao Thiên Chúa làm người. Ngài tuân thủ từng chi tiết của lề luật như một tập sinh. Ngài nói : - Cuối cùng tôi gặp được chốn nghỉ ngơi.
Năm 1100, Rufus qua đời trong một cuộc đi săn. Henri em vua lên kế vị, nhà vua mới triệu vời vị tổng giám mục trở về giáo phận. Năm 1106 Ngài trở về điều khiển Giáo hội tại Anh quốc.
Trải qua biết bao thăng trầm thánh nhân vẫn giữ được tâm hồn bình lặng. Ngài không bỏ qua công cuộc tìm kiếm thần học. Bởi đó, Ngài đã thành chiến sĩ đầu tiên của Giáo hội sau những thế kỷ đen tối. Luận chứng của Ngài nhằm chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa nay vẫn còn được biết đến. Thần học của Ngài là một phần linh đạo đặt trên sự cảm thông với những đau khổ của Chúa Kitô.
Với tư cách Tổng giám mục Canterbury Ngài đã chấm dứt việc bôi nhọ các thánh quê mùa của nước Anh quốc và góp phần khơi dậy cảm tình những gì truyền thống nước Anh từ xưa để lại. Đây là việc làm có giá trị lâu bền vì sửa lại được tình cảm phân rẽ và cuộc chinh phục của William gây nên.
Năm 1109, thánh Anselmô qua đời. Một con người đã luôn biết tìm kiếm Chúa. "Tôi không tìm hiểu để tin nhưng tin để mà hiểu biết", cuối cùng Ngài đã tìm về được ánh sáng vĩnh cửu.
(Daminhvn.net)
+++++++++++++++++
21 Tháng Tư
Món Quà Sinh Nhật

Một bác nông phu tên là Donningos sinh sống bên Brazil bằng nghề trồng bắp. Một buổi sáng nọ, trên con đường đi ra đồng làm việc, ông được đứa con trai mừng sinh nhật thứ 10 chạy theo căn dặn: "Ðừng quên mang về hai con chim nhỏ làm quà sinh nhật cho con cha nhé!". Người cha vốn rất vui tính và thương con nở nụ cười tươi, gật gù dưới chiếc nón rộng vành cho con yên dạ.
Sau một ngày lao động mệt nhọc trên cánh đồng, thấy mặt trời chưa lặn hẳn, bác Donningos vội đi qua cánh rừng gần đấy gom một mớ củi. Ðang lúc bó củi, bỗng bác nhớ lại lời hứa mang đôi chim về làm quà sinh nhật thứ 10 cho con. Bác bỏ vội bó củi bên đường, tiến sâu vào rừng, trèo nhanh lên gành đá của một ngọn đồi, nơi chim thường làm tổ. Tìm được một tổ chim có tiếng chim con kêu, bác cẩn thận luồn tay vào, nhưng vừa đụng những chim con, bác vội rụt tay về, vì nghe đau nhói như bị kim đâm. Nhìn kỹ đó là vết thương hai lỗ có máu rỉ ra. Chưa định thần thì một con rắn đầu có hình chữ thập trườn ra ngoài, vươn đôi mắt ngê rợn chực tiếp tục tấn công. Ðó là con rắn nổi tiếng được dân địa phương gọi là "uturu des sétao". Nổi tiếng vì nọc nó vô phương cứu chữa.
Bác nông phu vội rút chiếc dao cán dài ra khỏi thắt lưng, nhắm đầu rắn chặt nhanh. May cho bác, nhát dao giết chết được con rắn, nhưng bàn tay bị rắn cắn bỗng vụt sưng lên. Không chần chừ, bác kê tay lên gốc cây và mạnh tay chặt luôn hai nhát, cắt lìa bàn tay. Buộc xong vết thương bằng chiếc áo và dùng răng phụ chiếc tay còn lại xiết chặt, bác dùng sức tàn chạy nhanh về nhà, nhưng vẫn không quên cầm hai chú chim làm qua sinh nhật cho con.
Bạn có tin câu chuyện có thực này không? Nếu bạn không tin thì làm sao bạn tin được một sự thật khác còn to lớn hơn: Thiên Chúa chúng ta, không những cho chúng ta bàn tay của người, nhưng đã trao ban cho chúng ta trọn Con Một yêu dấu của Người.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Ngày 21
Thánh Anselmô, Giám mục và tiến sĩ Hội Thánh
 
Hỡi bà Maria, Thiên Chúa ở cùng bà!

Hỡi Đấng đầy ân sủng. Hỡi Trinh Nữ được Thiên Chúa chúc phúc và chúc phúc thật tuyệt vời. Người Con mà Thiên Chúa yêu thương như chính mình, chỉ vì Người là Hữu thể được sinh ra từ muôn thuở. Thiên Chúa đã ban Người Con này cho Maria; người Con được Đức Maria sinh ra, không phải ai khác, nhưng cũng là một người, vì mang bản thể của Người Con duy nhất, vừa chung với Thiên Chúa vừa chung với Đức Maria. Mọi thụ tạo đều là của Thiên Chúa, và Thiên Chúa được Đức Maria sinh ra. Thiên Chúa sáng tạo tất cả và Đức Maria đã sinh Thiên Chúa! Thiên Chúa Đấng làm ra tất cả, đã tự nhận mình nơi Đức Maria, và như thế Người tái tạo tất cả những gì Người đã dựng nên. Người là Đấng có thể làm nên thánh từ hư không, nay Người không muốn tái tạo lại sáng tạo đã bị tục hóa mà không có Đức Maria.

Thiên Chúa là Cha vũ trụ được tạo thành, và Đức Maria là Mẹ của vũ trụ được tái tạo, Thiên Chúa là Cha dựng nên vạn vật và Đức Maria là mẹ của sự tái tạo. Đức Maria đã sinh ra Đấng cứu độ muôn loài.

Thánh Anselme

Thứ Bảy 21-4

Thánh Anselm

(1033-1109)
L
à một thanh niên lãnh đạm với tôn giáo, Thánh Anselm đã trở nên một trong những nhà lãnh đạo và thần học gia vĩ đại của Giáo Hội. Ngài có danh xưng "Ông Tổ Phái Kinh Viện" vì những cố gắng phân tích và làm sáng tỏ các chân lý đức tin qua sự hỗ trợ của lý lẽ.
Thánh Anselm sinh trong một gia đình quyền quý ở Aoust, thuộc Piedmont. Ngài được người mẹ đạo đức chăm sóc và dạy dỗ về giáo lý, và ảnh hưởng tốt đẹp ấy đã kéo dài suốt cuộc đời ngài. 
Khi 15 tuổi, Anselm muốn gia nhập một đan viện, nhưng bị từ chối vì người cha phản đối. Sau thời gian mười hai năm sống trong sự thờ ơ tôn giáo và theo thói đời, sau cùng ngài đã trở thành một đan sĩ như lòng mong ước. Ngài gia nhập đan viện Bec ở Normandy, ba năm sau ngài được bầu làm đan viện trưởng, và 15 năm sau ngài được bầu làm viện phụ.
Ðược coi là một nhà tư tưởng độc lập và độc đáo, Ðức Anselm được mọi người thán phục vì sự kiên nhẫn, hiền hòa và tài giảng dạy của ngài. Quả thật, ngài hiểu biết nhiều về thực chất và sự đam mê của con người đến độ dường như ngài đọc được tư tưởng và hành động của họ, bởi đó ngài nhìn thấy các nhân đức cũng như tật xấu của họ và khuyên bảo họ một cách thích hợp. Dưới sự lãnh đạo của ngài, Ðan Viện Bec trở nên trường đào tạo các đan sĩ, có ảnh hưởng đến các tư duy triết học và thần học thời ấy.
Trong những năm này, theo lời yêu cầu của cộng đoàn, Ðức Anselm bắt đầu công bố các công trình thần học của ngài, có thể sánh với các văn bản của Thánh Augustine. Công trình nổi tiếng nhất của ngài là cuốnCur Deus Homo ("Tại Sao Thiên Chúa Làm Người").
Khi 60 tuổi, ngài được bổ nhiệm làm Ðức Tổng Giám Mục của Canterbury vào năm 1093, trái với ý muốn của ngài. Việc bổ nhiệm ngài, lúc đầu bị vua nước Anh là William Rufus chống đối nhưng sau đó phải chấp nhận. Rufus cố chấp từ chối cộng tác với các nỗ lực cải cách Giáo Hội.
Sau cùng Ðức Anselm phải đi lưu đầy cho đến khi Rufus từ trần năm 1100. Ngài được gọi về nước Anh bởi Henry I, là em và là người kế vị Rufus. Tuy nhiên, Ðức Anselm lại bất đồng với Henry về việc nhà vua nhúng tay vào các vấn đề của hàng giám mục, do đó ngài lại phải đi lưu đầy ba năm ở Rôma.
Không chỉ lưu tâm đến hàng quý tộc, Ðức Anselm còn để ý và lo lắng cho người nghèo. Ngài là người đầu tiên trong Giáo Hội chống đối việc buôn nô lệ. Và ngài đã được Hội Ðồng Quốc Gia Westminster thông qua đạo luật cấm buôn bán con người.
Ngài từ trần ở Canterbury, Anh Quốc năm 1109, và được phong thánh năm 1494.
Lời Bàn
Thánh Anselm, cũng như bất cứ môn đệ trung kiên nào khác của Ðức Kitô, đã phải vác thập giá của mình, nhất là dưới hình thức chống đối và xung đột với những người đang nắm quyền chính trị. Mặc dù bản tính là một người hiền hòa và yêu chuộng hòa bình, Thánh Anselm không nhượng bộ trước sự đàn áp và mâu thuẫn với các nguyên tắc đang bị đe dọa.
Lời Trích
"Trên thiên đàng không ai có sự khao khát nào hơn là thánh ý Thiên Chúa; và sự khao khát của một người sẽ là sự khao khát của mọi người; và sự khao khát của mọi người cũng như mỗi người sẽ là sự khao khát của Thiên Chúa" (Thánh Anselm, Opera Omnis, Thư 112).

Copyright © 2010 by Nguoi Tin Huu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét