Trang

Chủ Nhật, 1 tháng 4, 2012

THỨ HAI TUẦN THÁNH


Thứ Hai Tuần Thánh
Is 42,1-7 ; Tv 26 ; Ga 12,1-11.

Bài đọc                                    Is 42,1-7

1          Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ,
            là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng,
            Ta cho thần khí Ta ngự trên nó ;
            nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân.
2          Nó sẽ không kêu to, không nói lớn,
            không để ai nghe tiếng giữa phố phường.
3          Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy,
            tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi.
            Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý.
4          Nó không yếu hèn, không chịu phục,
            cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu.
            Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo.
5          Đây là lời Thiên Chúa, lời Đức Chúa,
            Đấng sáng tạo và căng vòm trời,
            Đấng trải rộng mặt đất với hoa màu tràn lan,
            Đấng ban hơi thở cho dân trên mặt đất,
            ban sinh khí cho toàn thể cư dân.
6          Người phán thế này : "Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi,
            vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta.
            Ta đã nắm tay ngươi,
            đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân,
            làm ánh sáng chiếu soi muôn nước,
7          để mở mắt cho những ai mù loà,
            đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ,
            dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm."



Đáp ca                                     Tv 26,1.2.3.13-14  (Đ. c. 1a)

Đáp :    Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi.

1          Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi,
            tôi còn sợ người nào ?
            Chúa là thành luỹ bảo vệ đời tôi,
            tôi khiếp gì ai nữa ?                                                     Đ.

2          Khi ác nhân xông vào, định nuốt sống thân tôi,
            ai ngờ chính đối phương, chính những thù địch ấy,
            lại lảo đảo té nhào.                                                      Đ.

3          Dù cả một đạo quân vây đánh, lòng tôi chẳng sợ gì.
            Dù có phải lâm vào chiến trận, tôi vẫn cứ cậy tin.       Đ.

13        Tôi vững vàng tin tưởng
            sẽ được thấy ân lộc Chúa ban
trong cõi đất dành cho kẻ sống.
14        Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào !
            Hãy cậy trông vào Chúa.                                             Đ.



Tung hô Tin Mừng                            

            Muôn lạy Vua Kitô, chỉ có Ngài thương đến thần dân tội lỗi.



Tin Mừng                                Ga 12,1-11

1 Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su đến làng Bê-ta-ni-a, nơi anh La-da-rô ở. Anh này đã được Người cho sống lại từ cõi chết. 2 Ở đó, người ta dọn bữa ăn tối thết đãi Đức Giê-su ; cô Mác-ta lo hầu bàn, còn anh La-da-rô là một trong những kẻ cùng dự tiệc với Người. 3 Cô Ma-ri-a lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá xức chân Đức Giê-su, rồi lấy tóc mà lau. Cả nhà sực mùi thơm. 4 Một trong các môn đệ của Đức Giê-su là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, kẻ sẽ nộp Người, liền nói : 5 "Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm quan tiền mà cho người nghèo ?" 6 Y nói thế, không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp : y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung. 7 Đức Giê-su nói : "Hãy để cô ấy yên. Cô đã giữ dầu thơm này là có ý dành cho ngày mai táng Thầy. 8 Thật vậy, người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có ; còn Thầy, anh em không có mãi đâu." 9 Một đám đông người Do-thái biết Đức Giê-su đang ở đó. Họ tuôn đến, không phải chỉ vì Đức Giê-su, nhưng còn để nhìn thấy anh La-da-rô, kẻ đã được Người cho sống lại từ cõi chết. 10 Các thượng tế mới quyết định giết cả anh La-da-rô nữa, 11 vì tại anh mà nhiều người Do-thái đã bỏ họ và tin vào Đức Giê-su.

Suy Niệm:
Thầy trò sống thân thiết gắn bó với nhau như "bát nước đầy", còn mấy ngày nữa đâu, còn nhiều thời gian cho nhau nữa đâu mà người môn đệ thân yêu nỡ tiếc xót với Thầy mấy quan tiền nhỏ mọn. Tình với nghĩa mà hẹp hòi vậy sao? Ðời bạc bẽo và cay đắng vậy sao?

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Giuđa là biểu tượng của mỗi người chúng con. Chúa có tiếc gì với chúng con? Còn gì quý nhất trên đời mà Chúa chưa ban cho chúng con? Mọi sự trong trời đất này là của Chúa mà sao Chúa như phải chờ đợi của bố thí của chúng con? Phải chăng vì yêu thương chúng con quá khiến Chúa đã hy sinh tất cả để ban tặng cho chúng con chính sinh mạng của Chúa?
Lạy Chúa Giêsu, xin tha thứ sự bất kính và xúc phạm nặng nề của chúng con. Xin cho chúng con biết chân tình cảm mến như Maria để đáp lại một chút tình yêu thương vô bờ của Chúa. Amen.

Xức Dầu Chân Chúa

Một cựu sĩ quan hải quân là một tu sĩ dòng Ða Minh, người Pháp, cùng với các nhà chuyên môn thiện chí khác và cha Louis đã có công khởi xướng lập nên một học thuyết, đồng thời cũng là một nhóm dấn thân trong xã hội, có tên gọi là: "Kinh Tế và Nhân Bản". Nhóm này có mục đích phát động một nền kinh tế phục vụ con người.
Sau khi nghiên cứu và đúc kết thành một học thuyết, thì họ lần lượt cho xuất bản nhiều sách báo, vạch ra một đường hướng phục vụ thế giới một cách mới mẻ. Ai muốn hưởng ứng thì cứ vận dụng vào cách sáng tạo, vào hoàn cảnh sống của địa phưong mình. Cha Louis đã du hành khắp nơi để trình bày đường lối của mình về kinh tế và nhân bản. Cha thường nhấn mạnh rằng: "Phải làm sao để vừa phát triển kinh tế vừa phát triển con người toàn diện về mọi mặt, vật chất cũng như tinh thần và phát triển đồng đều trên mọi miền khắp thế giới".
Mặc dù dấn thân hoạt động nhiều, nhưng cha không bao giờ quên canh tân chính cuộc sống thiêng liêng của mình. Cha đã dọn ra một lời nguyện sau đây để hằng ngày dùng đến mà kiểm điểm đời sống: Lạy Chúa, lỗi tại con; tại con không chân thành yêu thương anh chị em. Tại con không cảm thấy đau khổ trước những cảnh khốn cùng của anh chị em. Tại con thờ ơ lãnh đạm bên cạnh người xấu số. Tại con khinh dễ nhiều người, nhất là những người mang thân phận nghèo hèn, những người có kiến thức kém cỏi hơn con.
Tại con đã để cho kẻ khác phải chờ đợi. Tại con đã quên hay thất hứa khi con đã hẹn với người khác. Tại con không giữ đúng những lời cam kết. Tại con không ăn ở dễ dãi với kẻ khác, không sẵn sàng với người khác. Tại con không biết tìm hiểu những hoàn cảnh của người ta. Tại con đã chối giúp đỡ họ do tính ích kỷ của con. Tại con đã không ra tay xoa dịu một vết thương mà đáng lẽ con phải làm. Tại con đã làm thương tổn cho người ta nhiều, vì lời ăn tiếng nói của con. Tại con đã hạ bệ những kẻ đối nghịch với con. Tại con đã láo xược và ăn ở bất công. Tại con đã làm gương xấu quá nhiều, nên anh chị em con đã bị tổn thương nhiều vừa hồn vừa xác. Lạy Chúa, lỗi tại con. Xin Chúa thương tha thứ cho con. Và con cũng xin Chúa tha thứ cho những anh chị em đã vì lỗi của con mà sống bất xứng.
Anh chị em thân mến!
Mẫu gương và lời cầu nguyện trên của cha Louis mời gọi chúng ta nhìn về thái độ dấn thân của mình trong những công tác xã hội. Chúng ta muốn phục vụ anh chị em vì tình thương Chúa hay vì những lợi lộc riêng tư cho bản thân và gia đình mình.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được dịp nhìn thấy thái độ bênh vực người nghèo của tông đồ Giuđa phản bội Chúa. Giuđa tuyên bố như thể mình muốn phục vụ người nghèo, nhưng thực ra chỉ nghĩ đến lợi lộc riêng tư.
Nhưng về phần Maria, bà không thuộc nhóm 12 tông đồ được chọn sống luôn bên cạnh Chúa để lắng nghe Ngài chỉ dạy, nhưng Maria đã hướng về Chúa với hết tâm hồn của mình và đã thực hiện một việc được Chúa xem như là có giá trị tiên tri loan báo mầu nhiệm khổ nạn của Chúa. Trong khi đó thì Giuđa Iscario, một trong số 12 tông đồ đã được chọn lại có tâm địa khác, ông chỉ nghĩ đến lợi lộc riêng tư. Ông sống bên cạnh Chúa nhưng đã không thực sự gặp được Ngài.
Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách "Ðường Hy Vọng" đã lưu ý đến những người con tinh thần như sau: Lâu nay, cha thấy con đi kề bên Chúa mà không thấy Chúa, không gặp Chúa, không suy tư với Chúa, không đối thoại với Chúa, không hành động với Chúa. Con không an vui trong tâm hồn và con dấn thân một mình ngoài Chúa. Con đã mời Chúa lui về nhà thờ. Sự ly dị giữa cuộc sống đạo ở nhà thờ và ngoài xã hội là nguyên tố tai hại nhất trong thời đại chúng ta. Cả cuộc sống con phải loan truyền và tuyên xưng với hết tâm hồn thống hối và yêu thương. Và với một hành động mà người ngoài có thể cho là một hành động điên khùng uổng phí, nhưng trước mặt Chúa, đó là một hành động nêu gương sáng cho kẻ khác.
Lạy Chúa, xin ban ơn thanh luyện tâm hồn con khỏi mọi hình thức vụ lợi, ích kỷ, để con yêu mến Chúa thật lòng và phục vụ anh chị em xung quanh mỗi ngày một thiết thực, hữu ích hơn. Amen.



SUY NIỆM
Việc Đức Giêsu làm cho anh Ladarô hoàn sinh đưa đến hai thái độ.
Thượng Hội Đồng họp nhau lại và quyết định về cái chết của Đức Giêsu.
Còn chị Maria, trong bài Tin Mừng này, lại như muốn chuẩn bị cho cái chết ấy.
Trong bữa tiệc tại nhà của chị em Mácta, Maria, Ladarô, tại Bêtania,
Đức Giêsu được mời như một vị khách, có cả môn đệ của Ngài nữa.
Bữa ăn tối này là một cử chỉ diễn tả lòng kính trọng, yêu mến, và biết ơn
của cả gia đình đang vui sướng trước sự trở lại từ nấm mồ của người thân yêu.
Ladarô hẳn sẽ được ngồi gần Thầy Giêsu, Đấng thương mến anh (Ga 11,3),
Đấng trả lại cho anh sự sống.
Chính trong bữa ăn do chị Mácta phục vụ này,
cô em Maria đã làm một điều đặc biệt và rất bất ngờ.
Cô đã xức lên chân Thầy Giêsu một cân dầu thơm cam tùng hảo hạng,
khiến cả nhà sực nức mùi hương.
Chúng ta không hiểu tại sao cô xức chân Thầy thay vì đổ dầu thơm trên đầu.
Người ta không xức dầu thơm lên chân một người còn sống,
nhưng người ta có thể xức lên chân một người đã qua đời
để chuẩn bị cho việc mai táng người ấy.
Cô Maria không ngờ mình đã làm một hành vi có tính tiên tri về cái chết của Thầy,
như trước đây thượng tế Caipha đã vô tình nói tiên tri về cái chết ấy (Ga 11, 51).
Cô không ngờ việc xức dầu tối nay của mình là cử chỉ tượng trưng
cho việc liệm xác Thầy Giêsu sau này của ông Nicôđêmô
với một trăm cân mộc dược trộn với trầm hương (Ga 19, 39).
Nhìn cô Maria xức dầu, ta thấy cử chỉ trân trọng của cô đối với vị Thầy khả kính.
Cô chấp nhận sự phí phạm này, vì tình yêu của cô đối với Thầy,
hay đúng hơn, vì tình yêu quá lớn của Thầy đối với gia đình cô.
Cô xức dầu mà không so đo tính toán.
Lượng dầu quý giá được đổ ra chẳng là gì so với ân nghĩa của Thầy.
Nhưng có người thấy khó chịu, đó là Giuđa Ítcariốt, một môn đệ của Thầy.
Anh thấy tiếc vì lượng dầu thơm ấy thật đắt tiền,
có giá bằng lương gần một năm của một công nhân.
“Tại sao lại không bán dầu thơm ấy mà cho người nghèo ?”, anh tự hỏi.
Thầy Giêsu bênh vực cho cô Maria khi nói lên ý nghĩa việc làm của cô.
Hành vi chuẩn bị mai táng phải được đặt trên hành vi bố thí giúp người nghèo.
Hơn nữa, “người nghèo thì lúc nào cũng có, còn Thầy, anh em không có mãi đâu.”
Đức Giêsu ám chỉ cái chết sắp đến của mình.
Giuđa có vẻ không hiểu được thế nào là tình yêu.
Anh là người giữ tiền của cả nhóm, nhưng lại thường ăn cắp để dùng riêng. (c. 6).
Có thể đồng tiền đối với anh là quá lớn, lớn hơn cả tình yêu.
Anh phản bội Thầy mình cũng vì đồng tiền (Mt 26, 15).
Mong chúng ta biết dùng tiền bạc để diễn tả tình yêu như cô Maria.
LỜI NGUYỆN
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
Nhờ thế Người là tất cả của tôi.

Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
Nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,
Đến với Người trong mọi sự,
Và dâng người tình yêu trong mọi lúc.

Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
Nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.

Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
Nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người
Và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi.
R. Tagore
Anthony Nguyễn Cao Siêu S.J.

02/04/12 THỨ HAI TUẦN THÁNH
Ga 12,1-11
CHO NGƯỜI NGHÈO GIÊSU
Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, kẻ sẽ nộp Người, liền nói: “Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm quan tiền mà cho người nghèo?” (Ga 12,4-5)

Suy niệm: Xét theo lý, thì Giuđa Itcariốt thật là… có lý. Và ngược lại người ta có thể trách móc cô Maria về tội hoang phí vì dùng cả một cân dầu cam tùng trị giá ba trăm quan tiền chỉ để xức chân Chúa Giêsu, trong khi vẫn còn đó biết bao người nghèo khó thiếu thốn! Thực tế cho thấy những lời lẽ tốt đẹp của Giuđa trái ngược với những gì lòng anh ta mưu tính: chỉ ít ngày sau đó, anh đã bán đứng Thầy mình với giá có ba mươi đồng bạc! Trái lại, Chúa Giêsu đúng là người nghèo đích thực, bởi vì Ngài vốn giàu có nhưng đã trở nên nghèo khó vì chúng ta để nhờ đó chúng ta được trở nên giàu có (x. 2Cr 8,9). Hành động của Maria dù có quảng đại cũng không thể đáp đền cân xứng với “người nghèo Giêsu”. Chúng ta còn phải tiếp tục chia sẻ với những “người nghèo quanh ta” cũng một cách quảng đại như vậy vì nhìn thấy “người nghèo Giêsu” hiện diện nơi họ.

Mời Bạn: Lắm khi chúng ta cũng vô tình cư xử theo kiểu Giuđa, đó là khi chúng ta dùng nhiều lý lẽ rất “có lý” để “cò kè bớt một thêm hai” trong việc thờ phượng Thiên Chúa; khi nhân danh việc từ thiện bác ái để mưu tính lợi lộc danh dự; hoặc một mặt làm phúc bố thí nhưng mặt khác, trong cung cách làm ăn, lại chèn ép, loại trừ người nghèo hèn, yếu thế. Mời bạn kiểm điểm chính mình cách sâu xa để kịp thời nhận ra và loại bỏ những động lực lệch lạc ấy.

Sống Lời Chúa: Quảng đại dành thời gian cầu nguyện với Chúa mỗi ngày.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin dạy con luôn biết quảng đại với Chúa để con có thể quảng đại với tha nhân.

Lời Chúa Trong Gia Đình
THỨ HAI TUẦN THÁNH; Is 42, 1-7; Ga: 12, 1-11.
LỜI SUY NỆM: “Cô Maria lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá xức chân Đức Giêsu, rồi lấy tóc mà lau. Cả nhà sực mùi thơm.” (Mc 12,3).
          Trong cử chỉ xức dầu thơm của cô Maria cho ta thấy những đặc điểm của cô. Đó là cô đã đem tất cả những gì quý giá nhất của đời cô có, dùng hết cho Chúa Giêsu, không tính toán. Cô đã thể hiện một sự hạ mình, không dám nhìn lên cao, chỉ xức dầu ở chân Chúa. Cô cũng đã quên đi chính mình khi lấy tóc của mình mà lau chân Chúa, hành động xõa tóc này là tự hạ thấp phẩm giá của chính mình cô trước mặt mọi người vì yêu mến Chúa.
          “Cả nhà sực mùi thơm” Một hành vi đẹp trở thành tài sản chung cho toàn thể thế giới, nó thêm hương liệu cho cuộc đời. Một hành vi đẹp đưa vào thế gian một cái gì đó có tính cách quý báu trường tồn, mà thời gian không thể xóa nhòa được.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
02 Tháng Tư
Ve Sầu Kêu Ve Ve

"Ve sầu kêu ve ve, suốt mùa hè. Ðến kỳ gió bấc thổi, nguồn cơn thật bối rối...".
Trên đây là bốn câu đầu trong bài thơ mà cụ Nguyễn Văn Vỉnh đã dịch từ chuyện ngụ ngôn "Con ve và con kiến" của thi sĩ Pháp La Fontaine.
Ở Việt Nam chúng ta cũng như tại nhiều nước trên thế giới, cứ mỗi độ hè về là ve sầu xuất hiện và kêu inh ỏi.
Theo sinh vật học thì có đến 23 loại ve sầu, mỗi loại có chu kỳ khác nhau: loại 2 năm, loại 3 năm. loại 17 năm v.v... Trước khi xuất hiện trên mặt đất, ve đã làm kiếp nhộng sống ngầm dưới đất đến 17 năm. Ngay sau khi ra khỏi trứng, nhộng đã chui xuống đất và sống yên lặng 17 năm.
Sinh vật học còn cho rằng, khi chu kỳ 17 năm chấm dứt, các con nhộng này có thể nghe được một tín hiệu bí mật kêu chúng ra khỏi lòng đất và hàng trăm triệu con nhộng đã đáp lại tiếng kêu gọi đó, bò lên mặt dất, tìm cây cối hay vật gì thẳng gốc với mặt đất để bám chặt vào, rồi lột voe, biến thành con ve với hai cánh dài để bay... Nhưng cuộc sống của ve rất ngắn ngủi: vì chúng chỉ sống được năm tuần lễ vừa đủ để làm một công tác duy nhất làđẻ trứng rồi chết.
Kiếp sống của con ve sầu có thể làm cho chúng ta liên tưởng đến cuộc đời của Chúa Giêsu: trong 33 năm sống kiếp con người, Ngài đã sống ẩn dật đến 30 năm.
Nếu đối với kiếp ve sầu, 17 năm sống dưới đất như nhộng không phải là vô ích, thì với Chúa Giêsu, 30 năm sống ẩn dật của Ngài cũng mang một ý nghĩa và giá trị đặc biệt. Kiếp sống lam lũ của người thợ mộc, những vất vả trong cuộc sống hằng ngày: tất cả đều mặc cho cuộc sống con người một ý nghĩa.
Chúa Giêsu đến để chiếu rọi ánh sáng vào cuộc sống con người. Ánh sáng đầu tiên đã được chiếu rọi vào cuộc sống chúng ta chính là những năm tháng ẩn dật ấy của Chúa Giêsu. Trong ánh sáng ấy, chúng ta sẽ hiểu dược dù nghèo hèn đến đâu, dù tối tăm đến đâu, công việc từng ngày của chúng ta là những đóng góp vào công cuộc cứu rỗi của Chúa. Con ve sầu phải tôi luyện trong suốt 17 năm trời mới có thể xuất hiện để sinh ra một mầm sống mới. Những lam lũ vất vả từng ngày của người Kitô chúng ta cũng có sức mang lại mầm sống mới cho rất nhiều người.
Ước gì ánh sáng của Chúa Giêsu chiếu rọi vào cuộc sống của chúng ta, để, dù vất vả lao nhọc và đau khổ từng ngày, chúng ta luôn vui vẻ tiến bước vì tin rằng cuộc sống của chúng ta đang mang lại sức sống cho nhiều người.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Người Tôi Trung thực thi sứ vụ tới cùng
Bài đọc: Isa 42:1-7; Jn 12:1-11.
Chúng ta bước vào Tuần Thánh, Tuần cực trọng nhất của Năm Phụng Vụ. Các Bài Đọc tuần này tập trung hòan toàn vào Chúa Giêsu, Người Tôi Trung của Thiên Chúa. Chúng ta sẽ nghe tất cả Bốn Bài Ca về Người Tôi Trung của Thiên Chúa từ tiên tri Isaiah: Bài ca thứ nhất hôm nay, Bài ca thứ hai ngày mai, Bài ca thứ ba ngày thứ tư, và Bài ca thứ bốn trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Mỗi Bài ca cho chúng ta nhìn thấy những khía cạnh khác nhau của Người Tôi Trung; tổng kết tất cả bốn Bài ca cho chúng ta cái nhìn rõ ràng về con người và sứ vụ của Đức Kitô, Người Tôi Trung của Thiên Chúa. Chúng ta có thể đối chiếu những điều này với những gì xảy ra cho Ngài trong tuần cuối cùng trên trần thế để biết rằng: Tất cả đã được sắp xếp bởi Thiên Chúa, mặc khải bởi tiên-tri Isaiah 700 năm trước công nguyên, và hòan thành bởi Đức Kitô.
Trong Bài Đọc I, tiên tri Isaiah nói về mối liên hệ giữa Thiên Chúa và Người Tôi Trung, sứ vụ của Ngài là làm sáng tỏ đức công chính của Thiên Chúa, và cách Ngài đạt mục đích là qua thái độ khiêm nhường phục vụ, thương yêu mọi người, và trung thành đến cùng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu thẳng thắn phê bình Judah để bảo vệ hành động yêu thương Chúa của Maria. Ngài không sợ âm mưu của bạo lực khi cho Lazarô sống lại từ cõi chết và dùng bữa với chị em ông tại Bethany.
I. KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bài ca thứ nhất về Người Tôi Trung của Thiên Chúa:
1.1/ Liên hệ giữa Thiên Chúa và Người Tôi Trung: Đây không phải là một người thường, nhưng là Người được Thiên Chúa tuyển chọn: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho Thần Khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân.”
Thiên Chúa, Đấng sáng tạo mọi sự trong vũ trụ, Đấng trải rộng mặt đất với hoa màu tràn lan, Đấng ban hơi thở cho dân trên mặt đất, ban sinh khí cho toàn thể cư dân. Người phán thế này: "Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta."
1.2/ Sứ vụ và cách đạt mục đích của Người Tôi Trung:
(1) Sứ vụ của Người Tôi Trung: làm sáng tỏ công lý của Thiên Chúa trước mặt muôn dân: “Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm.”
(2) Cách thi hành sứ vụ: Rất khác với cách của con người thường. Những đức độ của Người Tôi Trung được tiên tri Isaiah mô tả như sau:
- Khiêm nhường: “Nó sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường.”
- Thương yêu: “Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi.”
- Trung thành đến cùng: “Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý. Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo.”
2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu khiển trách Judah Iscariot và bảo vệ hành động của Maria.
Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu đến làng Bethany, nơi anh Lazarô ở. Anh này đã được Người cho sống lại từ cõi chết. Ở đó, người ta dọn bữa ăn tối thết đãi Đức Giêsu; cô Martha lo hầu bàn, còn anh Lazarô là một trong những kẻ cùng dự tiệc với Người.
2.1/ Hai con người với hai thái độ ngược nhau:
(1) Maria yêu Chúa không tính tóan: “Cô Maria lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá xức chân Đức Giêsu, rồi lấy tóc mà lau. Cả nhà sực mùi thơm.” Đây là lần thứ hai Maria được tường thuật ngồi dưới chân Chúa Giêsu. Trong Tin Mừng Luca, cô được Chúa Giêsu khen, vì đã ngồi dưới dân Chúa để nghe lời Người trong khi chị Martha bận rộn để nấu ăn đãi khách. Cách cô tỏ tình yêu cho Chúa Giêsu cũng khác mọi người; điều này chứng tỏ khi con người sống trong tình yêu, họ có nhiều sáng tạo trong cách bày tỏ tình yêu của họ.
- Cô dám dùng tới một cân dầu thơm để xức chân Chúa Giêsu mà Judah uớc tính trị giá tới 300 quan tiền; thông thường người ta chỉ xức vài giọt nếu dầu thơm quí giá như vậy. Cô không tính toán với Chúa vì cô chắc chắn được Chúa cho biết sẽ không còn nhìn thấy Chúa trên cõi dương gian này nữa. Cô có lẽ là người yêu thương và hiểu biết Chúa hơn cả trong tuần lễ cuối cùng của Ngài trên dương gian.
- Tóc rất quí với phụ nữ và họ chăm sóc chải chuốt nó mỗi ngày; thế mà cô lại dùng tóc để lau chân Chúa thay vì dùng khăn như thói thường. Hành động này chứng tỏ tình yêu của cô dành cho Chúa. Thông thường người phụ nữ rất kín đáo khi tỏ tình yêu, cô Maria can đảm làm những điều này trước mặt mọi người.
(2) Judah Iscariot luôn tính tóan và phê bình: Thấy hành động của cô, một trong các môn đệ của Đức Giêsu là Judah Iscariot, liền nói: "Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm quan tiền mà cho người nghèo?" Judah được Chúa và các tông đồ trao cho sứ vụ quản lý. Nếu cô Maria muốn giúp người nghèo, 300 quan tiền đó chắc chắn sẽ được trao cho hắn. Thánh sử Gioan có lẽ đã biết tính tình của Judah nên chú thích: “Y nói thế, không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung.” Vì Judah không ở trong tình yêu nên không biết tình yêu là gì! Khi một người so sánh tình yêu với tiền bạc, người đó không hiểu giá trị của tình yêu.
2.2/ Phản ứng của Chúa Giêsu và các thượng tế:
(1) Phản ứng của Chúa Giêsu: Ngài nói: "Hãy để cô ấy yên. Cô đã giữ dầu thơm này là có ý dành cho ngày mai táng Thầy. Thật vậy, người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có; còn Thầy, anh em không có mãi đâu." Chúa biết ngày Ngài sắp chết đã gần kề và Ngài biết ý định của Maria khi cô làm những hành động này. Chỉ có ai ở trong tình yêu mới hiểu nổi ý tưởng của nhau mà người ngọai cuộc không bao giờ hiểu được. Chúa Giêsu trưng dẫn lý do xác đáng để bênh vực hành động của Maria: con người không có Chúa Giêsu mãi mãi.
(2) Phản ứng của các thượng tế: Biến cố hôm nay xảy ra sau khi Chúa Giêsu đã làm một phép lạ cả thể: cho Lazarô đã chết 3 ngày sống lại. Đó là lý do trình thuật kể: “Một đám đông người Do-thái biết Chúa Giêsu đang ở đó. Họ tuôn đến, không phải chỉ vì Chúa Giêsu, nhưng còn để nhìn thấy anh Lazarô, kẻ đã được Người cho sống lại từ cõi chết.” Khi nhìn thấy đám đông, các thượng tế quyết định giết cả Chúa Giêsu lẫn Lazarô, vì tại anh mà nhiều người Do-thái đã bỏ họ và tin vào Chúa Giêsu.
II. ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Giống như Chúa Giêsu được Thiên Chúa trao cho một sứ vụ khi vào cuộc trần này, mỗi người chúng ta cũng được Thiên Chúa trao cho một sứ vụ. Chúng ta hãy tìm ra sứ vụ đó để thi hành tới cùng.
- Cách thức của Thiên Chúa rất khác với cách thức của con người. Để thực thi sứ vụ, Ngài đòi chúng ta phải khiêm nhường phục vụ, trung thành yêu thương, và chấp nhận gian khổ.
Anthony Đinh Minh Tiên, OP


Ngày 02
 
THỨ HAI TUẦN THÁNH 
Thánh Phanxicô Paola

“Hãy để bà ấy yên”

Hôm nay, một bữa tiệc mừng Lazarô, người em và là người bạn, bước ra khỏi mộ: Lazare thật sự đã sống, anh đang ăn và uống giữa những người đồng bàn. Nhiều người đến để chia vui với anh. Đôố với Maria, chị anh Lazarô, Người danh dự nhất trong bàn tiệc chính là Đức Giêsu. Chị lau chân Người với thuốc thơm đặc biệt, không pha thêm tí gì, đây là cử chỉ của một người nô lệ, cừ chỉ thật khiêm tốn để kính trọng và mời chào, cử chỉ của hôn thê dành cho hôn phu, khởi đầu đêm hoa chúc. Sau đó chị lấy tóc lau chân cho Người và trong cử chỉ này, chị đã tự hiến trọn vẹn. Mùi thơm, của hiến vật, bay tỏa khắp gian phòng. Giuđa, kẻ sắp nộp Người. Ông đưa ra những câu tỏ vẻ thương yêu người nghèo khổ. Đức Giêsu biết rõ tâm hồn của họ - tâm hồn thanh khiết của chị Maria, tâm hồn lộn xộn, gạt gẫm của Giuđa. Nếu Đức Giêsu muốn báo cho Giuđa thấy rõ hành vi của ông, Người cũng không nói cho những người ngồi bàn tiệc. Trước tiên Người nói về cử chỉ của Maria và giải thích cho mọi người: "Hãy để yên chị, chị thực hành phong tục chôn cất tôi đấy". Những lời này và cả ngôi nhà tràn hương thơm ngát như muôn nói lên vinh quang cái chết của Người. Người báo sự vắng mặt, nhưng đồng thời cũng gợi ý đến Nước của Cha mà Người sắp bước vào.

Một Nữ phó tế của Reuilly - La Croix
Thứ Hai 2-4

Thánh Phanxicô ở Paola

(1416-1507)
T
hánh Phanxicô ở Paola là một người chân thành yêu quý sự chiêm niệm cô độc và ao ước duy nhất của ngài là trở nên "người thấp hèn nhất trong nhà Chúa." Tuy nhiên, khi Giáo Hội kêu gọi ngài làm việc phục vụ xã hội, ngài đã trở nên một nhà hoạt động phi thường và có ảnh hưởng đến đường hướng của nhiều quốc gia.
Sau khi tháp tùng cha mẹ trong chuyến hành hương đến Rôma và Assisi, Phanxicô bắt đầu cuộc sống ẩn tu trong một cái hang hẻo lánh ở ven biển gần Paola. Trước khi ngài 20 tuổi, đã có một môn đệ đầu tiên muốn theo lối sống của ngài. Mười bảy năm sau, khi số môn sinh ngày càng gia tăng, Phanxicô đặt ra một quy luật cho cộng đoàn khắc khổ của ngài và xin Giáo Hội chuẩn nhận. Từ đó phát sinh tổ chức các Ẩn Tu của Thánh Phanxicô Assisi, được Toà Thánh chấp thuận năm 1474.
Vào năm 1492, Phanxicô đổi tên cộng đoàn thành "Minims" vì ngài muốn họ trở nên những người bé mọn nhất trong nhà Chúa. Sự khiêm tốn là tiêu chuẩn của các tu sĩ này cũng như cuộc đời của Phanxicô. Ngoài các lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời, Phanxicô còn thêm một bó buộc thứ tư là luôn luôn ăn chay. Ngài tin rằng sự hãm mình quyết liệt rất cần thiết để phát triển tâm linh.
Ðó là ý muốn của Phanxicô khi trở nên một vị ẩn tu chiêm niệm, nhưng ngài tin rằng Thiên Chúa đã gọi ngài trong đời sống tông đồ. Ngài bắt đầu dùng các ơn sủng được Chúa ban, tỉ như ơn làm phép lạ và nói tiên tri, để giúp đỡ dân Chúa. Là một người bảo vệ người nghèo và người bị áp bức, Phanxicô chọc giận vua Ferdinand của Naples vì ngài khiển trách cả hoàng gia.
Theo lời yêu cầu của Ðức Giáo Hoàng Sixtus IV, Phanxicô đến Pháp để giúp vua Louis XI chuẩn bị từ trần. Trong thời gian giúp đỡ nhà vua, Phanxicô đã có cơ hội ảnh hưởng đến chiều hướng chính trị của quốc gia này. Ngài giúp vãn hồi nền hoà bình giữa Pháp và Anh qua sự khuyến khích cuộc hôn nhân giữa hai hoàng tộc, và giữa Pháp và Tây Ban Nha bằng cách thúc giục vua Louis XI trả lại một số đất chiếm đóng.
Phanxicô đã sống một cuộc đời lâu dài để ca ngợi và mến yêu Thiên Chúa. Ngài từ trần khi chín mươi mốt tuổi, vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1507.

Lời Bàn

Cuộc đời của Thánh Phanxicô ở Paola là câu trả lời rõ ràng cho thế giới quá sôi động. Ngài là một người chiêm niệm được kêu gọi để hoạt động xã hội và chắc rằng ngài phải cảm thấy sự căng thẳng giữa đời sống cầu nguyện và việc phục vụ xã hội. Tuy nhiên, sự căng thẳng này không làm mất đi hiệu quả của đời sống thánh nhân, vì ngài biết đưa kết quả của sự chiêm niệm vào trong hoạt động xã hội. Ngài đáp ứng lời mời gọi của Giáo Hội một cách sẵn sàng và tốt đẹp là nhờ có nền tảng vững chắc của sự cầu nguyện và hãm mình. Khi ngài đến trong thế gian, không phải ngài hoạt động nhưng chính Ðức Kitô hoạt động trong ngài -- là "người hèn mọn nhất trong nhà Thiên Chúa."

Copyright © 2010 by Nguoi Tin Huu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét