Trang

Thứ Hai, 9 tháng 4, 2012

THỨ BA TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH


Thứ Ba trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh
Cv 2,36-41 ; Tv 32 ; Ga 20,11-18.

Bài đọc                                    Cv 2,36-41

36 Trong ngày lễ Ngũ Tuần, ông Phê-rô nói với người Do-thái rằng : "Toàn thể nhà Ít-ra-en phải biết chắc điều này : Đức Giê-su mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô."
37 Nghe thế, họ đau đớn trong lòng, và hỏi ông Phê-rô cùng các Tông Đồ khác : "Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì ?" 38 Ông Phê-rô đáp : "Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, để được ơn tha tội ; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần. 39 Thật vậy, đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em, cũng như cho con cháu anh em và tất cả những người ở xa, tất cả những người mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi." 40 Ông Phê-rô còn dùng nhiều lời khác để long trọng làm chứng và khuyên nhủ họ. Ông nói : "Anh em hãy tránh xa thế hệ gian tà này để được cứu độ." 41 Vậy những ai đã đón nhận lời ông, đều chịu phép rửa. Và hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo.



Đáp ca                                     Tv 32,4-5.18-19.20 và 22 (Đ. c. 5b)

Đáp :    Tình thương Chúa chan hòa mặt đất.

Hoặc:
Đáp : Ha-lê-lui-a.

4          Lời Chúa phán quả là ngay thẳng,
            mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin.
5          Chúa yêu thích điều công minh chính trực,
            tình thương Chúa chan hoà mặt đất.                           Đ.

18        Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa,
            kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương,
19        hầu cứu họ khỏi tay thần chết
            và nuôi sống trong buổi cơ hàn.                                  Đ.

20        Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa,
            bởi Người luôn che chở phù trì.
22        Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa,
            như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài.                     Đ.



Tung hô Tin Mừng                 Tv 117,24

Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a.
Đây là ngày Chúa đã làm ra,
nào ta hãy vui mừng hoan hỷ. Ha-lê-lui-a.




Tin Mừng                                Ga 20,11-18

11 Khi ấy, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, 12 thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giê-su, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. 13 Thiên thần hỏi bà : "Này bà, sao bà khóc ?" Bà thưa : "Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu !" 14 Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giê-su đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giê-su. 15 Đức Giê-su nói với bà : "Này bà, sao bà khóc ? Bà tìm ai ?" Bà Ma-ri-a tưởng là người làm vườn, liền nói : "Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về." 16 Đức Giê-su gọi bà : "Ma-ri-a !" Bà quay lại và nói bằng tiếng Híp-ri : "Ráp-bu-ni !" (nghĩa là 'Lạy Thầy'). 17 Đức Giê-su bảo : "Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ : ' Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em '." 18 Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi báo cho các môn đệ : "Tôi đã thấy Chúa", và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.
(bản văn theo UB.Kinh Thánh /HĐGMVN)
Suy Niệm:
"Ðừng giữ Ta lại... hãy đi gặp anh em Ta và hãy báo tin..." Maria gặp Ðấng Phục Sinh. Bà quá vui mừng và muốn giữ Ngài lại cho riêng mình. Nhưng Ðức Giêsu thúc giục bà hãy loan Tin Mừng Ngài đã phục sinh. Sứ điệp Phục Sinh là sứ điệp khẩn cấp không thể chần chừ vì đó là niềm vui khôn tả. Ðức Giêsu Phục Sinh. Ngài về cùng Cha. Cha của Ngài cũng là Cha của chúng ta. Ngài về để mở đường đón chúng ta cùng về bên Cha.

Cầu Nguyện:
Lạy Cha, người anh trưởng của chúng con là Ðức Giêsu. Ngài đã phục sinh và được trở về với Cha. Quê hương đích thực của chúng con là quê Trời, nơi Cha ngự trị và chúng con cũng sẽ ngự trị. Trong niềm hân hoan, chúng con luôn hướng về Cha.
Xin cho cuộc sống của chúng con là chứng từ sống động cho niềm vui này. Ước mong tất cả anh chị em chúng con sẽ được cùng với Ðức Giêsu, xum họp bên lòng Cha. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.

(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)

Tôi Ðã Xem Thấy Chúa Phục Sinh

Trong thời gian sống tại thành phố Paris, thi sĩ Viler Maria thường có thói quen đi bách bộ vào mỗi buổi chiều. Dọc theo lối đi của thi sĩ có một bà già ngày ngày ngồi ăn xin. Bà ta ngồi đó âm thầm câm nín, dáng vẻ trơ trơ không cảm xúc, ngay cả khi nhận quà bố thí bà cũng chẳng biểu lộ một dấu hiệu biết ơn nào.
Ngày kia, thi sĩ đi bách bộ với người bạn gái trẻ, cô ta quá đỗi ngạc nhiên khi thấy thi sĩ đi ngang qua chỗ ngồi của bà già ăn xin mà chẳng cho bà chút gì. Ðọc được tư tưởng của bạn gái, nhà thơ trả lời: "Quà tặng phải đưa vào tận con tim, chứ không phải chỉ đưa bằng đôi tay".
Qua ngày hôm sau, thi sĩ đến chỗ hẹn với đóa hồng vừa hé nở trên tay. Dĩ nhiên cô gái nghĩ rằng đóa hồng đó dành riêng cho cô, lòng cô rộn lên với tư tưởng: "Ôi! Thi sĩ quá quan tâm đến mình biết bao". Nhưng không. Thi sĩ đã đến trao đóa hồng đó vào đôi tay gầy guộc của bà già ăn xin và rồi sự lạ đã xảy ra là bà già bấy lâu trơ trơ như khúc gỗ giờ đây đã hồi sinh. Bà vội vàng đứng dậy, bước tới cầm tay thi sĩ và hôn lên đôi tay của thi sĩ. Rồi với cử chỉ nâng niu, bà ôm chặt lấy đóa hoa hồng vào lòng và thanh thản bước đi.
Suốt một tuần qua đi, bà mới trở lại chỗ ngồi ăn xin hằng ngày cùng với vẻ câm nín và vô hồn như trước kia. Người bạn gái hỏi thi sĩ xem suốt tuần qua không xin ăn thì bà sống bằng gì. Thi sĩ trả lời: "Bà sống bằng đóa hoa hồng".
Anh chị em thân mến!
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Gioan cũng thuật lại cho chúng ta câu truyện của một người đàn bà đang u buồn tuyệt vọng, nhưng bỗng nhiên nhận được món quà trao tận con tim, một niềm vui không gì đo lường được, đó là niềm vui của Tin Mừng Phục Sinh.
Ðọc lại đoạn Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy sự tuyệt vọng của Maria Madalena lúc này đến mức nào. Theo Chúa Giêsu và các môn đệ trên đường rao giảng Tin Mừng, chắc chắn bà đã nghe nói, đã chứng kiến biết bao phép lạ Chúa Giêsu đã làm, từ việc chữa lành bệnh tật cho đến việc làm cho kẻ chết sống lại, từ việc khiến gió biển im lặng cho đến chuyện hóa bánh ra nhiều.
Thế nhưng, tất cả đều sụp đổ khi bà đếm từng vết máu và mồ hôi loang vãi trên đường tử nạn, khi theo dõi từng hơi thở thoi thóp của Chúa Giêsu trên Thập Giá, hay khi xác Ngài được mai táng trong mồ, và hôm nay cả đến thân xác cũng bị đánh cắp mất, chẳng còn gì hy vọng nữa. Như vậy, tất cả chỉ là tuyệt vọng, Nhưng chính trong tận cùng của sự tuyệt vọng ấy, chính trong thử thách mịt mù ấy, bà đã được tặng ban một món quà không phải trên đôi tay, nhưng món quà ấy được trao tặng vào chính con tim của bà. Ðó là bà được thấy Chúa Kitô Phục Sinh và Ngài đã gọi tên bà một cách thân mật, ngọt ngào.
"Gọi tên" đó là một dấu chỉ thân mật giữa Chúa Giêsu và các môn đệ, giữa những người mục tử tốt lành và đoàn chiên. Người mục tử tốt lành nhận biết từng con chiên của mình, và Ngài gọi tên từng con chiên một và cho chúng vào hưởng niềm no thỏa trong đồng cỏ xanh tươi. Không chỉ riêng Madalena, nhưng mỗi người Kitô hữu đều được tặng ban món quà này. Lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy là họ đã được gọi tên, được đổi mới, được nâng lên hàng con cái dấu yêu của Thiên Chúa, được thông phần vào sức sống Phục Sinh trong nhiệm thể Ðức Kitô.
Sư sống Phục Sinh này không phải chỉ là một đóa hồng tạm bợ, chỉ hồi sinh con người trong thời gian ngắn ngủi, nhưng là đóa hồng vĩnh cửu có thể cho con người sống đúng địa vị làm người, làm con Thiên Chúa đến muôn đời. Con người chỉ trở nên buồn thảm, câm nín là vô hồn khi họ không biết nâng niu, quí chuộng mà bỏ xa sự sống Phục Sinh của Ðức Kitô.
Lạy Chúa, nếu tội lỗi làm cho con vô cảm, u buồn, tuyệt vọng, thì xin cho con được luôn nhớ rằng: Chúa đang đứng bên con và đang gọi tên con. Con không nhận thấy, không nghe biết vì con không nhiệt tâm yêu mến, tìm kiếm như thánh nữ Maria Madalena. Biết kiếm tìm trong tinh thần yêu mến chắc chắn con sẽ không thất vọng vì Chúa đang ở bên con, đang đợi chờ con.

(Veritas Asia)

Suy niệm:
Maria Mácđala là con người yêu mến. 
Theo Tin Mừng Gioan, bà đã theo Thầy Giêsu đến tận Đồi Sọ, 
đã đứng gần thập giá và chứng kiến cái chết của Thầy (Ga 19, 25). 
Hầu chắc bà đã tham dự cuộc mai táng Thầy và biết vị trí của ngôi mộ. 
Hơn nữa, bà là nguời ra mộ sớm nhất vào ngày thứ nhất trong tuần. 
Rồi bà chạy về báo tin cho các môn đệ về chuyện xác Thầy không còn đó (20, 1-2). 
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy bà lại có mặt ở ngoài mộ lần nữa (c. 11). 
Ngôi mộ như có sức giữ chân bà. 
Chỉ tình yêu mới giải thích được điều đó.
Maria là con người tìm kiếm. 
Đấng phục sinh hỏi bà: “Bà tìm ai?” (c. 15). 
Bà chỉ có một mối quan tâm duy nhất, đó là tìm lại được xác Chúa của bà. 
Bà đã nói với Phêrô: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, 
và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” (20, 2). 
Bà đã nói với vị thiên thần ngồi trong mộ điệp khúc tương tự: 
“Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu” (c. 13). 
Khi gặp Thầy Giêsu, bà tưởng là người làm vườn, nên cũng nói: 
“Nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết 
ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về (c. 15). 
Đối với Maria, mất xác Thầy là mất chính Thầy, 
nên bà cứ bị ám ảnh bởi chuyện người ta để Người ở đâu.
Maria là con người đau khổ. 
Bà đã khóc nhiều từ khi xác Thầy không còn đó. 
Cả thiên thần và Đức Giêsu đều hỏi bà cùng một câu hỏi: “Tại sao bà khóc?” 
Ai sẽ là người lau khô nước mắt của bà Maria Macđala? 
Ai sẽ là người giúp bà tìm thấy điều bà tìm kiếm? 
Đức Giêsu phục sinh đến gặp bà dưới dạng một người làm vườn. 
Thậm chí bà nghi ngờ ông này có dính dáng đến chuyện mất xác Thầy. 
“Maria”: Đức Giêsu gọi tên bà với một cung giọng quen thuộc. 
Bây giờ bà mới nhận ra Thầy và reo lên: “Rabbouni !” 
Có những lời của Đức Giêsu được thực hiện. 
“Ai tìm thì sẽ thấy”, “Ai khóc lóc sẽ được vui cười”. 
Maria đi tìm xác Thầy, nhưng bà đã gặp được một điều quý hơn nhiều, 
đó là chính Thầy đang sống. 
Maria đã khóc lóc, nhưng niềm vui bà gặp được lớn hơn nhiều. 
Chẳng có giọt nước mắt nào là vô ích trước mặt Thiên Chúa.
Hãy nếm niềm vui bất ngờ của Maria. 
Bà được Chúa sai đến với các môn đệ, cũng là anh em của Ngài. 
Bà gói ghém kinh nghiệm bà mới trải qua trong một câu đơn giản: 
“Tôi đã thấy Chúa !” và Chúa đã nói với tôi (c. 18). 
Chúng ta không thể nào làm chứng cho Chúa Giêsu nếu không có kinh nghiệm này.
Thấy Chúa và nghe được Chúa nói: đó là ước mơ của chúng ta trong cầu nguyện. 
Nhưng đừng quên Maria đã yêu cách nồng nhiệt và can đảm 
và đã đau khổ tìm kiếm Thầy Giêsu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
xin ban cho con sự sống của Chúa,
sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa,
bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa,
niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa,
hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa,
Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J

Bà Maria Mácđala đi báo cho các môn đệ: "Tôi đã thấy Chúa," và bà kể lại những điều Người đã nói với bà (Ga 20,18)
Suy niệm: 
Trước cái chết: nếu không tin việc Phục sinh, chúng ta đau buồn than khóc trước cái chết của một người thân và tiếc nuối đi tìm thân xác họ, khi đã có niềm tin Phục sinh, chúng ta sẽ không còn than khóc và sẽ không tìm người sống nơi kẻ chết nữa.

Bà De Gaulle cho gọi một nhân viên mai táng đến bảo tìm nơi an nghỉ cuối cùng cho người chồng đã quá cố. Người này thân hành chở bà đến sườn đồi, trước mặt là một thung lũng tuyệt đẹp. Ông nói: “Đây là nơi an nghỉ rất xứng đáng với người chồng vĩ đại của bà, và cũng chỉ tốn 200.000 francs.” Trong lúc bà còn đang phân vân, ông ta nói tiếp: “Ông nhà thật xứng đáng hưởng sự ưu đãi đó”. Bà đáp: “Nhưng ông ấy chỉ cần 3 ngày thôi mà!”

Việc Chúa Giêsu Phục sinh đã biến đổi hẳn ý nghĩa và tình cảm của con người; bà Maria Mađalêna chính là đại diện;Tình cảm của bà đối với Chúa Giêsu rất đậm đà: Khi không thấy xác Chúa Giêsu, bà khóc và cả thế giới này không còn ý nghĩa gì đối với bà nữa: bà không tìm gì khác ngoài xác của Chúa Giêsu, không nhận ra ai khác (các thiên thần, chính Chúa Giêsu mà bà tưởng là người giữ vườn). Khi Chúa gọi tên, bà nhận ra Chúa, sau đó vui mừng chạy đi báo cho mọi người. Tóm lại, đối với Maria Chúa Giêsu là tất cả, mất Chúa Giêsu cả thế giới như sụp đổ, gặp lại Chúa là gặp lại niềm vui.
Dù Maria không còn thấy gì và không còn nhận ra ai nữa cả, nhưng Chúa Giêsu gọi tên bà thì tất cả bừng sáng trở lại. “Ta biết các chiên Ta… các chiên Ta biết Ta …” Chúa cũng biết đích danh mỗi người chúng ta và gọi đúng tên chúng ta. Phần chúng ta có nhận biết Ngài không?
Chúa Giêsu đã hỏi Maria: “Tại sao con khóc?” và từ đó bà đã biến nỗi buồn của bà thành niềm vui. Nỗi buồn nào đang khiến tôi phải khóc thầm? Hãy dâng cho Chúa và xin Ngài hãy biến nó thành niềm vui.
“Đức Giêsu gọi bà: “Maria” bà quay lại và nói: “Rapbuni” nghĩa là lạy Thầy.” Đức Giêsu bảo: “Thôi đừng giữ Thầy lại… nhưnhg hãy đi gặp anh em Thầy.”
Tại sao Maria nhận ra người gọi mình chính là Thầy? Điều này chứng tỏ lòng yêu mến, mối thân tình giữa Thầy và trò. Cuộc sống đời thường Chúa cũng đã gọi tôi biết bao nhiêu lần qua những dấu chỉ của thời đại, qua những biến cố thăng trầm trong cuộc sống, qua những người thân, qua tiếng nói lương tâm. Chẳng biết được mấy lần tôi đủ nhạy bén để nhận ra lời Chúa gọi nhẹ nhàng và êm ái. Nhận ra rồi không biết tôi có dám dấn thân nhập cuộc, rao giảng tin mừng bằng chính kinh nghiệm sống của mình với Chúa Phục sinh.
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa, giữa thế giới đầy bận rộn và náo nhiện này, xin cho chúng con biết lắng tai nghe tiếng Chúa. Xin hãy mở rộng đôi tay còn khép kín của chúng con, để chúng con mau mắn thi hành sứ điệp Chúa gởi đến cho chúng con trong cuộc sống hằng ngày. Amen.

10/04/12 THỨ BA TUẦN BÁT NHẬT PS
Ga 20,11-18
CHA CỦA THẦY CŨNG LÀ CHA CỦA ANH EM

“Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em.” (Ga 20,17) 

Suy niệm: Thập giá và cái chết của Chúa Giêsu không phải là một sự mất mát trong tuyệt vọng. Ngay khi chỗi dậy và ra khỏi mồ, thân xác phục sinh của Ngài không còn bị giới hạn bởi không gian và thời gian nữa, ngay lập tức Ngài đã loan báo cho chúng ta tin vui mừng là “Ngài lên cùng Cha của Ngài.”Tin đó không chỉ vui cho riêng Ngài mà còn cho mỗi một người chúng ta, vì từ nay qua Ngài chúng ta được qui tụ trong Ngài bằng một mối tương quan mới: “Cha của Thầy cũng là Cha của anh em, Thiên Chúa của Thầy cũng là Thiên Chúa của anh em.” Tin vui này đồng nghĩa với một niềm hy vọng không thế lực nào dập tắt được rằng chúng ta Chúa Giêsu Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa, và một ngày kia chúng ta cũng được về đoàn tụ với Ngài. 

Mời Bạn: Sống ở trần gian này là chúng ta đang hành trình trở về xum họp trong nhà Cha trên trời. Cuộc hành trình này tất yếu phải đi xuyên qua chông gai và thập giá. Chúa Giêsu, người Anh Cả của chúng ta đã đi qua con đường đó; tất nhiên một khi chúng ta muốn đi theo Ngài, chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường mà Ngài đã đi qua.

Sống Lời Chúa: Tập đón nhận chông gai thập giá bằng cách nung nấu niềm hy vọng vào sự phục sinh.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu là đường dẫn chúng con về nhà Cha. Xin giúp chúng con vững niềm tin vào Chúa phục sinh, để chúng con vui tươi và dũng cảm vác thập giá hằng ngày để xứng đáng tới ngày được hợp hoan với Chúa.
Tôi đã tìm thấy Chúa
Bài đọc: Acts 2:36-41; Jn 20:11-18.
Đã mang thân phận con người, ai cũng có lầm lỡ. Thiên Chúa biết điều đó; vì thế, Ngài không chấp tội con người. Ngài không muốn con người phải chết trong tội, nhưng muốn họ ăn năn sám hối và được sống. Điều quan trọng là con người phải nhận ra những lầm lỡ của mình; đồng thời phải biết làm gì để đền bù những tội lỗi đó.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc đi tìm và nhận ra Chúa. Trong Bài Đọc I, nhờ sự rao giảng của Phêrô, 3,000 người Do-thái đã nhận ra tội lỗi của mình và trở về với Thiên Chúa qua việc lãnh nhận Phép Rửa. Trong Phúc Âm, Bà Mary Magdala, người đã tìm thấy Chúa khi Ngài còn sống; và đã tìm thấy Chúa sau khi Ngài sống lại.
I. KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chúng tôi phải làm gì?
1.1/ Thiên Chúa không chấp tội con người: Giết người vô tội đã là tội nặng, giết Con Thiên Chúa, Đấng yêu thương và lo lắng cho con người, là tội vô cùng nặng nề. Phêrô mở mắt cho người Do-thái nhận ra họ đã lầm khi kết án Chúa Giêsu Kitô: “Vậy toàn thể nhà Israel phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên Thập Giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô.”
Thiên Chúa sẽ đối xử thế nào với những ai vào hùa giết con của Ngài? Đây là câu hỏi mà chính Chúa Giêsu đã đặt ra cho họ trong ví dụ các tá điền được cho mướn đất làm vườn nho. Họ trả lời: “Ông chủ sẽ tru diệt chúng và giao vườn nho cho những ai biết sinh lợi.” Khi nhận ra tội của mình, người Do-thái đau đớn trong lòng, và hỏi ông Phêrô cùng các Tông Đồ khác: "Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì?"
1.2/ Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng: Đối với loài người, sẽ không có cơ hội thứ hai cho những người giết con Thiên Chúa. Đối với Thiên Chúa, Ngài cho họ có cơ hội thứ hai như Phêrô tuyên bố hôm nay: Họ phải làm 2 việc:
(1) Lãnh nhận Phép Rửa: "Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu Phép Rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần. Thật vậy, đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em, cũng như cho con cháu anh em và tất cả những người ở xa, tất cả những người mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi."
(2) Tránh xa thế hệ gian tà: Ông Phêrô khuyên nhủ họ: "Anh em hãy tránh xa thế hệ gian tà này để được cứu độ." Để bước theo đường lối của Thiên Chúa, con người cần tránh xa những sự sai lầm, giả trá, và biết sống theo sự thật. Chính sự sai lầm và không sống theo sự thật, những nhà lãnh đạo Do-thái đã luận tội Con Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Cuộc hội ngộ giữa Chúa Giêsu và Bà Mary Magdala
2.1/ Mary Magdala tiếp tục tìm xác Chúa: Trình thuật này tiếp tục trình thuật Bà chạy về báo tin cho các môn đệ, và Phêrô cùng Gioan đã chạy ra mộ và chạy về. Bà vẫn quanh quẩn bên mộ Chúa vì thương mến, và có lẽ vì tội nghiệp Chúa đã phải chịu cái chết đau khổ như thế, mà giờ đây vẫn chưa hết đau khổ, vì con người vẫn chưa tha cho xác chết của Ngài.
(1) Mary thấy sứ thần Thiên Chúa, nhưng không nhận ra họ: Bà đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. Thiên thần hỏi bà: "Này bà, sao bà khóc?" Bà thưa: "Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!"
(2) Mary nghe tiếng Chúa và nhìn thấy Chúa, nhưng không nhận ra Chúa: Đức Giêsu nói với bà: "Này Bà! sao bà khóc? Bà tìm ai?" Bà tưởng Chúa là người làm vườn, và nghĩ có thể ông đã lấy xác Chúa, liền nói với ông: “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.”
2.2/ Mary Magdala nhận ra Chúa Giêsu.
(1) Nhận ra Thiên Chúa không bằng những gì nghe và thấy bên ngoài, vì Bà đã nghe và thấy Chúa như trình bày ở trên; nhưng bằng sự rung động từ trong trí óc và con tim. Thánh sử Gioan mô tả phút giây hội ngộ giữa Chúa Giêsu và Mary Magdala thật ngắn ngủi, nhưng vô cùng tuyệt vời. Đức Giêsu gọi bà: "Mary!" Bà quay lại và nói bằng tiếng Do-thái: "Rabbouni!" Chỉ có hai con tim đang yêu mới hiểu được ý nghĩa tuyệt vời của hai tiếng gọi này. Sự kiện Chúa gọi tên Bà gợi lại cho bà nhiều điều: Chúa đang sống, Ngài nhận ra Bà, Ngài hiểu sự đau khổ của Bà, và Ngài yêu thương Bà. Nhận ra tiếng gọi thân thương của người mình yêu mến trong khi đang tuyệt vọng đi tìm, còn gì xúc động và vui mừng hơn, Bà quay lại để nhìn Chúa. Khi nhận ra Chúa, bà chạy đến, gieo mình xuống ôm chân Ngài, và sung sướng kêu lên “Thầy của con.”
(2) Yêu Chúa không phải giữ chặt Chúa, nhưng làm theo những gì Ngài muốn: Hành động của Mary Magdala như thầm nói với Chúa: “Con sẽ không để Thầy xa con nữa.” Nhưng Đức Giêsu bảo bà: "Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: "Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em.""
Khác với tình yêu con người, khi con người yêu ai, họ muốn giữ người họ yêu làm của riêng cho mình; tình yêu Thiên Chúa đòi con người tiếp tục cho Chúa đi, chứ không giữ Chúa lại làm của riêng cho mình. Con người tìm thấy niềm vui khi nhìn thấy mọi người yêu Chúa. Chúa Giêsu muốn bảo Mary: Nếu con thương Thầy, hãy làm cho nhiều người nhận biết Thầy! Thầy còn nhiều anh, chị, em mà con phải mang tin mừng đến cho họ.
(3) Bà Mary Magdala đi báo cho các môn đệ: "Tôi đã thấy Chúa!" và bà kể lại những điều Người đã nói với bà. Một khi đã tìm thấy và cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa, con người trở thành kẻ hát rong, ca ngợi tình yêu Thiên Chúa cho mọi người được biết. Cuộc đời không còn gì lôi cuốn được người có tình yêu Thiên Chúa; họ sẽ không đánh đổi tình yêu này cho bất cứ điều gì. Chỉ có tình yêu này mới có sức mạnh đủ để họ làm chứng cho Chúa giữa bao nghịch cảnh: bắt bớ, roi đòn, tù đày, gươm giáo, và ngay cả cái chết.
II. ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Hãy tìm Chúa! Ngài sẽ cho gặp; nhưng gặp lúc nào và khi nào là hoàn toàn do ý của Thiên Chúa.
- Thiên Chúa ở ngay trong tâm hồn con người, như thánh Augustine thú nhận: “Ngài luôn ở bên con, thế mà con vất vả tìm Ngài khắp nơi.”
- Khi đã tìm được Chúa, chúng ta không thể ích kỷ giữ Ngài cho mình chúng ta; nhưng phải chia sẻ cho mọi người để tất cả đều tìm thấy và tin tưởng nơi Ngài.
Anthony Đinh Minh Tiên, Op.


Lời Chúa Trong Gia Đình
THỨ BA TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH; Cv 2, 36-41; Ga: 20, 11-18.
LỜI SUY NIỆM: “Bà Maria Mácđala đi báo cho các môn đệ: ‘Tôi đã thấy Chúa’; và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.” (Ga 20,18)
          Với bà Maria Mácđala. Chúa Giêsu là tất cả và trên hết, bà dành trọn cuộc đời còn lại theo chân Chúa Giêsu, bà ao ước thực hiện cho Chúa những gì tốt nhất. Chắc chắn bà đã thức trắng đêm chờ cho đến giờ luật cho phép và đã vọi vàng ra mộ liền, bất chấp những khó khăn, trở ngại và nguy hiểm. Chính tình yêu tôn kính này mà bà đã được diễm phúc là được Chúa Giêsu Phục Sinh đã gọi tên bà và cho bà nhìn thấy Ngài trước tiên sau khi từ cõi chết trỗi dậy, và được giao sứ điệp loan báo cho các môn đệ của Chúa.
          Trong đời sống Ki-tô hữu chúng ta phải yêu kính Chúa, và luôn phải kiếm tìm Ngài trong mọi hoàn cảnh và mọi biến cố của cuộc sống của mình hoặc quanh ta để nhận ra Chúa. Mỗi khám phá của ta không những là hạnh phúc cho chúng ta, nhưng còn phải đem ra chia sẻ với những người chung quanh để giúp cùng nhau nhận ra Chúa để phục vụ và tôn thờ, tạ ơn Ngài
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
10 Tháng Tư
Tấm Gương

Tại một ngôi làng nhỏ ở ven biển Ái Nhĩ Lan, có một cặp vợ chồng ngư phủ nghèo, nghèo đến độ trong nhà không có được một cái gương soi mặt.
Trong làng chỉ vỏn vẹn có một cái quán nhỏ cung cấp lương thức và những gì cần thiết cho việc đánh cá. Một ngày nọ, người chủquán ngạc nhiên vô cùng khi bắt gặp người ngư phủ già cầm lấy một vật gì đó trong tay, vừa xoay xung quanh, vừa thổn thức. Rồi từ đó, người chủ quán nhận thấy người đánh cá trở lại quán của mình thường xuyên hơn và cũng lập lại ngần ấy động tác. Ráng theo rình rập để lắng nghe những gì người ngư phủ già than thở, người chủ quán mới thấy ông già đưa cái gương soi mặt và thều thào: "Ba ơi, ba ơi".
Thì ra, cả đời người ngư phủ già chưa bao giờ nhìn thấy mặt mình trong gương. nhìn thấy mặt mình trong gương lần đầu tiên, ông ta tưởng đó là cha của mình.
Người chủ quán quá cảm động, đã tặng cho ông già tấm gương. lão hăm hở mang đi, và từ đó, cứ mỗi lần rảnh rỗi, lão đưa tấm gương ra, nhìn vào và nói chuyện với cha mình.
Tất cả chúng ta đều sống cho một gương mặt. Và gương mặt duy nhất mà chúng ta không bao giờ thấy đó là gương mặt của chính chúng ta. Chúng ta có thể hiểu biết tất cả, nhìn thấy tất cả trừ gương mặt của chúng ta. Và ngay cả trong một tấm gương, chúng ta chỉ nhìn thấy mình theo một hình ảnh đảo lộn. Chúng ta chỉ có thể biết mình, chúng ta chỉ có thể khám phá được chính mình nhờ những người khác vànhờ chính hình ảnh mà họ có thể cho chúng ta thấy.
Vậy đâu là tấm gương đích thực để chúng ta có thể biết mình hoặc biết mình phải như thế nào?
Chúng ta đừng vội vã cười hai vợ chồng ngư phủ trong câu chuyện trên đây... Kể từ khi Ngôi Hai nhập thể làm người, có lẽ họ là người có lý, bởi vì họ biết nhìn thấy trong gương một cái gì khác hơn chính mình. Nói như Thánh Phaolô: "Phần chúng ta, chúng ta không che mặt, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa, như một tấm gương, vì chúng ta được thấy mình biến đổi nên giống hình ảnh ấy, mỗi lúc một rực rỡ hơn, bởi vì quyền phép Thánh Linh của Chúa".
Mỗi người Kitô phải là tấm gương phản chiếu chính hình ảnh của Ðức Kitô. Cuộc sống của họ phải là một phản ảnh của cuộc sống Ðức Kitô.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Ngày 10
THỨ BA TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH

Vương quốc phát triển

Nếu Đức Giêsu chọn đến với chúng ta trong sự mỏng manh của anh em chúng ta, được kêu gọi để làm chứng cho Người, chính chúng ta cũng bước theo Người trong sự mong manh của hoàn cảnh hiện tại của chúng ta. Chúng ta thực yếu đuối, Người ban cho chúng ta sự kiên nhẫn và niềm vui, hoa trái chiến thắng Phục sinh của Người. Đời sống phục sinh chính là đời sống hằng ngày được tiếp nối với kinh nghiệm phát triển mà Thiên Chúa Cha ban cho chúng ta qua Chúa Thánh Thần. Từ khi Chúa Cha nâng đỡ và hướng dẫn chúng ta trong mọi sự, cuộc sống chúng ta thuộc về Người qua việc thờ phượng và chứng cứ cho vương quốc của Người.

Giữa chúng ta, trong bóng tối đời sống thường nhật, và sự sung mãn của cuộc sống mà Đẩng Phục sinh đề nghị cho chúng ta qua Giáo hội và trong Giáo hội, phải được đặt vào trong niềm tin được Thánh Thần linh hứng và nâng đỡ. Chính đức tin đem lại cho chúng ta cuộc chiến thắng phục sinh của Đức Giêsu. Đức tin của chúng ta, để thấy cho rõ, đó là đón nhận hổng ân của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu trong Giáo hội ở nơi đây và trong giây phút này. Các bí tích đức tin là những hành động ưu tuyển xác nhận và củng cố niềm tin vào Đấng phục sinh.

Jean-Claude Sagne, o.p.

Thứ Ba 10-4

Chân Phước Giacôbê Oldo

(1364 - 1404)
G
iacôbê, sinh năm 1364, là người gốc Lodi gần Milan. Nhờ buôn bán phát đạt, cả hai vợ chồng Giacôbê đắm mình trong mọi thú vui trần thế. Ngày kia, trong một đám tang của người bạn thân, khi nhìn vào huyệt sâu Giacôbê nhận thức rằng một ngày nào đó mình cũng sẽ chết. Ông tự hỏi linh hồn mình sẽ đi đâu, và sau đó ông quyết tâm thay đổi đời sống. Giacôbê ăn năn sám hối, đi xưng tội và sau đó gia nhập Dòng Ba Phanxicô.
Trong khi đó, bà mẹ ruột ông Giacôbê lại ngăn cản vợ ông thay đổi đời sống theo gương chồng. Nhưng một ngày kia, bà được thấy chính bà và con bà phải ra trước tòa Thiên Chúa. Thị kiến ấy đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nỗi bà thay đổi lối sống cũng như khuyên cô con dâu noi gương chồng. Và cả hai đã gia nhập dòng Ba Phanxicô. Dinh thự của họ trở thành nơi cầu nguyện và nơi luyện tập nhân đức.
Sau khi vợ chết, ông Giacôbê trở thành linh mục và gia tăng việc hãm mình đền tội. Nhiều khi mỗi tuần ông chỉ ăn có một lần, cũng như không ăn thịt và không uống rượu. Sau cùng, vị giám mục phải ra lệnh cho ông phải ăn uống tối thiểu ba lần một tuần.
Dân chúng cảm kích trước lời rao giảng ăn năn sám hối của Cha Giacôbê. Nhiều người từ bỏ lối sống trần tục, và ngay cả gia nhập đời sống tu trì. 
Cha Giacôbê có ơn tiên tri, nhiều lần đã tiên đoán đúng các cuộc chiến xảy ra. Ngay cả cái chết của mình, ngài cũng tiên đoán đúng. Và bảy năm sau khi từ trần, người ta tìm thấy xác ngài còn nguyên vẹn.

Copyright © 2010 by Nguoi Tin Huu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét