Trang

Thứ Ba, 2 tháng 4, 2013

03-04-2013 ; THỨ TƯ TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH


Ngày 03/4/2013
Thứ Tư Tuần I Mùa Phục Sinh Năm C


BÀI ĐỌC I:  Cv 3, 1-10
"Có cái này tôi cho anh, là nhân danh Đức Giêsu, anh hãy đứng dậy mà đi".

Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, vào giờ thứ chín, là giờ cầu nguyện, Phêrô và Gioan lên đền thờ. Lúc bấy giờ có một anh què từ lúc mới sinh, hằng ngày được người ta khiêng đến cửa đền thờ, gọi là Cửa Đẹp, để xin những người vào đền thờ bố thí cho. Khi thấy Phêrô và Gioan tiến vào đền thờ, anh liền xin bố thí. Phêrô và Gioan nhìn anh và nói: "Anh hãy nhìn chúng tôi". Anh ngước mắt chăm chú nhìn hai ngài, mong sẽ được hai ngài cho cái gì. Nhưng Phêrô nói: "Vàng bạc thì tôi không có, nhưng có cái này tôi cho anh, là: nhân danh Đức Giêsu Kitô Nadarét, anh hãy đứng dậy mà đi!" Rồi Phêrô nắm tay mặt anh mà kéo dậy, tức thì mắt cá và bàn chân anh trở nên cứng cát; anh nhảy ngay lên mà đứng và đi được; anh cùng hai ngài tiến vào đền thờ, anh vừa đi vừa nhảy nhót và ngợi khen Thiên Chúa, và dân chúng đều thấy anh đi và ngợi khen Chúa. Họ nhận ra anh chính là kẻ ngồi ăn xin ở Cửa Đẹp đền thờ, nên họ bỡ ngỡ sửng sốt về việc xảy đến cho anh.  Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA:  Tv 104, 1-2. 3-4. 6-7. 8-9

Đáp:  Tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui  (c. 3b).
Hoặc đọc:  Alleluia.

1) Hãy ca tụng Chúa, hãy hoan hô danh Ngài, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy xướng ca, đàn hát mừng Ngài, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. - Đáp.
2) Hãy tự hào vì danh thánh của Ngài, tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. - Đáp.
3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những người được Ngài kén chọn. Chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Ngài bao trùm khắp cả địa cầu. - Đáp.
4) Tới muôn đời Ngài vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Ngài đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Ngài đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Ngài đã thề với Isaac. - Đáp.

ALLELUIA:  Tv 117, 24

Alleluia, alleluia! - Đây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Alleluia.

PHÚC ÂM:  Lc 24, 13-35
"Hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Đang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi: "Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?" Một người tên là Clêophas trả lời: "Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay". Chúa hỏi: "Việc gì thế?" Các ông thưa: "Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp".
Bấy giờ Người bảo họ: "Ôi kẻ khờ dại, chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?" Đoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn". Người liền vào với các ông.
Đang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Đoạn Người biến mất. Họ bảo nhau: "Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?" Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Các vị đó bảo hai ông: "Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon". Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.
Đó là lời Chúa.


SUY NIỆM : Chúa Ðã Sống Lại

 Anh chị em thân mến!
Trên đường về làng Emmau có hai kẻ song hành. Họ âm thầm bước đi bên nhau, mỗi người một suy nghĩ nhưng có cùng một mẫu số chung là tuyệt vọng. Và tuyệt vọng cũng là điều dễ hiểu vì Thầy họ, một người đầy uy quyền mà phải đầu hàng trước hội đường Do Thái, phải gục ngã trước uy quyền của thần chết.
Bởi thế, dù bước đi bên nhau mà tưởng chừng như độc hành. Cùng trên đoạn đường đi ấy, một người thứ ba xuất hiện đi cùng và đối thoại trao đổi cách thân tình. Vì thế, lòng họ ấm áp lại và rồi tâm hồn họ đã hồi sinh thực sự khi Ngài bẻ bánh trao cho họ. "Trao bánh" là ban một cử chỉ thông hiệp thân mật và là mối dây thông cảm thân tình giữa Thầy và Trò.
Thế giới hôm nay cũng không thiếu những tâm hồn cô độc tuyệt vọng. Tuyệt vọng vì mất niềm tin, vì không thấy ý nghĩa cuộc đời. Tuyệt vọng vì chiến tranh bạo lực, vì những cấu xé tranh giành giữa con người cùng chung một dòng máu. Tuyệt vọng vì nghèo đói, bị khinh bỉ, bị đặt ra ngoài lề xã hội.
Giữa những cảnh tuyệt vọng ấy, bổn phận người Kitô hữu là gì nếu không phải là đốt lên ngọn lửa yêu thương để sưởi ấm tâm hồn. Bổn phận này không đòi hỏi phải có những tổ chức rộng lớn, nhưng phương tiện tân kỳ hoặc những khả năng phi thường, nhưng chỉ cần những đối thoại trao đổi đơn sơ nhưng đầy tình Chúa và tình người cũng mang lại những giá trị của nó: "Phải chăng trong lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong khi Ngài đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?"
Một cử chỉ cầm tay và ngồi bên giường bệnh nhân hàng giờ của người nữ y tá chẳng là gì, nhưng nếu không có cử chỉ ấy thì giá trị của cuộc giải phẫu sẽ chẳng lường trước được.

Lạy Chúa, nếu cuộc sống đã làm cho con đau lòng tuyệt vọng thì xin Chúa cho con biết tìm về Lời Chúa và Mình Chúa để lấy lại sức mạnh cho tâm hồn. Vì Lời Chúa sẽ hâm nóng tâm hồn giá lạnh của con; và bàn tiệc Thánh Thể sẽ cho con được hồi sinh. Ðể như hai môn đệ trên đường Emmau, một khi đã được hồi sinh, con sẽ đến với người anh em để nói cho họ về niềm tin vui Phục Sinh, về tình thương của Chúa. Amen.
(Veritas Asia)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần I Bát Nhật Phục Sinh

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa vẫn đồng hành với các môn đệ sau cái chết của Ngài.

Xa cách Chúa là một khủng hỏang và mất mát tất cả cho các môn đệ, vì họ đã đặt trọn vẹn niềm tin và cuộc đời của họ nơi Ngài. Hầu hết đã bỏ Chúa trong Cuộc Thương Khó của Ngài; và giờ đây không còn được nhìn thấy Ngài nữa, họ chán nản, thất vọng. Nhiều người rời Jerusalem để trở về với gia đình, làm lại cuộc đời như hai môn đệ trên đường về Emmaus. Chính Chúa Giêsu đã nhìn thấy trước viễn ảnh này khi Ngài nói với các môn đệ: “Họ sẽ diệt chủ chăn, và đàn chiên sẽ tan tác.”
Các Bài Đọc hôm nay muốn nhấn mạnh: mặc dầu không còn sống trên dương gian, Chúa vẫn đồng hành và hoạt động trong và với các ông. Ngài vẫn có thể chữa lành, dạy dỗ, và làm cho con người thất vọng được sống hy vọng qua các môn đệ của Ngài. Trong Bài Đọc I, Chúa cho Phêrô quyền lực để chữa lành người què từ khi sinh, như Ngài đã từng làm cho dân chúng. Phêrô đã nhân danh Chúa Giêsu Kitô người Nazareth để làm phép lạ này. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu thắp lên niềm hy vọng cho 2 môn đệ trên đường Emmaus khi Ngài cùng các ông bẻ bánh và học hỏi những biến cố vừa xảy ra dưới lăng kính của Kinh Thánh.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Ông Phêrô chữa lành người què từ khi lọt lòng mẹ.

Một hôm, ông Phêrô và ông Gioan lên Đền Thờ, vào buổi cầu nguyện giờ thứ chín. Các ông vẫn giữ thói quen lên Đền Thờ cầu nguyện mặc dù Chúa Giêsu không còn nữa và Ngài đã khai mào một kỷ nguyên mới. Điều này chứng tỏ cho chúng ta thấy, có những thói quen tốt lành cần giữ, chứ không phải khi bắt đầu kỷ nguyên mới là đạp đổ tất cả những gì của kỷ nguyên cũ.
(1) Phép lạ chữa lành cần thiết để khơi dậy niềm tin: Thiên Chúa vẫn không ngừng cảm thương với những đau khổ của kiếp người, và Ngài luôn dùng tình thương của con người để làm vơi đi những nỗi bất hạnh của đồng loại. Phép lạ chữa lành của Phêrô hôm nay chứng minh điều này, và cần thiết để cho các tông đồ biết Chúa ban uy quyền và tình thương để các ông tiếp tục thi hành sứ vụ mang con người về cho Thiên Chúa.
(2) Giúp đỡ tha nhân không chỉ bằng vàng bạc: nhưng có thể là làm cho bình phục, hay mở mang trí tuệ bằng sự dạy dỗ, hay làm cho tha nhân có được niềm tin và hy vọng ... Khi anh què nhìn thấy ông Phêrô và ông Gioan sắp vào Đền Thờ, anh liền xin bố thí. Ông Phêrô nói với anh: "Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giêsu Kitô người Nazareth, anh đứng dậy mà đi!" Rồi ông nắm chặt lấy tay mặt anh, kéo anh chỗi dậy. Lập tức bàn chân và xương mắt cá của anh trở nên cứng cáp. Anh đứng phắt dậy, đi lại được.
(3) Phản ứng của con người khi chứng kiến phép lạ: Sau khi được chữa lành, anh què vào Đền Thờ cùng với hai ông, anh vừa đi vừa nhảy nhót và ca tụng Thiên Chúa. Toàn dân thấy anh đi lại và ca tụng Thiên Chúa. Và khi nhận ra anh chính là người vẫn ngồi ăn xin tại Cửa Đẹp Đền Thờ, họ kinh ngạc sững sờ về sự việc mới xảy đến cho anh.

2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu hiện đến với hai môn đệ trên đường đi Emmaus.

Có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Emmaus, cách Jerusalem chừng mười một cây số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. Sự kiện hai ông đi khỏi Jerusalem và tâm sự của hai ông khi trò chuyện với Chúa Giêsu chứng tỏ hai ông đã đánh mất niềm tin và hy vọng vào Đức Kitô.

2.1/ Họ nghe và nhìn thấy Chúa, nhưng không nhận ra Ngài: Đang lúc hai ông trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản nên không nhận ra Người. Chúa đồng hành với họ, để tìm ra những băn khoăn lo lắng của họ, và Ngài giúp họ để nhìn thấy ý nghĩa của những biến cố liên quan đến Ngài.
(1) Nỗi lo âu và thất vọng của hai môn đệ: Người hỏi họ: "Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?" Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu, và thưa: "Chuyện ông Giêsu Nazareth. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Israel. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy." Các ông đã không thể nối kết các sự kiện đã xảy ra nên đã không nhìn ra ý nghĩa của chúng. Trong cuộc đời, chúng ta đã nhiều lần như vậy. Chúng ta để cho những biến cố qua đi mà không nhận ra sự liên hệ của chúng trong cuộc đời chúng ta. Để có thể nhìn thấy ý nghĩa và vai trò của chúng, chúng ta cần năng nhìn lại và dành thời giờ suy tư về những biến cố xảy ra.
(2) Giải thích Kinh Thánh: Bấy giờ Đức Giêsu nói với hai ông rằng: "Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” Rồi bắt đầu từ ông Moses và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh. Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa. Họ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn." Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ.

2.2/ Các môn đệ nhận ra Chúa.
(1) Qua việc cử hành Thánh Lễ: Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. Họ mới bảo nhau: "Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?" Đây là hình ảnh của một Thánh Lễ mà chúng ta tham dự: phần cắt nghĩa Kinh Thánh tương xứng với phần Phụng Vụ Lời Chúa, và phần bẻ bánh tương xứng với phần Phụng Vụ Thánh Thể; cả hai đều cần thiết để chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mỗi người, và có sức mạnh để đương đầu với mọi vấn đề của cuộc sống.
(2) Qua việc hiệp thông huynh đệ và học hỏi: Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Jerusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông: "Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon." Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh. Khi đứng riêng lẻ một mình, chúng ta dễ cảm thấy chán nản, thất vọng; nhưng khi hội họp cùng nhau chia sẻ niềm tin, chúng ta sẽ được thêm khôn ngoan và sức mạnh để nâng đỡ niềm tin của nhau.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúa vẫn đang sống; Ngài vẫn hoạt động giữa chúng ta. Cuộc sống sẽ vô nghĩa, nặng nề, và buồn tẻ nếu chúng ta không có Chúa Giêsu đồng hành; nhưng cuộc sống sẽ vô cùng ý nghĩa nếu chúng ta có sự hiện diện của Ngài trong đời sống. Ngài cung cấp cho chúng ta tất cả khôn ngoan, sức mạnh, ơn thánh để sống cách ý nghĩa trong cuộc đời này.
- Những lúc chán nản, nghi nan, và thất vọng, chúng ta hãy cầu nguyện với Ngài: “Mời Chúa ở lại với chúng con, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.”

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP


SỐNG LỜI CHÚA - Thứ tư (Lc 24, 13-35)
Dẫn
Tin mừng hôm nay tiếp tục trình thuật về việc Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau. Chúa đã dùng Lời Chúa và cử chỉ bẻ bánh trong bữa ăn thân tình để giúp hai ông nhận ra Chúa. Mọi ưu phiền và chán nản tan biến nhường chổ cho niềm vui và hạnh phúc. Hai ông hân hoan trở về Giêrusalem báo tin phục sinh cho các tông đồ.
Xin Chúa cho chúng ta ý thức được tầm quan trọng của Lời Chúa và Thánh Thể mà yêu mến gắn kết với Thánh Thể Chúa cũng như siêng năng tìm hiểu, suy niệm và sống theo Lời Chúa hướng dẫn.

Chia sẻ
Truyện kể
Cô con gái hay than thở với cha sao bất hạnh này cứ vừa đi qua thì bất hạnh khác đã vội ập đến với mình, và cô không biết phải sống thế nào. Có những lúc quá mệt mỏi vì vật lộn với cuộc sống, cô đã muốn chối bỏ cuộc đời đầy trắc trở này.
Cha cô vốn là một đầu bếp. Một lần, nghe con gái than thở, ông dẫn cô xuống bếp. Ông bắc ba nồi nước lên lò và để lửa thật to. Khi ba nồi nước sôi, ông lần lượt cho cà rốt, trứng và hạt cà phê vào từng nồi riêng ra và đun lại để chúng tiếp tục sôi, không nói một lời.
Người con gái sốt ruột không biết cha cô đang định làm gì. Lòng cô đầy phiền muộn mà ông lại thản nhiên nấu. Nửa giờ sau người cha tắt bếp, lần lượt múc cà rốt, trứng và cà phê vào từng tô khác nhau.
Ông bảo con gái dùng thử cà rốt. "Mềm lắm cha ạ", cô gái đáp. Sau đó, ông lại bảo cô bóc trứng và nhấp thử cà phê. Cô gái cau mày vì cà phê đậm và đắng.
- Điều này nghĩa là gì vậy cha - cô gái hỏi.
- Ba loại thức uống này đều gặp phải một nghịch cảnh như nhau, đó là nước sôi 100 độ. Tuy nhiên mỗi thứ lại phản ứng thật khác.
Cà rốt khi chưa chế biến thì cứng và trông rắn chắc, nhưng sau khi luộc sôi, chúng trở nên rất mềm.
Còn trứng lúc chưa luộc rất dễ vỡ, chỉ có một lớp vỏ mỏng bên ngoài bảo vệ chất lỏng bên trong. Sau khi qua nước sôi, chất lỏng bên trong trở nên đặc và chắc hơn.
Hạt cà phê thì thật kỳ lạ. Sau khi sôi, nước của chúng trở nên rất đậm đà.
Người cha quay sang hỏi cô gái: Còn con? Con sẽ phản ứng như loại nào khi gặp phải nghịch cảnh.
Con sẽ như cà rốt, bề ngoài tưởng rất cứng cáp nhưng chỉ với một chút đau đớn, bất hạnh đã trở nên yếu đuối chẳng còn chút nghị lực?
Con sẽ là quả trứng, khởi đầu với trái tim mỏng manh và tinh thần dễ đổi thay. Nhưng sau một lần tan vỡ, ly hôn hay mất việc sẽ chín chắn và cứng cáp hơn.
Hay con sẽ giống hạt cà phê? Loại hạt này không thể có hương vị thơm ngon nhất nếu không sôi ở 100 độ. Khi nước nóng nhất thì cà phê mới ngon.
Cuộc đời này cũng vậy con ạ. Khi sự việc tưởng như tồi tệ nhất thì chính lúc ấy lại giúp con mạnh mẽ hơn cả. Con sẽ đối mặt với những thử thách của cuộc đời như thế nào? Cà rốt, trứng hay hạt cà phê?
Để thay đổi cái nhìn bi quan, chán nản của cô con gái mình, người cha đã dùng hình ảnh rất đổi quen thuộc mà dạy cho con mình bài học vượt qua.
Cũng thế, để thay đổi tâm trạng buồn phiền, chán nản, thất vọng của hai môn đệ trên đường Em-mau, Chúa Giêsu phục sinh cũng dùng những hình ảnh xem ra rất đổi bình thuờng với chúng ta.
Bằng cách xuất hiện như một người khách bộ hành để cùng chia sẻ những ưu tư, những quan tâm mà các ông đang gặp phải. Cũng như gợi lại cho hai ông nhớ lại những Lời Chúa đã tiên báo và giải thích như xưa Ngài đã từng làm. Nhờ thế lòng các ông cảm thấy bừng cháy lên bởi Lời Chúa.
Bằng việc ở lại và ngồi vào bàn dùng bữa với các ông như khi còn sống. nhất là qua cử chỉ “ cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ”.
Đúng như cử chỉ Chúa làm khi lập bí tích Thánh Thể. Lúc đó mắt họ mở ra và nhận ra Chúa.
Nhờ sống Lời Chúa và Bí Tích Thánh Thể, ta sẽ nhận ra Chúa phục sinh hiện diện nơi những người anh em mà chúng ta gặp gỡ hàng ngày, như hai môn đệ Em-mau xưa.
Nhờ Lời Chúa và Bí Tích Thánh Thể, chúng ta sẽ có cái nhìn lạc quan trước những biến cố dưới con mắt người đời bị coi là xui xẻo, mất mác, đau thương, bất hạnh…, bởi chúng ta nhận ra Chúa phục sinh hiện diện qua các biến cố ấy.
Xin cho chúng ta biết gắng bó với Lời Chúa và kết hiệp mật thiết với Bí Tích Thánh Thể. Nhờ đó chúng ta đủ sức mạnh vượt qua mọi thử thách trong cuộc đời.

03/04/13 THỨ TƯ ĐẦU THÁNG TUẦN BÁT NHẬT PS
Lc 24,13-35

XIN CHÚA Ở LẠI VỚI CHÚNG CON
Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người. (Lc 24,30-21)
Suy niệm: Ba năm theo Đức Giêsu, hai môn đệ làng Emmau vẫn tưởng Thầy sẽ là một Đấng Mêsia làm cách mạng giải phóng Ítraen và họ sẽ có một vị thế vững chắc trên con đường công danh sự nghiệp. Đó là suy nghĩ rất đời thường của các môn đệ. Thế nhưng giờ đây, bước chân họ nặng trĩu trở về quê trong tâm trạng chán chường thất vọng. Thầy Giêsu của họ đã bị bắt, và bị giết chết. Không còn một chút hy vọng, họ quyết định trở về với nếp sống ngày nào, khép lại sau lưng giấc mộng vàng tan vỡ. Nhưng may mắn cho họ, Chúa phục sinh hiện ra đồng hành với họ, họ cảm thấy ấm lòng khi Người giải thích Kinh Thánh. Chỉ khi “người khách lạ” được mời đồng bàn ăn, cầm lấy Bánh bẻ ra trao cho, hai ông mới nhận ra vị khách đó chính là Thầy Giêsu sống lại.
Mời Bạn: Nhiều khi cuộc sống đức tin của chúng ta trong đời thường rơi vào tình trạng bế tắc, thất vọng. Chớ gì chúng ta cũng làm như hai môn đệ Emmau tha thiết mời Chúa đến và ở lại với mình: “Lạy Chúa xin ở lại với chúng con vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn” để niềm tin của chúng ta được củng cố. Chớ gì chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa để lòng chúng ta được sưởi ấm. Và nhất là trong thánh lễ, chúng ta nhận ra Ngài nơi bí tích Thánh Thể như hai môn đệ nhận ra Ngài khi Ngài bẻ bánh.
Sống Lời Chúa: Tôi sắp xếp để tham dự thánh lễ ngày thường khi có thể; riêng đọc và suy niệm Lời Chúa là việc tôi quyết tâm thực hiện mỗi ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Ktiô Phục Sinh, xin ở lại với chúng con và đỡ nâng đức tin yếu kém của chúng con.

MỜI ÔNG Ở LẠI VỚI CHÚNG TÔI
Ðấng Phục Sinh vẫn đến với ta hôm nay qua một người bạn hay một người lạ ta gặp tình cờ. Ngài vẫn đến với ta qua từng thánh lễ. Ngài đích thân giảng Tin Mừng và bẻ bánh trao cho ta

Suy nim:
Dưới dáng dấp một người khách lạ, Chúa Giêsu phục sinh đến với hai môn đệ Emmau.
Ngài đến đúng lúc, đúng lúc họ đang bỏ cuộc, quay quắt và ray rứt vì chuyện đã qua.
Ngài đi cùng với họ, đi gần bên họ, khiêm tốn trở thành một người bạn đồng hành.Ngài gợi chuyện, hay đúng hơn, Ngài muốn tham dự vào câu chuyện dở dang của họ. Chúa Giêsu không nản lòng trước câu trả lời lạnh nhạt: “Chắc chỉ có ông mới không biết chuyện vừa xảy ra...” Ngài không cắt đứt cuộc đối thoại: “Chuyện gì vậy?” Ngài giả vờ không biết để họ nói cho vơi nỗi buồn. Chúa Giêsu kiên nhẫn lắng nghe lời họ tâm sự. “Trước đây, chúng tôi hy vọng rằng...” Như thế niềm hy vọng này chỉ còn là chuyện quá khứ. Cả niềm tin cũng trở nên chai lì, họ đâu có tin vào lời của các bà ra thăm mộ. Khi lắng nghe, Chúa Giêsu nhận ra cái gút của vấn đề, những câu hỏi mà họ không tìm ra lời giải đáp. Tại sao một người của Chúa, người mà họ tin là Ðức Kitô lại bị đóng đinh như một kẻ bị Thiên Chúa chúc dữ? Chúa Giêsu vén mở ý nghĩa của mầu nhiệm đau khổ.
Ðau khổ là nhịp cầu mà Ðức Kitô phải vượt qua để sang bờ bên kia là vinh quang bất diệt. Ðau khổ không phải là chuyện xui xẻo, rủi ro, nhưng nó có chỗ đứng trong chương trình cứu độ. Lời của Chúa Giêsu là Tin Mừng ngọt ngào, khiến nỗi đau của họ dịu đi, lòng họ như ấm lại. Họ cố nài ép Ngài ở lại dùng bữa chiều. Và chính lúc Ngài cầm bánh bẻ ra trao cho họ thì họ nhận ra vị khách lạ chính là Thầy Giêsu. Kinh nghiệm của hai môn đệ Emmau cũng là của chúng ta. Lúc ta tưởng Ngài vắng mặt, thì Ngài lại đang ở gần bên. Lúc ta nhận ra Ngài ở gần bên, thì Ngài lại biến mất rồi. Nhưng chính lúc Ngài biến mất, ta lại cảm nghiệm sâu hơn sự hiện diện của Ngài. Ngài đến lúc ta không ngờ.
Ngài đi mà ta không giữ lại được. Ngài ở lại với ta cả khi ta không thấy Ngài nữa. Ðấng Phục Sinh vẫn đến với ta hôm nay qua một người bạn hay một người lạ ta gặp tình cờ.
Qua họ, Ngài thổi vào lòng ta niềm hy vọng tin yêu. Ngài vẫn đến với ta qua từng thánh lễ. Ngài đích thân giảng Tin Mừng và bẻ bánh trao cho ta. Sống như Chúa phục sinh là tập đến với tha nhân, tập đồng hành, tập gợi ý, tập lắng nghe, tập soi sáng...
Hôm nay vẫn có nhiều người bạn đang lê gót về Emmau.
Cầu nguyn:

Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần có Chúa hiện diện để con khỏi quên Chúa.
Chúa thấy con dễ bỏ Chúa biết chừng nào. Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con yếu đuối, con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ.Không có Chúa, con đâu còn nồng nhiệt hăng say.
Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn, cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến. Con cần được thêm sức mạnh để khỏi ngừng lại dọc đường.
Xin ở lại với con, lạy Chúa, vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời. Con không dám xin những ơn siêu phàm, chỉ xin ơn được Ngài hiện diện.
Xin ở lại với con vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa và không đòi phần thưởng nào khác ngoài việc được yêu Chúa hơn.
(Cha Piô)
 
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


SUY NIỆM : Trên đường Emmaus
Tin Mừng hôm nay ghi lại cảm nghiệm về Ðấng Phục Sinh của hai người môn đệ đang trên đường đi về lành Emmaus. Cuộc gặp gỡ của họ với Chúa Kitô Phục Sinh đã diễn ra trong lúc họ đang trên đường trở về làng cũ trong tâm trạng chán nản, buồn bã. Chúa Giêsu đã xuất hiện, không phải để mang lại giải đáp cho những câu hỏi được đặt ra, mà trái lại, Người gây nên thắc mắc và dẫn họ đi cho đến cùng sự tìm kiếm của mình.
Cảm nghiệm về Ðấng Phục Sinh của hai người môn đệ đang trên đường đi về làng Emmaus cũng có thể diễn ra trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người tín hữu Kitô. Ðấng Phục Sinh luôn là người đồng hành với chúng ta. Trên mọi nẻo đường của cuộc sống chúng ta, Ngài luôn đi bên cạnh kể chuyện, hỏi han, tra vấn và tham dự vào mọi sinh hoạt của chúng ta. Cuộc sống của mỗi ngày chính là nơi Ngài đến để gặp gỡ con người. Cuộc sống mỗi ngày mới là nơi hẹn hò của Ðấng Phục Sinh với con người, là bởi vì cuộc sống ấy không bao giờ có thể làm cho con người thỏa mãn. Bên kia niềm vui và nỗi khổ, bên kia thành công và thất bại, con người vẫn nhận ra sự vong thân và thân phận nghèo hèn của mình. Nỗi khao khát về tuyệt đối con người không thể thỏa mãn được trong cuộc sống này, hoặc nếu có tìm cách xoa dịu thì lại tuyệt đối hóa những giá trị chóng qua của cuộc sống, để rồi cuối cùng vẫn thấy mình bị vong thân và bất lực. Bất lực trước cảnh khốn cùng, bất lực trước chiến tranh nghèo khổ, bệnh tật, bất lực trước hận thù, ích kỷ và nhất là bất lực trước cái chết. Sống trong thân phận ấy, con người không khỏi nêu lên câu hỏi: "Ðâu là ý nghĩa của tất cả những điều đó? Ðâu là ý nghĩa của thân phận con người?"
Chính lúc ấy, Chúa Kitô Phục Sinh xuất hiện, Ngài đến không phải để mang lại câu giải đáp, mà trước hết, như một con người giữa chúng ta, một con người cũng từng nêu lên những câu hỏi ấy, và cũng đã từng nổi loạn trước những nghiệt ngã của thân phận con người. Ngài đã từng mơ ước về một nhân loại tốt đẹp hơn. Ngài đã nói tất cả và đã làm hết sức có thể để xây dựng nhân loại ấy. Và cuối cùng, với cái chết đau thương trên thập giá, xem ra Ngài cũng đành bó tay bỏ cuộc. Nhưng chính lúc ấy, vì đã vâng phục Chúa Cha một cách tuyệt đối để sống tận kiếp người và sống trọn vẹn cho con người, Ngài đã mang lại ý nghĩa cho cuộc sống.
Ðây chính là kinh nghiệm mà người bạn đồng hành, Chúa Giêsu Phục Sinh, đã chia sẻ cho hai người môn đệ trên đường Emmaus. Tâm hồn họ nóng bừng lên khi Ngài chia sẻ kinh nghiệm của Ngài, và nhất là khi Ngài nói lên ý nghĩa về cái chết của Ngài qua cử chỉ bẻ bánh và trao ban. Mắt của hai người môn đệ đã mở ra để nhận biết Ngài, hiểu được các biến cố vừa xảy ra, và dĩ nhiên thấy được ý nghĩa của chính cuộc sống của họ.
Ngày nay, trong từng biến cố của cuộc sống chúng ta, Chúa Kitô Phục Sinh cũng đang đến và đồng hành với chúng ta trong từng sinh hoạt và gặp gỡ của chúng ta. Ngài có mặt trong từng niềm vui và nỗi khổ của chúng ta. Nếu chúng ta đón nhận Ngài như người bạn đồng hành, chuyện vãn và chia sẻ với chúng ta, đôi mắt đức tin của chúng ta sẽ mở ra, và lúc đó, trong ánh sáng Phục Sinh của Ngài, chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống.
Ước gì sự hiện diện của Ðấng Phục Sinh và hai người môn đệ trên đường Emmaus cảm nhận được lấp đầy tâm hồn chúng ta, để trong mọi cảnh huống của cuộc sống, chúng ta không lẫm lũi bước đi trong đơn độc mà trái lại, hân hoan tiến bước với Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
3 THÁNG TƯ

Qua Cái Chết - Đến Với Sự Sống

Giáo Hội, được qui tụ lại bởi ngôi mộ Đức Giêsu, nhìn tội lỗi dưới một ánh sáng mới khi Giáo Hội dám ca lên rằng : “Ôi tội hồng phúc! Tội đã đem lại cho chúng ta Đấng Cứu Chuộc quá đỗi cao cả!” Chúng ta có thể thực sự nói về những gì diễn ra đêm nay rằng “Đây là điều Chúa đã làm ra; thật kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Tv 118,23).
Chúng ta được Giáo Hội đặc biệt mời gọi đón nhận mạc khải này về quyền năng Thiên Chúa, về quyền năng sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa. Mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Giê-su Kitô luôn luôn hiện diện trong bí tích của Giáo Hội. Quyền năng của cái chết và cuộc Phục Sinh của Người vẫn không ngừng tác động trong linh hồn người ta.
Nhờ tác động của chính quyền năng Thiên Chúa – quyền năng sáng tạo và cứu độ – Giáo Hội được sinh lại nơi cuộc Phục Sinh của Đức Chúa chịu đóng đanh của mình: “Tảng đá mà những người thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá góc tường” (c.22).
Tất cả chúng ta đã được sinh ra từ tảng đá ấy: Tất cả chúng ta đều là những viên đá sống trong tư cách là thành viên của Giáo Hội. Tất cả chúng ta đều được sống nhờ hơi thở trao ban sự sống của Đức Kitô Phục Sinh. “Chúng ta phải coi như mình đã chết đi đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Giê-su Kitô” (Rm 6,11).

- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 03-4
Thứ Tư Trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh.
Cv 3, 1-10; Lc 24,13-35


LỜI SUY NIỆM: “Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất” (Lc24,30-31)

Hai môn đệ trên đường về Ê-mau họ được gặp Chúa bởi họ là hai người cùng nhau đang tìm hiểu về Chúa nên có Chúa hiện diện. Chúa hiện diện để giúp tâm trí của họ nhận ra những sự cần thiết, mà họ đang muốn được hiểu và biết, không những vậy mà Chúa còn cho thấy dấu chỉ gần gủi để nhận ra Ngài. Trong đời sống của chúng ta hôm nay, nếu mỗi người đều sống với đức tin, thì phải tin khi có hai hoặc ba người hợp nhau lại cầu nguyện thì có Chúa hiện diện như lời Chúa đã hứa, đặc biệt với đức tin, thì trong mọi Thánh lễ Chính Chúa đang diện diện và Ngài sẽ đến trong từng tâm hồn nếu biết đón nhận Ngài, Ngài không còn đứng bên ngoài nhưng Ngài ở trong chúng ta, để sống với chúng ta.

Mạnh Phương


Gương các Thánh

Ngày 03-04: Thánh CASIMIRÔ
(1458 - 1483)


Thánh Casimirô sinh tại Krakow ngày 5 tháng 12 năm 1458. Ngài là con út trong số 13 anh em của vua Balan và hoàng hậu Elisabeth nước Áo, con người nổi tiếng nhân đức. Gioan Dugloss thời danh, tổng giám mục Lemberg. Sau này, là thầy dạy của Ngài.
Casimirô nhiệt thành học hỏi và chỉ nghĩ tới việc làm đẹp ý Chúa. Tâm hồn trong trắng của Ngài ảnh hường tới mọi người chung quanh. Các gia nhân Ngài quen với với phong thái tốt đẹp này đến nỗi tại các triều đình ngoại quốc, người ta nhận ra họ bằng sự cao thượng hơn là bằng sắc phục họ mặc.
Casimirô cảm thấy nỗi đau khổ của người nghèo như là của mình và giúp đỡ họ tận tình đến nỗi dân nghèo coi Ngài như một người cha. Người ta trách Ngài đã quá hạ mình đau khổ săn sóc cho những người cùng khổ, Ngài đã đáp rằng : - Có vinh dự nào lớn lao hơn là được phục vụ Chúa Kitô trong các chi thể người ?
Vị hoàng tử trẻ tự khắc phục bằng việc sám hối liên tục. Dưới sắc phục sang trọng, Ngài mặc áo nhặm và ngủ trên đất, dưới chân giường. Ngài chỉ muốn ăn bánh và sống trong nghèo khó giữa những vinh dự đến nỗi người ta có thể nói về Ngài như nói về Đức Giám mục Milanô. Thánh Carolô Borrômêô rằng, Ngài chỉ là con chó tội nghiệp trong nhà chủ mình.
Thời gian tại nhà thờ là phút giây êm ái quí báu nhất của Ngài, Ngài tới nhà thờ mỗi tối khi cửa còn đóng, và gục mặt xuống đất cầu nguyện. Trong thánh lễ, người ta thấy Ngài xuất thần như lúc truyền phép, dường như Ngài thấy Chúa Kitô trong tay linh mục, Ngài đặc biệt tôn sùng Đức Trinh Nữ mà Ngài gọi là "Mẹ nhân ái" và hàng ngày đọc thánh thi Ommi die để kính Mẹ. Hai mươi năm sau khi qua đời, người ta còn tìm thấy bản chép thánh thi trong mộ Ngài. Ngài có óc phán đoán thật thông minh đến nỗi cha Ngài thường hỏi ý kiến Ngài:
Lúc Casimiro được 13 tuổi, dân Hungarie bất mãn với vua Mathias đã gửi đại diện tới Balan để dâng ngai báu cho Ngài. Vị hoàng tử trẻ không ao ước gì điều này, nhưng vì kính trọng cha, nên đã hướng dẫn binh đội đi nâng đỡ ước nguyện này. Khi tới biên thùy Hungaria, Ngài biết rằng Mathias đã tới chiếm được lòng dân và sẵn sàng chiến đấu cho chính nghĩa. Đức Giáo hoàng cũng ủng hộ vị vua bị truất ngôi. Casimiro vui mừng vì bản tin này và gửi đại diện về cho cha xin bãi bỏ sự việc.

(daminhvn.net)


03 Tháng Tư

Giỗ Tổ Hùng Vương

Ngày mùng 10 tháng 3 Âm Lịch là ngày giỗ tổ Hùng Vương...
Theo tục truyền, vua Ðế Minh là cháu ba đời vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Linh (nay thuộc tỉnh Hà Nam) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra một người con gọi là Lộc Tục. Sau, Ðế Minh truyền ngôi cho con trưởng làm vua phương Nam xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
Ranh giới nước Xích Quỷ lúc bấy giờ phía Bắc giáp Ðộng Ðình Hồ (tức Hồ Nam), phía Nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thục, phía Ðông giáp bể Nam Hải.
Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào khoảng năm Nhâm Tuất (Tức là năm 2879 trước Tây Lịch) và lấy con gái Ðộng Ðình Quân là Long Nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, gọi là Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân lấy con gái vua Ðế Lai tên là Âu Cơ đẻ ra một lần 100 con trai. Sau này, Lạc Long Quân chia cho nàng 50 con để dắt lên núi, còn 50 con, ông đưa về hướng biển Nam Hải.
Lạc Long Quân phong cho người con trai trưởng sang làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương, sáng lập ra nước Việt Nam sau này...
"Vật đổi sao rời, phúc tổ vẫn lưu nền cổ tích
Nước nguồn cây cối, đạo người nên nhớ đạo Hùng Vương".
Hai câu thơ khuyết danh này như muốn nhắc nhở chúng ta về công đức của tổ tiên. Ngày 10 tháng 3 Âm Lịch, chúng ta không biết là ngày húy nhật của vua Hùng Vương nào, chỉ biết rằng người xưa đã biết chọn một ngày để con cháu về sau muôn đời có dịp tụ họp nhau lại mà nhớ đến tổ tiên, nhớ đến công đức của người đã sáng lập ra dòng họ, nhất là sáng lập ra quốc gia.
Cách đây vài năm, tổng thống Rigan của Hoa Kỳ đã về thăm Ái Nhĩ Lan. Ông muốn nói lên mối dây liên kết giữa ông, những người da trắng đang sinh sống tại Bắc Mỹ và tổ tiên của họ... Là người, ai cũng thấy cần có một tổ quốc, một quê hương trong đó cả một dòng giống được phát sinh và liên kết với nhau.
Cũng như tất cả những người tha hương, những người Việt Nam đang sống ở hải ngoại lúc nào cũng hướng về quê hương của họ. Quê hương là một cái gì vô cùng cao quý và thiêng liêng mà chỉ khi nào mất đi người ta mới cảm thấy luyến nhớ. Nhưng nói đến quê hương không có nghĩa là gợi lại một mảnh đất, một phong cảnh, một dòng sông... Nói đến quê hương là nói đến những người cùng bởi một ông tổ mà ra, những người cùng nói chung một thứ tiếng, những người có cùng một màu da, hay nói như người Việt Nam chúng ta, những người đồng bào, nghĩa là những người cùng chung một cái bọc mà sinh ra... Ðó là ý nghĩa của huyền thoại 100 cái trứng, trong câu chuyện lập quốc của chúng ta.

Nhưng những người công giáo không chỉ ý thức về tình máu mủ ruột thịt của những người cùng một dân tộc, họ còn có một gia đình rộng rãi hơn: đó là gia đình nhân loại.
Nhà vô thần Voltaire đã nói: nếu Thiên Chúa không có thì chúng ta phải tạo ra Ngài... Vì sao thế? Thưa, để cuộc đời chúng ta có một ý nghĩa, để chúng ta biết chúng ta có chung một người Cha, và tất cả mọi người, dù không đồng một ngôn ngữ, dù không đồng một màu da, tất cả chúng ta đều là anh em với nhau. Và kết luận tất yếu của chân lý đó là: chúng ta phải thương yêu nhau.
Người trong cùng một nước, có cùng một ông tổ phải thương yêu nhau vượt lên trên tất cả mọi khác biệt về địa lý, về tôn giáo, về quan điểm chính trị.
Ðó là tất cả ý nghĩa của ngày giỗ tổ Hùng Vương mà chúng ta cử hành hằng năm. Ngày giỗ tổ ấy cũng còn mời gọi chúng ta đi xa hơn nữa để nhìn nhận mọi người đều là con cái Chúa và đều là anh em với nhau.

(Lẽ Sống)
Thứ Tư 3-4

Thánh Richard ở Chichester

(1197-1253)

T
hánh Richard sinh ở Anh quốc năm 1197. Khi còn nhỏ, ngài và người anh đã phải mồ côi. Anh của ngài làm chủ một số nông trại. Richard đã phải bỏ dở việc học để giúp anh quản trị cơ sở khỏi bị lụn bại. Thấy Richard chăm chỉ làm việc, người anh muốn tặng cho ngài các nông trại ấy, nhưng ngài không nhận. Ngài cũng không muốn lập gia đình vì muốn đi học trước đã.
Richard vào Ðại Học Oxford và với sự chăm chỉ học hành, không lâu ngài đã có được một địa vị quan trọng trong trường. Sau đó, Thánh Edmund, lúc ấy và tổng giám mục của Canterbury, đã trao cho Richard trách nhiệm trông coi giáo phận. Khi Thánh Edmund từ trần, Richard gia nhập dòng Ða Minh ở Pháp. Sau khi được thụ phong linh mục, ngài được tấn phong làm giám mục của Chichester, nước Anh.
Vua Henry III không muốn Richard làm giám mục ở đây. Nhà vua có một người bạn, nhưng lại không đủ tư cách nên vua từ chối không để ÐGM Richard sử dụng vương cung thánh đường. Nhà vua còn đe dọa dân chúng ở Chichester không được tiếp rước Ðức Richard. Cho đến khi đức giáo hoàng dọa ra vạ tuyệt thông nhà vua thì lúc ấy ÐGM Richard mới được yên.
Ðức giám mục Richard rất nhân từ với người dân nhưng ngài kiên quyết đương đầu với các giáo dân xấu mà không biết hối lỗi.
Người ta kể rằng khi Ðức Richard lâm bệnh nặng, ngài đã được Chúa cho biết trước ngày giờ và nơi chết. Ngài từ trần năm 1253, khi năm mươi năm tuổi. Vào năm 1262, Ðức Giáo Hoàng Urbanô IV đã phong thánh cho ngài.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét