Trang

Thứ Tư, 10 tháng 4, 2013

11-04-2013 : THỨ NĂM TUẦN II MÙA PHỤC SINH


Ngày 11/04/2013
Thứ Năm Tuần II Mùa Phục Sinh Năm C


BÀI ĐỌC I: Cv 5, 27-33
"Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần".

Trích sách Tông đồ Công vụ.
Hôm ấy, khi các thủ hạ dẫn các tông đồ đi, họ đem các ngài ra trước công nghị. Vị thượng tế hỏi các ngài rằng: "Ta đã ra lệnh cấm các ngươi nhân danh ấy mà giảng dạy. Thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý các ngươi khắp cả Giêrusalem; các ngươi còn muốn làm cho máu người đó lại đổ trên chúng tôi ư?" Phêrô và các tông đồ trả lời rằng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta. Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã cho Đức Giêsu sống lại, Đấng mà các ông đã giết khi treo Ngài trên thập giá. Thiên Chúa đã dùng quyền năng tôn Ngài làm thủ lãnh và làm Đấng Cứu Độ, để ban cho Israel được ăn năn sám hối và được ơn tha tội. Chúng tôi là nhân chứng các lời đó cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho mọi kẻ vâng lời Người?" Khi nghe những lời đó, họ liền phẫn nộ và tìm mưu giết các ngài. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 33, 2 và 9. 17-18. 19-20

Đáp: Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe (c. 7a).
Hoặc đọc: Alleluia.

1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc đức ai tìm nương tựa ở nơi Người. - Đáp.
2) Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Ngài cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo. - Đáp.
3) Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương giập nát. Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân, nhưng Chúa luôn luôn giải thoát. - Đáp.

ALLELUIA: Ga 16, 7 và 13

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy sẽ sai Thần Chân Lý đến, người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật". - Alleluia.

PHÚC ÂM: Ga 3, 31-36
"Đức Chúa Cha thương mến Con Ngài, nên ban toàn quyền trong tay Con Ngài".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, ông Gioan nói để làm chứng về Chúa Giêsu rằng: "Đấng từ trên cao mà đến thì vượt trên hết mọi người. Kẻ bởi đất mà ra, thì thuộc về đất và nói những sự thuộc về đất. Đấng từ trời mà đến thì vượt trên hết mọi người. Điều gì Người thấy và nghe, thì Người làm chứng về điều đó. Nhưng lời chứng của Người không ai chấp nhận. Ai chấp nhận lời chứng của Người, thì quả quyết Thiên Chúa là Đấng chân thật. Đấng được Thiên Chúa sai đến thì nói lời của Thiên Chúa, vì được Chúa ban cho thần linh khôn lường. Cha yêu mến Con, nên đã ban mọi sự trong tay Con. Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời. Còn ai không tin vào Con, thì sẽ không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy". Đó là lời Chúa.

SUY NIỆM : Tin Vào Ngài Thì Sẽ Ðược Sống
Một chú sói xám đang quan sát xem có cách nào để lọt vào vườn nho hầu làm giảm bớt cơn đói khát đang làm khổ mình. Tình cờ sói xám lọt được vào một vườn nho có đầy quả chín mọng, thật là một điều may mắn. Những chùm nho mơn mởn đang đong đưa trước gió, nhưng chúng lại quá cao, khiến sói ta chẳng có cách gì với tới. Sói xám đành nằm dưới gốc nho há miệng chờ đợi xem trái nho nào chín rụng chăng. Vừa đợi sói xám vừa thầm ước: "Ôi, những trái nho ngon ngọt làm sao! Lúc này ước chi có được một trái nho rơi vào miệng ta, chắc hẳn là tuyệt vời".
Chờ mãi, chờ mãi mà chẳng có một chút may mắn nào. Soi xám nổi giận nguyền rủa: "Những chùm nho khốn kiếp, chùm nào rớt xuống ta sẽ nghiền nát chẳng còn chút xót thương". Tuy nhiên, dù cho sói xám có mơ ước hay nguyền rủa đến đâu đi nữa, thì những chùm nho vẫn điềm nhiên vui đùa trước gió. Dưới đất chú sói rũ rượi nằm chờ và trên không những chùm nho vẫn tiếp tục đong đưa trước gió.

Anh chị em thân mến!

Nếu không có mầu nhiệm cứu chuộc thì mãi mãi đất trời xa cách và nhân loại vẫn luôn khao khát đợi chờ. Thiên Chúa đã đoái thương trông đến những sự cùng cực khổ sở của nhân loại, Ngài đã bắc một nhịp cầu nối liền trời với đất để cho con người hạ giới được no thỏa niềm vui thiên quốc.
Tiếp nối bài Tin Mừng hôm qua, Tin Mừng hôm nay cũng trình bày cho con người về tình yêu thương ấy. Thật vậy, để tìm đến cội nguồn sự thật của một công việc hay một biến cố, luôn luôn cần đến những người đã nghe và đã thấy, vì họ là những người đã được chúng kiến.
Tòa án cần nhiều chứng để việc xét xử được trung thực. Khế ước cần nhiều người chứng để công việc được minh bạch và bảo đảm. Lời nói của người làm chứng càng giá trị khi họ là những người theo dõi sự việc suốt từ đầu đến cuối, và chính bản thân họ là những người trực tiếp đến sự việc chứ không qua trung gian một ai khác.
Trong hành trình tìm kiếm nguồn hạnh phúc đích thực trên trời, nhân loại may mắn gặp được người chứng thực. Người này không phải chỉ chứng thực mà thôi, nhưng đã sống từ đầu, và người ấy chính Chúa Giêsu.
Khi nói về Thiên Chúa Cha và những sự trên trời, thì chẳng ai bằng Chúa Giêsu. Vì những điều Ngài nói, Ngài đã không lấy từ một nguồn tài liệu nào cũng chẳng do ai kể lại, nhưng là những gì mà Ngài đã sống, vì ngoài Ngài ra chưa một ai được lên trời.
Lời nói của Chúa Giêsu không những bảo đảm về sự thật Nước Trời mà còn ban Nước Trời cho những ai đón nhận và tin vào lời Ngài, vì Ngài là Thiên Chúa: "Cha yêu mến Con nên đã ban mọi sự trong tay Ngài". Bởi thế, lời của Chúa Giêsu không đơn thuần chỉ trình bày chân lý, nhưng còn đòi hỏi phải tin và sống theo. Nếu không mãi mãi mang lấy hình phạt.
Một dịp may đã đến với Nicôđêmô, ông đã gặp được chính Ðấng từ trời xuống để nói về trời. Tuy nhiên, ông chưa được gọi là môn đệ Ðức Kitô, vì ông chưa tin.
Hôm nay, Kitô hữu cũng có một may mắn như Nicôđêmô là được gặp gỡ và hiểu biết về Ðức Kitô. Hệ luận của sự gặp gỡ này là: nếu không tin và không sống điều đã lãnh nhận thì sẽ không được sống đời và phải nằm dưới cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.

Nguyện xin Ðấng có Lời ban sự sống đời đời ban thêm sức mạnh cho mỗi người trong chúng ta để chúng ta luôn trung thành với những điều Ngài đã chỉ dạy. Dù rằng thế giới hôm nay đang có nhiều khuynh hướng muốn đi ngược lại với lời dạy của Ngài, muốn xóa bỏ gương mặt của Ngài hoặc muốn đuổi Ngài ra khỏi tâm hồn của con người.
(Veritas Asia)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần II Phục Sinh

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người cần khiêm nhường nhận ra và chấp nhận uy quyền của Thiên Chúa.

Vũ trụ quá bao la trong khi khả năng hiểu biết của con người quá hạn hẹp. Nếu con người chưa biết hết được những gì xảy ra dưới đất, làm sao có thể thông suốt những sự trên trời? Vì thế, con người cần tránh thái độ “cóc ngồi đáy giếng.” Vì cóc chỉ thấy được một bầu trời hạn hẹp bằng miệng giếng, cóc cho mình là nhất. Cóc có biết đâu bên ngoài miệng giếng là cả một vũ trụ mênh mông!

Vũ trụ tiềm tàng bao sức mạnh kinh hồn trong khi con người lại quá yếu đuối. Nếu con người chưa có sức mạnh đủ để đương đầu với những sức mạnh của thiên nhiên (gió bão, núi lửa, động đất), làm sao con người có thể chống lại uy quyền của Thiên Chúa? Nếu con người vẫn ngoan cố chống chọi uy quyền của Thiên Chúa, khác nào như con người lấy trứng chọi vào đá!

Các Bài Đọc hôm nay nhắc nhở cho con người biết khả năng hạn hẹp của mình. Trong Bài Đọc I, khi Thượng Hội Đồng cấm các tông đồ không được rao giảng đạo lý Đức Kitô; các tông đồ cương quyết bảo vệ lập trường của mình: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.” Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhắc nhở cho mọi người về nguồn gốc của Ngài: “Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người.”

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.

Trong Cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Đức Kitô, tất cả các Tông-đồ và Thượng Hội Đồng đều chối từ và chống lại Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa không kết tội con người, nhưng Ngài muốn con người phải chịu trách nhiệm về những việc mình làm: Nếu họ đã làm sai, hãy có can đảm chấp nhận và tìm cách sửa sai; chứ không thể cứ nhắm mắt và đổ lỗi cho người khác.

1.1/ Các Tông-đồ trình bày niềm tin của mình: Mặc dù các ông đã chối từ và bỏ chạy trong Cuộc Thương Khó, nhưng khi được Chúa Giêsu hiện ra, các ông đã nhận ra tội của mình; và sau khi được củng cố bởi quyền lực của Thánh Thần, các ông mạnh dạn ra đi và làm chứng cho Đức Kitô trước mặt mọi người: Trước tiên, các Tông-đồ tố cáo Thượng Hội Đồng tội giết Đấng Thiên Sai: “Đức Giêsu đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi.” Sau đó, các ông vạch ra cho mọi người nhìn thấy uy quyền Thiên Chúa: “Nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Israel ơn sám hối và ơn tha tội.”

Khi bị Thượng Hội Đồng đe dọa và ngăn cấm không cho rao giảng Danh Chúa Giêsu, ông Phêrô và các Tông-đồ khác đáp lại rằng: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm.”

1.2/ Phản ứng ngoan cố của Thượng Hội Đồng: Đã sai lầm khi luận tội và xin đóng đinh Chúa Giêsu, họ vẫn không chịu nhận tội khi các Tông-đồ làm chứng cho Ngài. Vị Thượng Tế hỏi các Tông-đồ: "Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà các ông đã làm cho Jerusalem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi!" Khi các Tông-đồ trả lời phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm, họ giận điên lên và muốn giết các ông.

Một câu trả lời hết sứ hợp lý, nhất là cho những con người mang tiếng bảo vệ Lề Luật của Thiên Chúa; thế mà họ không nhận ra sự thật, lại còn để cho sự kiêu ngạo và ghen tị thống trị con người họ, và dùng sức mạnh để áp đảo các Tông-đồ. Họ nhân danh bảo vệ Lề Luật; nhưng thực ra họ coi thường Lề Luật; chẳng hạn: (1) Họ kết án Chúa Giêsu mà không điều tra về Ngài như Lề Luật đòi hỏi; (2) Họ đòi đóng đinh Chúa vào thập giá ngay cả khi một người ngoại, Philatô, đã tuyên bố Ngài vô tội; và (3) Họ đe dọa, đánh đòn, và muốn giết cả hai nhân chứng, Phêrô và Gioan, khi các ông muốn làm chứng cho Chúa Giêsu. Nói tóm, họ không còn biết gì đến Lề Luật như chức vụ họ đòi phải thi hành; nhưng họ để cho tính nóng giận và sự ghen tức làm chủ, để rồi chỉ biết dùng bạo lực để đàn áp người vô tội.

2/ Phúc Âm: Ai tin vào Người Con thì được sự sống đời đời.

2.1/ Chúa Giêsu mặc khải cho con người những gì từ Thiên Chúa: Chân lý căn bản con người cần khiêm nhường nhìn nhận: “Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người.” Tiên tri Isaiah cũng từng tuyên sấm những gì Thiên Chúa nói: “Trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường lối của Ta cũng cao hơn các ngươi bấy nhiêu (Isa 55:9).

Vì có sự khác biệt lớn lao như thế, nên con người không thể hiểu những gì từ Thiên Chúa, nếu những điều đó không được mặc khải và soi sáng cho con người. Chúa Giêsu đến để mặc khải cho con người những mầu nhiệm của Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần soi sáng cho con người để họ có thể hiểu những chân lý này. Chúa Giêsu nói: “Người làm chứng về những gì Người đã thấy đã nghe, nhưng chẳng ai nhận lời chứng của Người. Ai nhận lời chứng của Người, thì xác nhận Thiên Chúa là Đấng chân thật.”

Sở dĩ con người không tin vào Đức Kitô là vì từ trước tới giờ họ chỉ tin có Một Thiên Chúa. Tuy họ biết, theo lời các ngôn sứ, Thiên Chúa sẽ gởi Đấng Thiên Sai đến để cứu chuộc dân; nhưng họ tin Ngài là Đấng sẽ dùng uy quyền mà cứu chuộc và thống trị dân, chứ không phải bằng khiêm nhường chịu đau khổ như Đức Kitô. Chúa Giêsu đến cắt nghĩa cho họ biết về sự liên hệ giữa Thiên Chúa và Ngài, Người được Thiên Chúa sai đến, nhưng họ từ chối không tin vào lời chứng của Người. Chúa muốn nhắc nhở cho họ biết nếu họ chưa thông suốt việc dưới đất, làm sao có thể thông suốt việc trên trời.

2.2/ Hậu quả của việc nhìn nhận hay chối từ Con Thiên Chúa: Nếu một người nhìn nhận Đức Kitô là Đấng được Thiên Chúa sai đi, họ sẽ được hưởng sự sống đời đời, được nhận lãnh Thánh Thần, và được hưởng muôn hồng ân mà Thiên Chúa Cha đã trao vào tay Người Con. Nếu họ từ chối không tin Đức Kitô là Đấng được Thiên Chúa sai đến, họ sẽ không được hưởng sự sống đời đời, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta cần học hỏi để nhận biết sự khôn ngoan và uy quyền của Thiên Chúa. Chúng ta cũng phải nhìn nhận khả năng giới hạn và sự yếu đuối của mình. Có như vậy, chúng ta mới biết cách sống làm sao cho đúng và đạt được kết quả tốt đẹp cho cuộc đời.

- Ai tuyên bố phải hiểu mới tin là người kiêu ngạo và rồ dại. Kiêu ngạo vì cho mình có thể thông suốt mọi sự trên trời cũng như dưới đất. Rồ dại vì không biết giới hạn của mình và bỏ lỡ cơ hội để học hỏi những điều mới lạ.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP


 A. Hạt giống...
Phần cuối bài giáo lý về việc sinh lại : Chúa Giêsu trao trách nhiệm cho chính con người : mỗi người phải suy nghĩ và lựa chọn, rồi lãnh trách nhiệm về sự lựa chọn ấy : "Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời, còn ai không tin vào Con thì không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy".
 B.... nẩy mầm.
1. Từ đầu tuần đến hôm nay, Chúa Giêsu đã hết lời giải thích về sự cần thiết phải sinh lại, sinh lại như thế nào, ích lợi của việc sinh lại và tai hại của việc không chịu sinh lại... Hôm nay, tôi phải quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình : Tôi có sẵn sàng sinh lại thành con người mới hay không ?
2. Trở lại với ý tưởng của Maurice Zundel : "Chúng ta không sinh ra đã thành người (...) Con người có bổn phận phải thành người (...) Sách Tin Mừng nói "phải sinh lại". Có một lần sinh thứ hai, đó là sinh con người, sinh phẩm cách, sinh tính bất khả xâm phạm, sinh sự trường tồn bất tử, lần sinh mà không có nó không thể thành người" (Trích "Sự hiện diện khiêm hạ"). Nếu tôi không can đảm sinh lại thì mãi mãi tôi sẽ không thành người. Đó là điều Tin Mừng Ga gọi là "hư mất", là "không thấy được sự sống".
3. Bà già 104 tuổi sống trong một căn hộ nhỏ tại Croydon. Khi bà được 100 tuổi, một nhà truyền giáo đến thăm và giải thích cho bà nghe đoạn Tin Mừng Gioan 3,16 : "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nổi đã ban Con Một Ngài để ai tin người Con đó, thì khỏi chết và được sống đời đời". Bà đáp : "Thật là tuyệt vời. Thiên Chúa thật tốt lành khi Ngài tha thứ cho tôi đã bỏ cả trăm năm không học biết Ngài." Cuộc trở lại của bà được tạp chí London City Mission thuật lại và kết thúc bằng câu : "Sinh 1825. Sinh lại 1925." (Góp nhặt).
4. "Ai tin vào Người Con thì được sống đời đời"
Nếu có người hỏi tôi : Tại sao bạn tin Chúa ?
Hồi nhỏ tôi đã trả lời : Vì ba mẹ bảo tôi phải tin ; nếu tin Chúa, tôi sẽ được vào Thiên Đàng đời sau.
Còn bây giờ, tôi đáp : Tôi tin và tôi biết Chúa yêu tôi. Tôi tin, để được Thiên Đàng ngay ở đời này.
Lạy Chúa, ước gì trong mọi lúc, con luôn biết đáp lại : "Con tin vì con yêu Chúa." (Epphata)
5. (những mầm khác)
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI/gp.Cần Thơ.

11/04/13 THỨ NĂM TUẦN 2 PS
Th. Tanítlao, giám mục, tử đạo
Ga 3,31-36

NÓI CHUYỆN “TRÊN TRỜI”
“Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người ; kẻ bởi đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất.” (Ga 3,31)
Suy niệm: “Kẻ bởi đất mà ra thì nói những chuyện dưới đất,” và giả như họ có nói “những chuyện trên trời” thì cũng nói theo kiểu “những chuyện dưới đất.” Con người dù có ai thông thái khôn ngoan đến mấy đi nữa, khi nói chuyện “trên trời,” tức là nói về Thiên Chúa, thì cũng phải dùng ngôn ngữ loài người và những quan niệm của con người để phóng chiếu lên tới vô cùng, và giả định như thế là Thiên Chúa. Do đó, con người vẫn thường vô tình tạo ra những thần linh theo hình ảnh, sở thích của mình để rồi tôn thờ chính “những thần linh do tay mình làm ra”. Chỉ có Đấng từ trời xuống mới đủ trình độ, đủ uy tín để nói về những sự trên trời. Vì thế, nếu chúng ta muốn biết điều chi về Thiên Chúa, chúng ta chỉ có thể tìm biết từ chính Người Con Một của Người, Đấng từ trời mà xuống. Và nếu chúng ta muốn đến với Thiên Chúa, chúng ta cũng chỉ có thể đến qua Đức Giê-su Ki-tô, Đấng duy nhất đã chết, sống lại và lên trời. Quả thật, Đức Giêsu Kitô là “Đấng Cứu Độ Duy Nhất” của nhân loại.
Mời Bạn: Khi mọi lời nói của chúng ta đều bất cập trước mầu nhiệm vô biên của Thiên Chúa thì bạn vẫn còn một phương thế để đạt tới Thiên Chúa đó là dựa vào chính Lời Chúa và nhờ Thánh Thần hướng dẫn, để hiểu biết và đón nhận thánh ý Ngài.
Sống Lời Chúa: trung thành dành 5 phút mỗi ngày để đọc và suy gẫm Lời Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, đổ tràn đầy Thần Khí Đức Kitô trên chúng con, để chúng con luôn nhận ra rằng Chúa vẫn luôn sống và đồng hành với chúng con.

ĐẤNG TỪ TRÊN CAO MÀ ĐẾN
Tôi chẳng nói điều gì tự mình, tôi chỉ nói điều tôi đã nghe Cha tôi nói. Chính khi tôi tùy thuộc trọn vẹn vào Cha mà tôi được tự do.

Suy nim:
Giêsu ơi! Ngài từ đâu đến? Tôi là Đấng từ trên cao mà đến. Tôi là Đấng từ trời mà đến (c.31). Tôi sinh ra trên đất, sống trên đất, chết trên đất. Nhưng tôi không thuộc về đất, đất không phải là gốc của tôi. Gốc của tôi ở nơi cung lòng Thiên Chúa (Ga 1, 18). Dù cư ngụ trên mặt đất, tôi vẫn luôn hướng về Cha tôi trên trời. Khi làm xong sứ mạng, tôi sẽ trở về với gốc của tôi.
Giêsu ơi! Ngài làm gì vậy? Tôi làm chứng về điều tôi đã thấy
và đã nghe (c. 32). Tôi làm chứng về Thiên Chúa là Cha của tôi. Tôi đã thấy việc Người làm và đã nghe tiếng Người nói. Nhiều vĩ nhân diễn tả rất hay, rất đúng về Thiên Chúa  và cũng có kinh nghiệm rất sâu về Người. Nhưng họ không phải là Con như tôi. Họ chẳng thể nào gần mầu nhiệm Thiên Chúa như tôi. Chẳng ai biết Cha bằng Con, không ai biết Cha trừ ra Con (Lc 10, 22). Chỉ mình tôi mới có thể vén mở trọn vẹn khuôn mặt Thiên Chúa.
Giêsu ơi! Ngài là ai? Tôi là người được Thiên Chúa sai đến với nhân loại trên mặt đất (c. 34). Chẳng có giây phút nào tôi quên mình là Con, người được sai. Chẳng có giây phút nào tôi quên Cha tôi là Đấng sai tôi. Khi nhận mình triệt để tùy thuộc vào Cha, tôi chẳng hề xấu hổ. Tôi đáng tin vì chính sự tùy thuộc đó. Tôi chẳng làm điều gì tự mình,  tôi chỉ làm điều tôi đã thấy Cha tôi làm (Ga 5, 19). Tôi chẳng nói điều gì tự mình,  tôi chỉ nói điều tôi đã nghe Cha tôi nói (Ga 8, 26). Chính khi tôi tùy thuộc trọn vẹn vào Cha mà tôi được tự do.
Giêsu ơi! Ngài có hạnh phúc không? Tôi hạnh phúc vì tôi yêu và được yêu. Cha tôi yêu mến tôi và tôi ở lại trong tình yêu của Cha (Ga 15, 10), Người vẫn ở với tôi và không để tôi cô độc (Ga 8, 29). Người yêu mến tôi vì tôi dám hy sinh mạng sống cho đoàn chiên (Ga 10, 17). Tình yêu của Cha thể hiện qua việc Người trao phó mọi sự trong tay tôi (c. 35). Tôi có quyền phán xét, quyền cho sống lại ngày sau hết, quyền trên mọi xác phàm.
Bởi vậy tôi mới nói mọi sự Cha có là của tôi (Ga 16, 15).
Hãy đón nhận lời chứng của tôi (c. 33). Hãy tin vào tôi để được sự sống vĩnh hằng ngay từ đời này (c. 36). Hãy đến với tôi để được chia sẻ cùng một sứ mạng và vinh quang.
Cầu nguyn:

Lạy Cha,
con phó mặc con cho Cha, xin dùng con tùy sở thích Cha.
Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn. Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.Miễn là ý Cha thực hiện nơi con và nơi mọi loài Cha tạo dựng, thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa. Con trao linh hồn con về tay Cha. Con dâng linh hồn con cho Cha, lạy Chúa Trời của con, với tất cả tình yêu của lòng con,
Vì con yêu mến Cha, vì lòng yêu mến thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha, thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha, không so đo, với một lòng tin cậy vô biên,
vì Cha là Cha của con.
(Charles de Foucauld)
 
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
SUY NIỆM : Tình yêu thương

“Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Ngài cho thế gian, để những ai tin vào Con của Ngài thì không phải chết, nhưng được sống đời đời". Ðó là một sự thật quan trọng được Chúa Giêsu mạc khải cho ông Nicôđêmô trong cuộc đối thoại ban đêm, được ghi lại nơi chương 3, Phúc Âm thánh Gioan. Lời quả quyết trên về tình thương của Thiên Chúa đối với con người được Chúa Giêsu lập lại một lần nữa trong bữa Tiệc Ly như sau: "Thật vậy, Thiên Chúa Cha đã yêu thương các con vì các con đã yêu mến Thầy và tin rằng Thầy từ Thiên Chúa mà đến" (Ga 16,27).
Thử hỏi, có ai có uy tín hơn Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, để mạc khải cho chúng ta biết tình thương của Thiên Chúa Cha đối với thế gian, đối với toàn thể tạo vật đã được dựng nên và nhất là đối với tất cả mọi người đã được dựng nên giống hình ảnh của Ngài?
Lý trí tự nhiên của con người qua những suy tư triết học khó có thể, nếu không muốn nói là không bao giờ có thể đạt đến kết luận chắc chắn rằng Thiên Chúa là Tình Yêu và Ngài yêu thương con người đến mức độ cho đi điều quí nhất là chính Con Một Thiên Chúa, để cứu chuộc con người khỏi nô lệ tội lỗi, khỏi phải chết. Chỉ nhờ mạc khải của Chúa Giêsu Kitô, con người chúng ta mới nghe được sự thật đầy an ủi này, Thiên Chúa đã yêu thương thế gian, Thiên Chúa Cha hằng yêu thương con người. Lý do thôi thúc hành động của Thiên Chúa cứu rỗi con người chính là tình yêu thương, và Chúa Giêsu đã chứng tỏ cho mọi người biết và cho cả ông Nicôđêmô, là người có đủ uy tín để nói như vậy, bởi vì Người từ nơi Thiên Chúa Cha mà mạc khải cho chúng ta biết.
Những lời tâm sự trên xác nhận căn cứ và nguồn gốc của Chúa Giêsu từ trên cao, từ Thiên Chúa Cha. Những lời này nhắc cho chúng ta nhớ lại những suy tư cao sâu của tác giả Phúc Âm theo thánh Gioan, nơi khởi đầu sách Phúc Âm của ngài như sau: "không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ. Nhưng Con Một Ngài là Thiên Chúa và là Ðấng hằng ở nơi cung lòng Thiên Chúa Cha, chính Ngài đã tỏ cho chúng ta biết nguồn gốc thần linh của Chúa Giêsu Kitô". Làm cho những sự thật được Chúa mạc khải cho con người có được giá trị trỗi vượt hơn mọi lý thuyết, hơn mọi lẽ khôn ngoan do trí khôn con người nghĩ ra. "Kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Ðấng từ trên trời mà đến thì ở trên mọi người". Người làm chứng về những gì Người đã thấy và đã nghe trực tiếp từ Thiên Chúa Cha, vì Người hằng ở cùng Thiên Chúa Cha, được sai xuống trần gian để mạc khải cho con người biết.
Ðáp lại mạc khải của Chúa Giêsu, con người cần khiêm tốn, vâng phục và kính tin. Ðây là điều Chúa mời gọi ông Nicôđêmô ngày xưa và mọi người ngày nay hãy thực hiện: "Ai tin vào Con Thiên Chúa thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời".
Chúng ta đã đáp lại mạc khải của Thiên Chúa như thế nào?
Thảm trạng của con người bắt đầu khi con người tin không có Thiên Chúa và nếu có Thiên Chúa thì họ vẫn lãnh đạm thờ ơ không tin vào Thiên Chúa, và cũng không tin, không quí trọng sự thật được Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, mạc khải nữa. Nhưng thử hỏi, con người có thể dập tắt khát vọng hướng về Thiên Chúa đã ăn rễ sâu trong tâm hồn của mình hay không?
Lạy Cha, chúng con cảm tạ Cha vô cùng vì đã ban cho chúng con Chúa Giêsu Kitô để chỉ cho chúng con biết con đường sống như những con cái Cha, và trở về cùng Cha an toàn. Xin thương giúp cho chúng con trưởng thành trong đức tin mỗi ngày một hơn. Xin củng cố đức tin chúng con trước những thách đố của môi trường xã hội trần tục, không ngừng tìm cách chối bỏ Chúa cũng như cố ý làm méo mó và cười nhạo những sự thật do Chúa mạc khải.
Lạy Cha, xin thương củng cố đức tin của chúng con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
11 THÁNG TƯ

Đức Tin Của Chúng Ta Bật Ra Từ Chứng Từ Của Các Thị Chứng Nhân

Luca, tác giả Sách Tin Mừng, kể tiếp: “Rồi Người mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh” (Lc 24,45). Từ bài diễn từ của Phê-rô trong Sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta nhận ra việc Đức Kitô mở trí cho các Tông Đồ nắm hiểu sự thật về Tin Mừng đã có hiệu quả như thế nào.
Thật vậy, sau khi trình bày những biến cố nối kết với cái chết và cuộc Phục Sinh của Đức Kitô, Phê-rô tuyên bố với cư dân Giê-ru-sa-lem: “Như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của Người phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3,18-20).
Trong những lời ấy của vị Tông Đồ, chúng ta nhận ra một âm vọng rõ ràng những lời của chính Đức Kitô. Chúng ta nhận ra Chúa Phục Sinh đã biến đổi tâm trí và cuộc sống của các Tông Đồ như thế nào qua việc truyền đạt sự thật của Người.
Đây là câu chuyện của đức tin chúng ta. Chúng ta nhận ra cách mà thế hệ chứng nhân đầu tiên của Đức Kitô – tức các Tông Đồ và các môn đệ – truyền đạt sứ điệp Tin Mừng căn bản. Nó bật ra trực tiếp từ chứng từ của những chứng nhân mắt thấy tai nghe cái chết và sự sống lại của Đức Kitô.

- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 11-4 Thánh Stanislaô, giám mục, tử đạo
Cv 5, 27-33; Ga 3, 31-36

LỜI SUY NIỆM: “Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời; còn những kẻ không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy.” (Ga 3,36)

Thiên chúa yêu thương con người hơn các tạo vật khác. Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài và chính Ngài thổi hơi của Ngài để cho con người được sống, nhưng tổ tiên loài người đã phá bỏ tình yêu thương và sự sống đời đời đó; Nhưng Thiên Chúa đã không dứt bỏ con người và Ngài tự hứu sẽ cứu con người ra khỏi sự chết đó bằng một kế hoạch yêu thương là cho Con Một của Ngài đến, Đây là cơ hội duy nhất không còn cơ hội nào khác nữa, nếu những kẻ nào không còn tin vào Chúa Giêsu, thì tự họ đã không muốn nhập vào đoàn những kẻ được sống; và cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ đến trên họ vì họ đã chối từ tình yêu của Ngài dành cho họ

Mạnh Phương


Gương các Thánh

Ngày 11-04: Thánh STANISLAÔ
Giám Mục Tử Đạo (1030 - 1079)


Thánh Stanislaô được kính nhớ như vị Thánh bảo trợ thành Krakow ở Balan, nơi Ngài làm giám mục và hài cốt Ngài được lưu giữ ở nhà thờ chính tòa. Không có tường thuật đương thời nào về Ngài được coi là đầy đủ và các chi tiết về đời Ngài cũng không rõ rệt lắm. Người ta kể rằng: cha mẹ Ngài thuộc dòng dõi quí phái, nhưng lại hiếm muộn về đàng con cái. Sau nhiều lời cầu nguyện khẩn thiết, ngày 26 tháng 07 năm 1030, họ sinh được một người con trai và đặt tên là Stanislaô. Họ chú tâm đào luyện con mình theo những tập quán đạo hạnh khiến Stanislaô, từ nhỏ đã tỏ ra có tinh thần bác ái và nhiệt hành phụng sự Chúa.
Trong bầu khí đạo đức ấy, từ thuở nhỏ Stanislaô đã nghe rõ tiếng Chúa kêu gọi đi làm tông đồ Chúa. Trước hết Ngài đã theo học đại học tại triết học tại Đại học Gniezno. Sau đó Ngài sang Paris theo học Luật và thần học ở tu viện Lorranin trong bảy năm trời. Khi cha mẹ qua đời, Ngài phải trở về Balan.
Được thừa hưởng gia tài lớn cha mẹ để lại, nhưng thánh nhân đã quyết chí hiến thân phụng sự Chúa vì vậy Ngài đã đem của cải phân phát cho người nghèo khó rồi tiếp tục theo đưổi lý tưởng tu trì. Đức Giám mục Lampert đã phong chức Linh mục cho Stanislaô, năm 1062 và đặt làm Kinh sĩ tại nhà thờ chánh tòa địa phận.Giữ chức vụ kinh sĩ, Stanislaô đã trở nên lừng danh về tài thuyết giảng và về chính đời sống gương mẫu thánh thiện của Ngài. Đức cha Lambert, toàn thể giáo sĩ và giáo dân đã bầu Stanislaô lên kế vị. Vì khiêm tốn, thánh nhân quyết không chịu nhận. Nhưng năm 1072, vâng lời đức thánh cha Alexandre II, Stanislaô đã nhận làm giám mục Krakow.
Đức cha Stanislaô là một giám mục thánh thiện và nhân hậu nhất là đối với những ai đau khổ và nghèo đói. Tuy nhiên, Ngài cũng tỏ ra là người can đảm đặc biệt. Vua Balan lúc ấy là Bôleslas II. Ong ta đã dùng sức mạnh khí giới để đạt tới vinh quang nhưng lại chịu bị khuất phục trước những tật xấu khủng khiếp. Hành vi độc ác của ông đã khiến cho người ta gọi ông là "kẻ độc ác". Cả nước đều phải run sợ nhưng không ai dám mở lời can ngăn. Chỉ có một người, một vị thánh là Stanislaô đã dám đương đâu với sự giận dữ của nhà vua.
Sau khi cầu nguyện với tất cả tâm hồn, thánh nhân đến gặp nhà vua. Khiêm tốn nhưng đầy cương quyết, thánh nhân quyết định nói với ông ta tất cả những gì phải nói, Ngài trình bày cho nhà vua thấy trước những tội ác tày trời, gương mù trong vương quốc mà nhà vua gây nên, Ngài cũng nói cho nhà vua rõ những phán xét Thiên Chúa đang chờ đón. Vừa nghe, Bôleslas đã tỏ ra hối hận. Nhưng thật đang tiếc vì đây chỉ là một tình cảm chóng qua, Bôleslas lại trở nên man rợ như trước và còn thêm một tội ghen ghét vào những ác độc của ông.
Sau này, vua đã cướp vợ của một nhà quí phái để nhốt trong hoàng cung. Cơn giận lan ra khắp tỉnh nhưng dân chúng run sợ không ai dám mở miệng, thánh Stanislaô một lần nữa can đảm đến gặp Boleslas, cố gắng đưa ông trở về với những tình cảm chân chính. Ngài đe dọa, nếu còn cố chấp, nhà vua sẽ bị tuyệt thông. Run lên vì tức giận, nhà vua tìm kế sát hại thánh nhân.
Bôleslas biết Đức cha có mua một thuở đất để xây cất nhà thờ mà chỉ trao tiền trứơc mặt nhiều chứng nhân mà không làm chứng từ. Khi chủ nhân cũ qua đời, ông đe dọa các chứng nhân để họ phản chứng rồi tố giác Đức giám mục ra tòa. Mưu độc của ông bị thất bại. Vì sau ba ngày cầu nguyện thánh Stanislaô đã truyền đào mồ người chết và kêu ông dậy làm chứng sự thật.
Dầu vậy, Bôleslas vẫn không thay lòng đổi dạ đối với vị giám mục gan dạ Stanislaô. Ngày 08 tháng 5 năm 1079, khi thánh Stanislaô đang dâng thánh lễ tại thánh đường thánh Micae. Ông sai người đến sát hại thánh nhân. Cả ba nhóm binh sĩ lần lượt đến mà không hoàn thành được lệnh truyền, khiến chính nhà vua phải ra tay. Ông xông vào nhà thờ chém giết vị giám mục tại bàn thờ. Chưa đã thoả lòng giận dữ , ông còn chặt xác Ngài thánh ra làm nhiều khúc rồi vứt ra ngoài đồng cho chim trời rúc rỉa. Nhưng bốn ngày sau, trên trời chỉ có bốn cánh phương hoàng bay lượn ngăn cản tất cả không cho bất cứ con vật nào xâm phạm tới xác thánh.
Bấy giờ Boleslas mới tỉnh ngộ và hối lỗi. Ông cho tổ chức lễ an táng thánh Stanislaô rất trọng thể. Xác thánh liền lại như mới qua đời vì bệnh tật và được chôn cát tại nhà thờ chánh tòa Krakow.

(daminhvn.net)
Thứ Năm 11-4

Thánh Stanislaus

(1030 - 1079)

B
ất cứ ai đọc lịch sử Ðông Âu đều phải biết đến tên Stanislaus, vị giám mục thánh thiện nhưng bi thương của giáo phận Krakow. Cùng với các Thánh Tôma More và Tôma Becket, ngài thường được nhớ đến vì sự chống đối quyết liệt của ngài đối với một chính phủ hung bạo và bất chính thời ấy.
Thánh Stanislaus sinh trong một gia đình quý tộc ở Szczepanow gần Krakow. Ngài theo học các trường Công Giáo ở Gniezno, sau đó ở thủ đô Ba Lan, và ở Balê. Ngài thụ phong linh mục ở Gnesen và được bổ nhiệm làm tổng phó tế và người thuyết giáo của Ðức Giám Mục Krakow, là nơi tài hùng biện và gương mẫu của ngài đã giúp nhiều người thực sự hoán cải đời sống, trong đó có cả hàng giáo sĩ. Ngài trở thành giám mục của Krakow năm 1072.
Trong cuộc viễn chinh chống với Ðại Ðế Duchy của Kiev, Ðức Stanislaus bị dính líu đến tình hình chính trị ở Ba Lan. Nổi tiếng là người thẳng thắn, ngài tấn công những hành động xấu xa của vua và người dân, nhất là các cuộc chiến bất chính cũng như các hành động vô luân của Vua Boleslaus II vì ông đã cướp vợ của một nhà quý tộc.
Lúc đầu nhà vua tự ý xin lỗi và bày tỏ sự ăn năn sám hối, nhưng sau đó lại trở về con đường cũ. Ðức Stanislaus tiếp tục công khai chống đối bất kể những hăm dọa về tội phản quốc và tử hình. Sau cùng ngài đã ra vạ tuyệt thông nhà vua và từ chối cử hành Thánh Lễ mỗi khi có sự hiện diện của ông. Ðiên lên vì tức giận, nhà vua ra lệnh quân lính hạ sát vị giám mục. Khi binh lính từ chối không tuân phục, chính tay ông đã giết Ðức Stanislaus trong khi ngài cử hành Thánh Lễ trong một nhà nguyện ở ngoại ô thành phố.
Ðức Stanislaus là biểu hiệu của tinh thần dân tộc Ba Lan. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Innôcentê IV phong thánh năm 1253 và được đặt làm quan thầy chính thức của Krakow.

Lời Bàn

Thánh Gioan Tẩy Giả, Tôma Becket, Tôma More và Stanislaus là một vài ngôn sứ dám tố giác sự thối nát của những người có địa vị. Các ngài đã theo chân Ðức Giêsu Kitô, là người vạch ra sự sa đọa luân lý của các nhà lãnh đạo tôn giáo thời ấy. Ðó là một công việc đầy nguy hiểm đòi hỏi sự can đảm sống chứng nhân cho Tin Mừng.

Lời Trích

"Những người khao khát muốn có quyền bính để có thể áp đặt luật lệ, mệnh lệnh và kiểm soát người khác, thì chính họ là những người sống vô kỷ luật và không kiềm chế" (Thánh Tôma More, Một Ðối Thoại Về Sự Tiện Nghi).



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét