Trang

Thứ Bảy, 6 tháng 4, 2013

07-04-2013 : (phần I) CHÚA NHẬT II PHỤC SINH


Ngày 07/04/2013
Chúa Nhật 2 Phục Sinh Năm C
(Phần I)


BÀI ĐỌC I:  Cv 5, 12-16

Trích sách Tông đồ Công vụ.
Khi ấy, các Tông đồ làm nhiều phép lạ và nhiều việc phi thường trong dân, và tất cả mọi người tập họp tại hành lang Salômôn; nhưng không một ai khác dám nhập bọn với các tông đồ. Nhưng dân chúng đều ca tụng các ngài. Số những người nam nữ tin vào Chúa ngày càng gia tăng, đến nỗi họ mang bệnh nhân ra đường phố, đặt lên giường chõng, để khi Phêrô đi ngang qua, ít nữa là bóng của người ngả trên ai trong họ, thì kẻ ấy khỏi bệnh. Đông đảo dân chúng ở những thành phụ cận Giêrusalem cũng tuôn đến, mang theo bệnh nhân và những người bị quỷ ám. Mọi người đều được chữa lành.  Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA:  Tv 117, 2-4. 22-24. 25-27a

Đáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.

1) Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: "Đức từ bi của Người muôn thuở". Hỡi nhà Aaron, hãy xướng lên: "Đức từ bi của Người muôn thuở". Hỡi những người tôn sợ Chúa, hãy xướng lên: "Đức từ bi của Người muôn thuở". - Đáp.
2) Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. Đây là ngày Chúa đã thực hiện, nên chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó. - Đáp.
3)   Thân lạy Chúa, xin gia ơn cứu độ; thân lạy Chúa, xin ban cho đời sống phồn vinh. Phúc đức cho Đấng nhân danh Chúa mà đến; từ nhà Chúa, chúng tôi cầu phúc cho chư vị. Chúa là Thiên Chúa và đã soi sáng chúng tôi. - Đáp.

BÀI ĐỌC II:  Kh 1, 9-11a, 12-13. 17-19
"Ta đã chết, nhưng đây Ta vẫn sống đến muôn đời".

Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan, anh em của chư huynh, đồng phần chia sẻ sự gian truân, vương quyền và kiên nhẫn trong Đức Giêsu Kitô, tôi đã ở đảo Patmô vì lời Chúa và vì làm chứng Đức Giêsu. Một Chúa Nhật nọ, tôi xuất thần và nghe phía sau tôi có tiếng phán lớn như tiếng loa rằng: "Hãy viết những điều ngươi thấy vào sách và gởi đến bảy giáo đoàn ở Tiểu Á". Tôi quay lại để xem coi tiếng ai nói với tôi. Vừa quay lại, tôi thấy bảy chân đèn bằng vàng, và ở giữa bảy chân đèn bằng vàng đó tôi thấy một Đấng giống như Con Người, mặc áo dài và ngang lưng thắt một dây nịt bằng vàng. Vừa trông thấy Người, tôi ngã xuống như chết dưới chân Người; Người đặt tay phải lên tôi và nói: "Đừng sợ, Ta là Đấng trước hết và là Đấng sau cùng, Ta là Đấng hằng sống; Ta đã chết, nhưng đây Ta vẫn sống đến muôn đời. Ta giữ chìa khoá sự chết và địa ngục. Vậy hãy viết những gì ngươi đã thấy, những điều đang xảy ra và những điều phải xảy ra sau này". Đó là lời Chúa.

ALLELUIA:  Ga 20, 29

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin". - Alleluia.

PHÚC ÂM: Ga 20, 19-31
"Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin".
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Đoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!"
Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người. Đó là lời Chúa.


SUY NIỆM : Chúa sống lại đang ở giữa Hội Thánh
Chúng ta vừa nghe đọc một bài sách Công vụ các Tông đồ, một bài sách Khải huyền và một bài Tin Mừng theo thánh Gioan. Ðó là ba quyển sách mà Phụng vụ sẽ trích đọc trong tất cả các Chúa nhật Phục sinh năm nay; và cũng theo thứ tự trên. Không nhất thiết mỗi lần ba bài đọc ấy đều ăn ý với nhau; nhưng luôn luôn cả ba đều nói về mầu nhiệm Phục sinh. Cứ chung mà nói, các Tin Mừng sẽ cho chúng ta thấy Chúa sống lại hiện ra với các tông đồ. Các bài sách Công vụ nói Tin Mừng Phục sinh đã xây dựng Hội Thánh thế nào; và các bài sách Khải huyền mở cửa trời cho chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Phục sinh ở trên ấy. Như vậy, trong suốt mùa Phục sinh này, chúng ta sẽ được hiểu biết mầu nhiệm Chúa sống lại ở những bình diện khác nhau và bù đắp cho nhau. Chúng ta sẽ thấy nhờ việc sống lại từ kẻ chết, Chúa Giêsu còn hiện diện và hoạt động hơn trước nơi tâm hồn tín hữu, trong Hội Thánh của Người và hướng dẫn lịch sử các dân tộc nữa.
Chúng ta sẽ cố gắng tiếp thu giáo huấn của phụng vụ trong mùa này để làm sống động ơn Phục sinh mà Chúa đã ban cho chúng ta một cách đặc biệt trong ngày kỷ niệm việc Người sống lại. Và chúng ta sốt sắng đón nhận thêm ơn ấy mỗi khi tham dự thánh lễ. Ðó là những công việc chúng ta bắt đầu làm ngay từ trong thánh lễ này, để hiểu biết hơn và đón nhận nhiều hơn ơn phục sinh của Chúa.
Vậy trước hết, các bài Kinh Thánh đọc hôm nay, nói gì với chúng ta? Chúng ta nên gọi Chúa nhật này là Chúa nhật của thánh Tôma hay là Chúa nhật của Hội Thánh? Thiết tưởng, tuy câu chuyện về thánh Tôma hôm nay rất nổi, chúng ta vẫn không thấy hình ảnh của ông che hết được những sự kiện khác đã xảy đến cho Hội Thánh sau ngày Chúa sống lại. Cả ba bài đọc dường như đều chú trọng đến việc Chúa sống lại đang ở giữa Hội Thánh và chúng ta nên gọi Chúa nhật này là Chúa nhật của Hội Thánh được Chúa sống lại viếng thăm. Ngay cả câu chuyện về thánh Tôma cũng nằm trong bối cảnh chung này. Và vì nó rất nổi, chúng ta hãy bắt đầu với nó.

1. Chúa Sống lại Hiện Ra Với Các Tông Ðồ

Câu chuyện Tôma xảy ra vào ngày thứ 8 sau hôm Chúa sống lại tức là vào chính ngày hôm nay, sau khi chúng ta đã mừng lễ Phục Sinh của Chúa vào Chúa Nhật trước. Vì lý do ấy, năm nào phụng vụ cũng đọc bài Tin Mừng này vào Chúa Nhật II Phục Sinh. Nhưng sở dĩ có việc Chúa hiện ra với Tôma là vì 8 hôm trước Chúa đã hiện ra với các môn đệ. Hôm ấy Tôma không có mặt. Ðược anh em nói cho biết Thầy đã sống lại và hiện ra, ông thấy thiệt thòi và thua kém. Nhất nữa ông là người đã giục anh em: "Nào chúng ta hãy lên Giêrusalem với Thầy và chịu chết với Thầy". Ông nghĩ mình có quyền được xem thấy Chúa sống lại ít là như mọi anh em.
Thế nên ông cương quyết không chịu tin lời anh em kể lại về việc Chúa đã hiện ra và ông đòi phải được sờ vào Người. Tên của ông lại có nghĩa là "sinh đôi", nên ông muốn được Chúa lập lại cho ông thấy việc Người đã làm cho anh em.
Chúng ta có quyền nghĩ về tâm lý Tôma như vậy, vì Thánh Kinh đã khẳng định một điều chắc chắn các tông đồ đã được xem thấy Chúa sống lại. Thế mà Tôma cũng là một tông đồ. Ông phải được Chúa sống lại hiện ra để chứng của ông cũng chắc chắn như chứng của mọi anh em. Và rất có thể trong câu chuyện này, tác giả Gioan cũng đã theo thói quen của mình, lấy trướng hợp một cá nhân để làm sáng tỏ việc xảy đến cho nhiều người. Việc Tôma vắng mặt lúc Chúa hiện ra lần đầu tiên với các môn đệ, là hữu ý để người ta lại được thấy Chúa hiện ra nữa và rõ hơn, để không ai còn có thể nghi ngờ được nữa.
Quả vậy, đọc kỹ bài tường thuật hôm nay, chúng ta thấy tác giả Gioan kể hai lần Chúa hiện ra dường in hệt như nhau. Lần sau như chỉ "lập lại" lần trước, chỉ cá biệt và rõ ràng hơn thôi. Chúng ta thấy hai lần đều xảy ra vào ngày Chúa nhật, ngày của Chúa sống lại, ngày Hội Thánh gặp nhau, ngày Chúa phục sinh đến gặp gỡ Hội Thánh. Ðiều đáng để ý là cả hai lần nhà cửa các môn đệ đều đóng kín. Như vậy, lần hiện ra trước chưa đủ làm cho họ trở thành những con người mới sao? Hay là tác giả Gioan còn muốn giữ họ ở lại trong nhà cho đến ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống? Chúng ta có thể nghiêng về ý nghĩa sau, vì hôm Chúa hiện ra có mặt cả Tôma, cửa nhà các môn đệ còn đóng kín nhưng không thấy nói "vì sợ người Do Thái" nữa.
Rồi Chúa cũng đột xuất đứng giữa họ và nói: "Bình an cho các ngươi". Người ta có thể nghĩ Người đã dùng công thức chào hỏi thông thường của người Do Thái, nhưng đang lúc các môn đệ còn ở trong nhà đóng kín cửa, lời chào ấy có một ý nghĩa khác. Nó có tác động trấn an thật sự, nếu chúng ta chưa muốn gán cho nó hiệu lực của mầu nhiệm thập giá đã đem bình an này mới là sự bình an mà Ðức Giêsu trước đây đã hứa với môn đệ rằng: "Thầy để bình an lại cho các con; Thầy ban bình an của Thầy cho các con, sự bình an mà thế gian không thể ban được".
Dù sao, sau đó Người đã cho môn đệ thấy tay và cạnh sườn của Người. Và riêng hôm nay, Người bảo Tôma hãy đem ngón tay đặt vào đấy. Trong cả hai lần cũng là một việc, tuy lần sau có rõ hơn lần trước nhưng cũng chỉ có một ý nghĩa. Chúa làm như vậy không phải để trấn an môn đệ, vì tính cách đột xuất của việc hiện đến có thể khiến họ tưởng Người là ma. Không, ma không thể có thân thể như Người có đây.
Tuy nhiên, Chúa đã nhằm cho môn đệ tin Người đã sống lại. Người đã chết thật, nhưng đã sống lại. Các vết thương làm chứng Người đã chết; nhưng con người đã chịu những vết thương đó bây giờ đang sống giữa họ đây. Người đã sống lại thật. Họ phải tin như vậy.
Lần trước, niềm tin ấy đã khiến họ mừng rỡ. Hôm nay, niềm tin đã được đào sâu và tiến bộ. Họ như nói trong lời tuyên xưng của Tôma: "Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi". Chúng ta thường để ý đến lời Tôma phát biểu trước đây khi nghe anh em nói rằng Thầy đã sống lại và hiện ra. Nhưng chúng ta lại hay quên lời tuyên xưng của ông hôm nay.
Ðó là lời tuyên xưng đầu tiên và căn bản của Hội Thánh về Ðức Giêsu Kitô sau khi đã ý thức việc Người sống lại. Chính niềm tin về sự Phục Sinh của Người đã khiến Hội Thánh thấy Người là Chúa và là Thiên Chúa của mình. Và Hội Thánh bắt đầu tuyên xưng Người như vậy. Tác giả Gioan đã cho Tôma được vinh dự nói lời tuyên xưng ấy lần đầu tiên ở trong Hội Thánh. Như vậy, tác giả đâu có muốn cho Tôma bị tiếng là cứng lòng tin? Chúng ta phải nghĩ rằng Gioan đã dành cho Tôma vinh dự tiêu biểu cho Hội Thánh: trước chưa tin, rồi đã tin và mỗi ngày càng tin sâu xa hơn, đến nỗi trước mới chỉ vui mừng vì đã tin và đã được cứu độ; sau đã sốt sắng tuyên xưng niềm tin ấy và muốn chia sẻ ơn cứu độ cho mọi người.
Thật vậy, hôm trước thấy môn đệ đã tin thì Chúa Giêsu đã thở hơi ban Thánh Thần cho họ để họ có thể tha tội cho người ta. Hôm nay chúng ta thấy ý tưởng truyền giáo ấy được gói trong câu Chúa bảo Tôma: "Bởi thấy Ta, ngươi đã tin; phúc cho những ai không thấy mà tin". Cả hai hôm đều có sự phân biệt giữa đoàn môn đệ và người ta. Môn đệ nhận được Thánh Thần và đức tin là để người ta được khỏi tội và được tin. Hạng trước phải phục vụ hạng sau. Chúa sống lại hiện ra với các tông đồ là để họ trở thành nhân chứng về sự Phục Sinh của Người ở trước mặt các dân tộc; và để họ thành lập cộng đồng các tín hữu. Chúng ta hãy xem họ có làm nổi công việc này không?

2. Các Tông Ðồ Xây Dựng Hội Thánh

Bài sách Công Vụ Các Tông Ðồ hôm nay là một trong ba bản văn tóm tắt tình hình chung của Hội Thánh ở buổi đầu tiên (xem chương 2,42 và 4,32). Thật ra mỗi bản văn đã làm nổi bật một số điểm trên một cái nền chung. Ở đây, tác giả chú trọng đến việc các tông đồ đã làm được nhiều dấu lạ điềm thiêng. Và điều này khá phù hợp với tư tưởng của hai bài Kinh Thánh khác trong thánh lễ hôm nay, nhất là bài Tin Mừng chúng ta vừa đọc.
Nhưng trước hết chúng ta hãy để ý đến nền ảnh chung. Tác giả viết: "Bấy giờ họ đồng tâm nhất trí thường họp với nhau hết thảy nơi trụ lang Salomon". Ðiều này làm chứng cho những lời tác giả nói trước đây. Các tín hữu của Chúa thời bấy giờ hiệp nhất như chỉ có một linh hồn. Và cũng phải nói: họ như chỉ có một thân thể nữa, vì họ không thể nào chịu để cho trong họ có người thiếu thốn. Thế nên ai có sở hữu nhiều thì đã đem bán đi, lấy tiền, đem lại cho các tông đồ để chia sẻ cho những người túng thiếu hơn.
Tuy nhiên, điều đáng để ý nhất ở nơi họ, vẫn là sự đồng tâm nhất trí về tinh thần, biểu lộ đặc biệt trong những khi họ hội họp nhau để nghe giáo huấn các tông đồ và cử hành phụng vụ. Ở đây, chúng ta thấy họ đang có mặt ở tất cả ở các trụ lang Salomon là chỗ khá rộng rãi thuộc đền thờ để tín hữu làm công việc thờ phượng. Chính tại nơi này, xưa kia Chúa Giêsu đã đi đi lại lại (Ga 10,23); và cách đây lít lâu, Phêrô đã làm cho một người què được khỏi tức thì.
Hôm nay, tín hữu của Chúa cũng họp nhau lại đây để nghe giáo huấn và cầu nguyện. "Không ai dám sát lại gần họ". Vì sợ người Do Thái ư? Chắc không phải, vì như sau sẽ nói, số tín hữu cứ mỗi ngày mỗi tăng. Nhưng người ta chưa dám lại gần cộng đoàn dân Chúa chỉ vì đang là giờ phụng vụ riêng của Hội Thánh mà người ta chưa thể tham dự được. Cũng rất có thể những lúc như vậy người ta thấy họ được dồi dào các ơn Thánh Thần và sốt sắng đặc biệt, như tác giả sách Công vụ đã nhiều lần nói (vd. 4,31).
Dù sao không dám lại gần, nhưng người ta cũng ca tụng họ vì quả thật họ đáng ca tụng khi hội họp nhau đồng tâm nhất trí và sốt sắng như vậy. Dĩ nhiên sự ca tụng này cũng bao gồm cả những lần khác khi người ta thấy các tín hữu ăn ở tốt lành và có lòng bác ái chia sẻ trong đời sống xã hội.
Chính những hình ảnh đẹp đẽ này đã lôi kéo nhiều người gia nhập dân Chúa, mỗi ngày mỗi đông, đoàn đoàn lũ lũ, đàn ông đàn bà. Và gia nhập có nghĩa là tin theo Chúa khiến chúng ta thấy các môn đệ đã thi hành được sứ mạng Chúa giao cho mình. Sau khi sống lại, như bài Tin Mừng hôm nay viết, Chúa đã hiện ra với họ, ban Thánh Thần để họ tha tội, ban đức tin để họ làm cho có nhiều người không thấy Chúa mà vẫn tin. Thế thì bài sách Công vụ hôm nay cho thấy ơn Thánh Thần và đức tin của các môn đệ càng ngày càng lan sang cho đoàn đoàn lũ lũ. Hội Thánh đã thành hình và phát triển nhờ ơn Chúa Phục Sinh vậy.
Ở giữa Hội Thánh này, các tông đồ đóng một vai trò quan trọng, và đặc biệt là Phêrô. Chúa làm cho họ được nhiều dấu lạ điềm thiêng để củng cố lời rao giảng của họ, như Người đã từng hứa; và như họ vẫn thường xin (4,30). Họ biết khả năng tự nhiên của họ quá ít; họ còn ý thức hơn nữa tính cách siêu việt của Lời Chúa và sự khó đoán nhận tự nhiên của xác thịt về phía người nghe. Chúa có trợ sức, lời giảng về Mầu nhiệm Thập giá mới trở thành thần lực. Và khi có dấu lạ điềm thiêng kèm theo, lời giảng Tin Mừng mới có sức mạnh.
Chúng ta hãy chú ý: các dấu lạ điềm thiêng ở đây không hề có tính cách phô trương mê hoặc, nhưng hoàn toàn chỉ bày tỏ ơn Thánh Thần và bác ái. Ðặc biệt hôm nay chúng ta thấy toàn là việc chữa bệnh tật để nói lên ơn tha tội và sự sống Phục Sinh của lời giảng. Và khi nhìn thấy quang cảnh người ta từ khắp nơi khiêng bệnh nhân đến và đặt la liệt trên đường đi cho bóng của Phêrô đi ngang qua rợp trên những người đau yếu, làm sao tự nhiên chúng ta lại không nhớ lại Chúa Giêsu ngày trước đã nhiều lần như thế. Phêrô bây giờ là hình ảnh của người, và là hiện thân của Chúa Phục Sinh, nếu chúng ta nói được như vậy. Nhất là khi Phêrô xua trừ được tà thần, thì rõ rệt sức mạnh của Chúa Giêsu sống lại đang ở với ông và ở trong Hội Thánh. Chúa Giêsu đang ở cùng Hội Thánh hằng ngày cho đến tận thế. Và điều này cũng được bài sách Khải Huyền hôm nay nói lên.

3. Hội Thánh Của Chúa Sống Lại

Tác giả Gioan tự giới thiệu mình như là một phần tử đang ở giữa cộng đoàn dân Chúa. Người là anh em với mọi người; và đang đồng hành với anh em. Một thân phận chung đang trùm lên mọi người. Hội Thánh của Chúa ở trần gian đang trong cơn thử thách; nhưng đó là thử thách mang lại vương quyền như cuộc tử nạn của Chúa Giêsu trước đây. Và vì thế Hội Thánh đang kiên nhẫn ở trong Người.
Nói một cách cụ thể hơn, Gioan đang chia sẻ sự bắt bớ mà Hội Thánh đang chịu. Ông, bị đày ra đảo Patmos vì Lời Chúa và vì chứng của Chúa Giêsu. Ông đã thi hành sứ mạng Tông đồ, rao giảng Lời Chúa và làm chứng cho Chúa Giêsu, nên người ta đày ông ra đảo này.
Nhưng cho dù bị tách rời anh em về phần xác, Gioan vẫn ở giữa cộng đồng Hội Thánh bằng tinh thần và ngày Chúa nhật hôm ấy, ngày Hội Thánh gặp nhau, ngày Chúa viếng thăm Hội Thánh cách đặc biệt, Gioan được "ngất trí" để sống giữa Hội Thánh và phục vụ Hội Thánh với cương vị tông đồ của mình.
Ông nghe thấy có tiếng nói lên ở đàng sau tựa tiếng loa. Ðó là tiếng "thần thánh" nói trong "đầu óc" ông. Tiếng đó bảo ông phải viết những điều ông trông thấy để gởi các giáo đoàn, tức là cho cả Hội Thánh. Ông phải làm vai trò rao giảng Lời Chúa như ơn Chúa đã kêu gọi ông.
Và ông thấy gì? Có 7 trụ đăng vàng, tiêu biểu cho 7 giáo đoàn sẽ nhận được thư ông. Và giữa các trụ đăng ấy có ai giống như Con Người, mình bận áo chùng, lưng thắt đai vàng. Chẳng thể hồ nghi gì nữa, đó là Chúa Giêsu ở giữa Hội Thánh, mặc áo tư tế và thắt lưng đai vua. Cảnh tượng ấy khiến Gioan lập tức sấp mình kính sợ thờ lạy. Nhưng Chúa Giêsu đã đặt tay hữu lên ông và bảo: đừng sợ! Rồi Người cho ông biết: Người là Ðầu hết và là Sau hết; là Ðấng Hằng Sống, nắm giữ chìa khóa sự chết và âm phủ. Người bảo ông hãy viết những điều này và những điều sau này nữa mà gửi cho Hội Thánh.
Chúng ta hãy hiểu ý của Người, khi xưng mình là Ðầu hết và Sau hết, Chúa Giêsu đã đồng hóa mình với Thiên Chúa theo công thức mà Isaia đã viết trong Cựu Ước. Người ta đừng tưởng Người đã chết trên thập giá. Không, Người đã sống lại và là Ðấng Hằng Sống. Người đã chết và sống lại để nắm được chìa khóa (tức quyền hành) của sự chết và của âm phủ). Những lời mạc khải này quan trọng biết bao! Nó củng cố niềm tin của Hội Thánh về việc Chúa chết và sống lại. Và được nghe trong lúc bị bắt bớ, đày ải, những lời ấy tăng thêm sức mạnh kiên nhẫn cho Hội Thánh hơn hết mọi liều thuốc hồi sinh.
Bài sách Khải huyền, vì thế, rất phù hợp với Hội Thánh thời thánh Gioan. Và đối với chúng ta đang sống trong thân phận lữ khách trần gian, mạc khải vừa nghe cũng đem lại nhiều an ủi. Nhưng nhất là chúng ta phải thấy rõ Chúa Giêsu Phục Sinh hằng ở giữa Hội Thánh như vị Thượng Tế của đạo mới, như vị thủ lãnh có vương quyền và như Thiên Chúa đang nắm giữ vận mạng của lịch sử. Người không ở xa Hội Thánh, nhưng ở giữa. Người không bỏ rơi một phần tử nào, nhưng ban sức cho cả người lưu đày cũng được khả năng thi hành chức vụ. Hoạt động của Người không giảm đi, theo việc Người chịu chết. Trái lại, cả ba bài Kinh Thánh hôm nay đều cho thấy, từ sau ngày sống lại, Chúa Giêsu đã hoạt động hơn trước với quyền lực mới, nắm giữ cả chìa khóa sự chết và âm phủ, khiến tà thần và bệnh tật cũng phải lui mau khi các Tông đồ và Hội Thánh của Người đến gần...
Trong thánh lễ cử hành bây giờ, Chúa Giêsu cũng đến với quyền lực như thế. Người có thể làm ra những Tôma mới; Người ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và sức mạnh mới; Người tỏ ra vẫn hiện diện mới mẻ giữa Hội Thánh. Ước gì chúng ta biết đón nhận Người với lòng tin của Tôma; cộng đoàn phụng vụ chúng ta muốn chứng tỏ tình hiệp nhất và khả năng đổi đời nhiều hơn, để chứng tỏ Ðức Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi, là Ðấng Hằng Sống, hằng trị, và hằng cứu độ mọi người. Amen.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Chủ Nhật 2 Phục Sinh, Năm C, Chúa Thương Xót

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phúc cho ai không thấy mà tin.

Nhiều người nghĩ họ chỉ tin khi nào thấy tận mắt hay có thể hiểu được; nếu không, họ kết luận tin mà không thấy, không hiểu là mê tín, dị đoan. Họ quên đi họ cũng đã tin rất nhiều thứ không thấy và không hiểu được; chẳng hạn như: tin lịch sử, giòng điện, gió hay hơi thở. Khi tin những điều này, họ dựa vào thế giá của các nhân chứng hay hiệu quả của những gì họ không thấy được. Trong lãnh vực niềm tin cũng thế, con người tin không phải vì đã thấy Chúa; nhưng vì đã nhìn thấy hiệu quả của uy quyền và tình yêu của Ngài trong vũ trụ, qua đời sống của các chứng nhân, hay cảm nghiệm của chính cá nhân họ trong cuộc đời.
Các bài đọc hôm nay nêu bật những sự kiện con người phải dựa vào để tin Thiên Chúa và Đức Kitô. Trong bài đọc I, tác giả Sách Công Vụ Tông Đồ nhấn mạnh đến việc tuy không thấy việc Chúa Giêsu Phục Sinh từ ngôi mộ hay nhìn thấy Ngài cách nhãn tiền; nhưng qua lời làm chứng của các tông đồ và những phép lạ các ông làm, rất nhiều người đã tin vào Ngài. Trong bài đọc II, tác giả Sách Khải Huyền ghi chép lại những gì ông đã thấy về những gì sắp xảy ra cho bảy giáo đoàn tại Tiểu Á. Mục đích là để các tín hữu của giáo đoàn xét mình, nhận ra những ưu và khuyết điểm để kịp thời sửa chữa. Trong Phúc Âm, tông đồ Thomas từ chối không tin vào lời chứng của 10 tông đồ và ông xác tín ông chỉ tin khi nhìn thấy Chúa Giêsu tận mắt. Chúa Giêsu hiện ra cho ông thấy tận mắt; nhưng khuyến cáo ông: chỉ tin khi thấy là điều tầm thường, nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân, nhờ bàn tay các tông đồ.

1.1/ Phêrô và các tông đồ làm cho nhiều người tin vào Đức Kitô: Bằng chứng rõ ràng nhất của sự Phục Sinh là sự thay đổi hầu như hoàn toàn nơi các tông đồ, từ những con người yếu đuối, nhát đảm, sợ sệt, chạy trốn trong Cuộc Thương Khó; nay các ông thành những người can đảm, mạnh dạn, và sẵn sàng làm chứng cho Chúa Giêsu, đến nỗi Thượng Hội Đồng cũng phải sợ các ông. Chứng kiến sự thay đổi và nghe những lời làm chứng của các ông, “càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa, cả đàn ông đàn bà rất đông.”
Chúa Giêsu đã thấy trước những hiệu quả này khi Ngài chọn, huấn luyện và sai các ông đi rao giảng và chữa lành ngay cả trước biến cố Phục Sinh (x/c Mt 10:7-9; Mk 3:13-15, 6:12-13, 16:17-18; Lk 9:1-2). Các môn đệ đã vâng lời ra đi và trở về tường thuật cho Ngài những kết quả họ thu nhận được. Sau biến cố Phục Sinh, họ ra đi với niềm tin được xác tín mạnh mẽ hơn, và hậu quả họ thu nhận được nhiều hơn.

1.2/ Phêrô và các tông đồ được Đức Kitô ban quyền chữa bệnh: Trừ quỉ và chữa lành là những gì Đức Kitô đã làm để khơi dậy niềm tin nơi khán giả, các tông đồ của Người cũng được trao quyền làm những phép lạ như vậy để khơi dậy niềm tin trong con người vào Đức Kitô.
Giống như Tin Mừng Nhất Lãm tường thuật sự kiện mọi người chen lấn nhau để mong chạm được gấu áo của Chúa Giêsu, tác giả Sách CVTĐ cũng tường thuật: “Người ta còn khiêng cả những kẻ đau ốm ra tận đường phố đặt trên giường trên chõng, để khi ông Phêrô đi qua, ít ra cái bóng của ông cũng phủ lên được một bệnh nhân nào đó. Nhiều người từ các thành chung quanh Jerusalem cũng lũ lượt kéo đến, đem theo những kẻ ốm đau cùng những người bị thần ô uế ám, và tất cả đều được chữa lành.”

2/ Bài đọc II: Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời.

2.1/ Các giáo đoàn cần trung thành với đức tin và những lời dạy dỗ của Đức Kitô.
Tục ngữ Việt Nam có câu để mô tả sự yếu đuối của con người: “Chầu lâu gối mỏi.” Sau thời gian nhiệt thành của giây phút ban đầu, nồng độ của đức tin và đức mến của các tín hữu sẽ từ từ suy giảm với thời gian; nhất là khi con người phải đương đầu thường xuyên với các cám dỗ của ba thù. Tác giả của Sách Khải Huyền được lệnh của Thiên Chúa trong thị kiến đầu tiên viết những lời cảnh giác cho bảy giáo đòan tại Tiểu Á. Mục đích là để giúp họ biết xét mình, nhận ra những tội lỗi và sửa chữa kịp thời; nếu không, họ sẽ phải chịu những kết quả của tội đem lại khi Đức Kitô đến lần thứ hai.
Đọc chi tiết những gì ông Gioan viết bảy Hội Thánh tại Tiểu Á: Êphêsô, Myrna, Pergamô, Thyatira, Sardis, PhiladelphiaLaodicea; chúng ta có thể nhận ra những cám dỗ của ba thù nơi chính chúng ta. Mọi người cần phải thường xuyên xét mình để nhận ra mức độ tin yêu họ dành cho Đức Kitô.

2.2/ Các danh xưng trong trình thuật muốnnói lên uy quyền của Đức Kitô:
- Ta là Đầu và là Cuối: Đức Kitô là khởi nguyên và là chung cuộc; không có gì có thể thay đổi được Ngài hay thay đổi những gì Ngài dạy dỗ. Người tín hữu cần trung thành với đức tin và những giáo huấn của Đức Kitô; chứ đừng chạy theo những hệ thống tư tưởng và trào lưu nhất thời của thế gian, kẻo phải lãnh nhận những thiệt hại cho bản thân, gia đình, và cộng đoàn.
- Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời: Đức Kitô vẫn đang sống trong các tín hữu và trong Giáo Hội qua sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Các tín hữu cần lắng nghe và tuân theo những gì Ngài hướng dẫn và dạy bảo.
- Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ: Đức Kitô có quyền trên cả sự chết ở đời này và sự chết đời đời. Người tín hữu không được sợ hãi và lùi bước trước bất cứ quyền lực nào của thế gian hay của quỉ thần. Họ chỉ cần vững tin vào Ngài là sẽ thắng vượt được tất cả các quyền lực này.

3/ Phúc Âm: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!"

3.1/ Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ không có ông Thomas: Theo Tin Mừng Gioan, các tông đồ đã được chuẩn bị để đón nhận Tin Mừng Phục Sinh bởi lời của các phụ nữ ra thăm mộ, và nhất là lời chứng của Mary Magdala về sự hiện ra của Chúa Giêsu với bà; nhưng các ông vẫn còn hồ nghi về những lời chứng của các phụ nữ.
Trong trình thuật hôm nay, Chúa Giêsu thân hành hiện đến với các tông đồ để kiện toàn niềm tin của các ông. Có ba sự kiện của lần hiện ra này chúng ta cần để ý:
(1) Chúa Giêsu Phục Sinh có thể đi qua cửa đang đóng kín: Trình thuật nói rõ: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em!"”
(2) Ngài mang một thân xác thật, chứ không phải là hồn người chết hay ảo ảnh: “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.” Mười môn đệ đều chứng kiến biến cố này một lúc; nên không ai có thể chối cãi lời chứng của họ được.
(3) Chúa Giêsu thổi hơi và ban Thánh Thần cho các tông đồ: “Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.” Trước khi chịu Thương Khó, Chúa Giêsu đã hứa sẽ không để các ông mồ côi, Người sẽ ban cho các ông một Đấng Bảo Trợ khác là Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu cũng đã mặc khải cho các ông về Thánh Thần như sau: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” Jn (16:13-14). Với sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong các tông đồ, các ông sẽ không còn chút nghi ngờ nào về sự phục sinh của Chúa Giêsu.

3.2/ Chúa Giêsu hiện ra với các Tông đồ có cả ông Thomas: Vì tông đồ Thomas không có mặt trong lần hiện ra trước, nên các tông đồ nói với ông: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa.” Tác giả dùng động từ của câu này ở thời “hoàn hảo” để chứng minh niềm tin hoàn hảo của các tông đồ.
Nhưng ông Thomas từ chối không tin lời của 10 nhân chứng; ông đòi niềm tin đặt căn bản trên thực nghiệm: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin."
“Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Thomas ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." Rồi Người bảo ông Thomas: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin."
Chúa Giêsu vẫn đi qua các cửa đóng kín như lần trước. Ông Thomas chắc phải lạnh người vì không ngờ tất cả những gì mình nói giờ đây được lặp lại từng chữ trên môi miệng của Chúa Giêsu. Vì thế, ông Thomas sụp xuống thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" Nhiều tác giả đã phân tích câu tuyên xưng này và nêu bật niềm tin của Thomas: ông không những tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa, mà còn là Thiên Chúa của ông nữa.

3.3/ Niềm tin không dựa trên những gì trông thấy còn tốt hơn: Con người tin vì nhiều cách khác nhau như nhìn thấy tận mắt, hay cảm thấy hiệu quả, hay vì lời của một, hai, ba, hay nhiều nhân chứng. Chúa Giêsu xếp loại chỉ tin khi nhìn thấy tận mắt xuống dưới hàng tin khi không thấy qua lời Ngài tuyên bố với Thomas: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!"
Con người cần tin vào lời của Kinh Thánh hay lời của các chứng nhân, như tác giả của Tin Mừng thứ bốn viết: “Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Đức Kitô Phục Sinh là căn bản của niềm tin chúng ta; vì thế, chúng ta cần học hỏi và làm mọi các để hiểu rõ niềm tin này.
- Chúng ta cần giữ vững niềm tin Phục Sinh trong cuộc đời, nhất là những khi bị cám dỗ và chịu bách hại bởi ba thù.
- Thấy và tin là mức độ thấp nhất trong tiến trình đức tin. Chúng ta cần lắng nghe tiếng của Chúa Thánh Thần và tin vào lời các nhân chứng.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
6 THÁNG TƯ

Lớn Lên Trong Sự Mật Thiết Với Đức Kitô

Chúng ta cũng được mời gọi tin vào Đức Kitô qua lời rao giảng của Giáo Hội. Trong tư cách là thân thể của Đức Kitô, chúng ta được mời gọi loan truyền cái chết cứu độ, cuộc Phục Sinh của Người và sự hiện diện thường xuyên của Người ở giữa chúng ta. Chính Đức Giêsu đã bảo đảm với chúng ta: “Này, Thầy sẽ ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Đức tin không qui chiếu nhiều đến một sự kiện quá khứ cho bằng tuyên bố rằng Chúa hằng sống và đang hiện diện giữa chúng ta. Tiên vàn, nó có nghĩa một mối thân tình gắn bó với Đức Kitô. Chúng ta phải có một sự kết hiệp mật thiết với Người. Đức Kitô phải trở thành ngày càng cắm rễ sâu hơn nơi chúng ta.
Càng lớn lên hơn, chúng ta càng cần tin hơn. Vì thế, mục đích của chúng ta phải là trở nên mật thiết hơn với Đức Kitô và gìn giữ mối thân tình với Người. Rồi, Người sẽ định dạng cuộc sống chúng ta – qua đó, chúng ta sẽ càng kết hiệp với Người nhiều hơn, sẽ hiểu biết Người nhiều hơn, và với tình yêu và lòng trung thành đối với Người, chúng ta sẽ tiến lên trong hành trình của chúng ta.

- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 07-4: Chúa Nhật II Phục Sinh. Cuối Tuần Bát Nhật.
Chúa Nhật Về Lòng Thương Xót Của Thiên Chúa.
Cv 5, 12-16; Kh 1, 9-11a.12-13. 17-19; Ga 20, 19-31.


LỜI SUY NIỆM: Nói xong Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lãnh Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20,22-23)

Chúa Giêsu Phục Sinh, Ngài khởi đầu cho một sự tạo dựng mới. Trong Sách Sáng Thế. Thiên Chúa tạo dựng con người bằng Đất, con người được có sự sống khi Thiên Chúa thổi hơi của Ngải vào tạo vật bằng Đất ấy. Hôm nay những thân xác của các Tông đồ cũng được chính Chúa Giêsu thổi hơi của Ngài vào, các Tông đồ đã nhận lấy sự sống mới, sự sống siêu nhiên với quyền uy của Chúa Giêsu Phục Sinh, Ngài đã chịu chết để xóa tội trần gian, giờ đây Ngài thông ban quyền tha tội hay cầm giữ cho các môn đệ của Ngài; để nhân loại được sống.

Mạnh Phương


Gương các Thánh

Ngày 07-04: Thánh GIOAN LASAN
Linh Mục (1651 - 1719)


Thánh Gioan Lasan là bổn mạng của các nhà giáo dục, Ngài được thành công trong việc cung ứng một hệ thống giáo dục cho quảng đại quân chúng vào thời mà dân nghèo như bị bỏ rơi hoàn toàn. Nỗ lực của Ngài không phải chỉ trong việc mở trường mà là việc tạo lập nên một đoàn thể những nhà giáo dục được đào tạo chu đáo. Chính nỗ lực này đặt nền tảng bảo đảm cho sự thành công trong việc giáo dục.
Không phải khuynh hướng tự nhiên được đưa Ngài tới việc thực hiện công trình này. Thật vậy, hoàn cảnh gia đình với sự đào luyện từ thuở nhỏ khó có thể coi được là một chuẩn bị cho Ngài làm giáo dục. Sinh tại Reims ngày 30 tháng 4 năm 1651, Gioan Baotixita, là con trưởng trong một gia đình quý phái và được thừa hưởng địa vị lẫn gia tài của cha mẹ để lại. Những thứ này là vực ngăn cách Ngài với đám đông dân chúng nghèo khổ.
Vào tuổi 16, khi đang theo học ở Học viện dành cho trẻ em ưu tú (College des Bons enfants), thánh nhân được đặt làm kinh sĩ ở Reims. Sau đó Ngài tiếp tục theo học tại chủng viện Xuân Bích và đại học Sorbonne để làm linh mục. Ngài thụ phong linh mục năm 27 tuổi.
Cho đến lúc này, chưa có một yếu tố nào cho thấy rõ sứ mệnh tương lai của Ngài. Nhưng ít lâu sau, Ngài được chỉ định giúp vào việc lập trường ngay tại quê hương xứ sở mình. Việc này đặt Ngài và trách nhiệm săn sóc các giáo viên, dẫn Ngài tới chỗ đưa họ về nhà mình và đào luyện họ. Dần dần, Ngài hiểu rằng: Chúa quan phòng định cho Ngài làm dụng cụ kiến tạo một hệ thống giáo dục dành cho dân nghèo, lớp dân bị xỉ nhục trong "thế kỷ huy hoàng" vì sự hư dốn và ngu dốt của họ.
Chọn thánh ý Thiên Chúa làm nguyên tắc hứơng dẫn đời sống, Ngài quyết định hiến mình trọn vẹn cho công tác này. Ngài từ chức kinh sĩ, phân phát gia tài để mang lấy cũng một địa vị như các giáo viên Ngài chung sống. Làm như vậy Ngài làm cho những người đồng hương nặng đầu óc giai cấp tức giận. Nhưng điều ấy không thay đổi được quyết định của Ngài.
Năm 1684, Ngài biến đổi nhóm giáo viên của mình để thành một cộng đoàn an sĩ với danh hiệu Sư huynh. Các trường công giáo. Đây là nguồn gốc của hội dòng ngày nay, phổ biến rộng rãi khắp thế giới. Để giới hạn hội dòng riêng cho nỗ lực giáo dục, Ngài nhận định rằng: sư huynh nào làm linh mục, cũng như không nhận một linh mục nào vào dòng. Luật này ngày nay vẫn còn được áp dụng.
Những năm đầu, hội dòng rất nghèo khổ và cực nhọc. Tuy nhiên thánh nhân vẫn kiên quyết chịu đựng và vững tin ở Chúa quan phòng. Người nói với những người lo âu : - Tại sao mà không tin tưởng ? Chúa thà làm phép lạ còn hơn để cho chúng ta phải thiếu thốn.
Mối quan tâm chính của Ngài là đào luyện đạo đức và nghiệp vụ cho anh em. Nhưng, thấy không thể thỏa mãn được mọi đòi hỏi của giáo viên nếu không huấn luyện giáo viên, năm 1678 Ngài lập ở Reims một học viện cho khoảng 40 trẻ. Lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục có một cơ sở giáo dục như vậy.
Sau khi lập trường ở những thành phố lân cận, năm 1683, Ngài coi sóc một trường ở xứ Thánh Xuân Bích (Sulpice), là nơi Ngài đặt bản doanh của mình. Tại thủ đô công trình lan rộng mau lẹ. Ngài lập thêm một trường đào tạo nữa với một trường miễn phí cho các bạn trẻ đã đi làm việc. Khi vua Giacôbê III trao phó cho Ngài săn sóc các thiếu niên Ai Nhĩ Lan, Ngài đã dành cho họ các giảng khoá đặc biệt theo nhu cầu của họ.
Mục đích tốt đẹp của Ngài bị chống đối bởi những giáo viên trường nhỏ, vì mất học sinh và học phí. Họ kiện cáo Ngài. Trường của Ngài bị cướp phá. Ngài bị kết án và bị cấm không được mở trường đào luyện miễn phí ở phạm vi Paris. Dĩ nhiên Ngài cũng bị trục xuất khỏi thủ đô một thời. Nhưng công trình của Ngài đã lan rộng sang nhiều nơi khác và những cấm đoán kia không thể phá hủy nổi.
Rouen, Ngài đã lập hai cơ sở quan trọng: một trường nội trú phải trả học phí, cho học sinh miền quê muốn hiến thân, và một trường phục hồi cho những trẻ em bụi đời. Cả hai đều rất thành công. Cha Gioan Baotixita trải qua những năm cuối đời ở Rouen để kiện toàn thành tổ chức, viết luật dòng chờ các sư huynh và hai tác phẩm Meditations (nguyện ngắm), Methode de la prière mentale (Phương pháp thực hành tâm nguyện)
Ngài từ trần ngày thứ sáu tuần thánh 09 tháng 04 năm 1719.


07 Tháng Tư

Bình An Trong Tâm Hồn

Purna, một môn đệ của Ðức Thích Ca, xin thầy được phép đi đến Sronapa-Ranta, một vùng còn bán khai để tiếp tục tu luyện và truyền đạo. Nhân lời xin này, người ta ghi lại cuộc đối thoại giữa hai thầy trò như sau: Ðức Thích Ca cho biết ý kiến: "Nhân dân vùng Sronapa-Ranta còn rất man di. Họ nổi tiếng thô bạo và tàn ác. Bẩm tính của họ là hiếu chiến, thích gây sự, thích cãi vã, đánh nhau và làm hại kẻ khác. Lúc đến đó, nếu họ nghi kỵ con, dùng những lời thô bạo để nói xấu, mắng chửi và vu khống con, con sẽ nghĩ thế nào?". Purna thưa: "Nếu thật sự xảy ra như vậy, thì con nghĩ là: dân chúng tại đây thật tốt lành và thân thiện, vì họ chỉ lăng mạ con chứ không dùng vũ lực, không đánh đập hay ném đá con". Ðức Thích Ca tiếp lời: "Nhưng nếu họ hành hung và dùng đá ném con, thì con sẽ nghĩ thế nào?". Purna thưa: "Trong trường hợp đó, con vẫn nghĩ dân chúng vùng Sronapa-Ranta thật tốt lành và thân thiện, vì họ không cột con vào cột để đánh đòn và không dùng khí giới sắc bén để sát hại con".
Nghe môn đệ xác quyết như thế, Ðức Phật không khỏi ngạc nhiên; Ngài hỏi tiếp: "Nhưng nếu họ thật sự ra tay giết con, con nghĩ thế nào trước khi nhắm mắt lìa đời?". Không cần suy nghĩ lâu, Purna đáp: "Nếu họ hại đến tính mạng con, con vẫn nghĩ họ là những người tốt lành và thân thiện, vì họ muốn giải thoát con khỏi thân xác hay hư nát này". Nghe đến đây, Ðức Thích Ca bảo: "Purna, con đã tu tâm dưỡng tính đến nơi đến chốn để có được sự ôn hòa, kiên nhẫn hơn người. Thầy nghĩ con có thể sinh sống và truyền đạo cho dân Sronapa-Ranta. Hãy ra đi và giúp họ dần dần giải thoát khỏi bẩm tính hiếu chiến và bất nhân như chính con đã tự giải thoát mình khỏi những thiên kiến và những ý nghĩ hận thù, ghen ghét".
Thiết nghĩ tự tạo cho mình sự bình an trong tâm hồn là bổn phận của Kitô hữu chúng ta. Và theo kinh nghiệm của tu sĩ Purna trong câu chuyện trên, để tạo cho mình nền hòa bình này, chúng ta phải cố gắng tự giải thoát mình khỏi mọi thiên kiến, nghi kỵ cũng như hằng ngày phải thanh luyện tâm hồn khỏi những ý nghĩ hận thù, ghen ghét.

(Lẽ Sống)
7-4

Thánh Gioan La San

(1615 - 1719)

Cố gắng chu toàn những gì được coi là thánh ý Thiên Chúa, đó là cuộc đời của Thánh Gioan La San. Năm 1950, Ðức Giáo Hoàng Piô XII đặt ngài làm quan thầy của các bậc mô phạm vì nỗ lực của ngài trong việc giáo dục.
Là một người trẻ của thế kỷ 17, Gioan có tất cả mọi sự: năng khiếu học thuật, đẹp trai, gia đình quyền quý giầu có và được giáo dục tử tế. Nhưng khi mới 11 tuổi, ngài xuống tóc đi tu làm linh mục, và sau đó được chịu chức vào năm 27 tuổi. Dường như một cuộc đời dễ dàng với phẩm trật cao trọng trong Giáo Hội đang sẵn sàng chờ đón ngài.
Nhưng Thiên Chúa đã có những chương trình khác cho Cha Gioan, mà dần dà mới được tỏ lộ trong những năm sau đó. Trong một cơ hội gặp gỡ ông Nyel ở Raven, ngài cảm thấy muốn thiết lập một trường học dành cho các em trai nhà nghèo ở Raven, là nơi ngài đang sinh sống. Mặc dù công việc lúc đầu thật ghê tởm đối với ngài, nhưng sau đó, càng ngày ngài càng say mê hoạt động cho các thiếu niên nghèo túng.
Tin rằng đây là sứ vụ mà Thiên Chúa đã trao phó, Cha Gioan hết lòng lao mình vào công việc, bỏ nhà, bỏ gia đình, bỏ cả chức vụ kinh sĩ ở Rheims, bán hết tài sản để trở nên giống như các người nghèo mà ngài đã tận hiến cuộc đời để phục vụ họ.
Cuộc đời còn lại của Cha Gioan là sống sát với tu hội mà ngài đã thành lập, Các Thầy Trường Công Giáo (Sư Huynh La San). Tu hội này phát triển mau chóng và thành công trong việc giáo dục các nam thiếu niên của gia đình nghèo với phương pháp sư phạm mà Cha Gioan đề ra, đó là sự dạy dỗ cả lớp thay vì chỉ bảo cá nhân, và dùng tiếng bản xứ thay vì tiếng Latinh. Ðồng thời tu hội cũng còn mở trường huấn luyện các giáo chức và thiết lập trường nội trú cho các thiếu niên ngỗ nghịch của các gia đình giầu có. Yếu tố năng động đằng sau các nỗ lực này là mong muốn các thiếu niên trở nên một Kitô Hữu tốt lành.
Mặc dù rất thành công, Cha Gioan cũng không thoát khỏi những thử thách, đó là sự đau lòng khi các sư huynh bỏ dòng, sự chống đối cay đắng từ các hiệu trưởng ngoài đời khi họ bực bội với phương pháp giáo dục mới và hữu hiệu của ngài, cũng như thường xuyên bị phe Jansen (*) thời ấy chống đối mà Cha Gioan kịch liệt phản đối lý thuyết của phe này trong suốt cuộc đời.
Trong những năm cuối đời, vì bị bệnh suyễn và thấp khớp, ngài từ trần vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh khi được 68 tuổi, và được Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII phong thánh năm 1900.

Lời Bàn

Thật hiếm có ai hoàn toàn tận hiến cho ơn gọi của Thiên Chúa, bất kể ơn gọi đó là gì. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta "hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và hết sức lực của mình" (Mc 12:30b). Thánh Phaolô cũng có lời khuyên tương tự: "Bất cứ những gì anh chị em làm, hãy làm hết lòng..." (Colossians 3:23).

Lời Trích

"Còn gì cao quý hơn là uốn nắn tính tình của các người trẻ? Tôi tin rằng người biết uốn nắn tâm tính của giới trẻ thì cao trọng hơn mọi họa sĩ, điêu khắc gia và tất cả những người giống như vậy" (Thánh Gioan Chrysostom).
* Jansen xuất phát từ học thuyết của Cornelius Jansen (1585 - 1638), giám mục của Ypres. Trong cuốn Augustinus, Jansen đề xướng nền thần học dựa trên học thuyết của Augustine về định mệnh. Thần học này khẳng định rằng loài người hoàn toàn hư hỏng vì tội nguyên tổ và theo bản năng, loài người thích làm sự dữ hơn sự lành. Bởi bản tính suy đồi, loài người không thể làm gì khác để đáng được ơn cứu độ. Sự cứu chuộc là do ơn của Chúa mà Ngài chỉ ban cho những ai được chọn. Phần đông nhân loại là bị án phạt đời đời.
Sau khi xuất bản được hai năm, cuốn Augustinus đã bị Giáo Hội Công Giáo lên án và cấm phát hành bởi Ðức Giáo Hoàng Urbanô VIII.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét