07/06/2017
Thứ Tư tuần 9 thường niên.
Bài Ðọc I: (Năm I) Tb
3, 1-11. 24-25 (Hl 1-11. 16)
"Lời cầu nguyện
của hai người trước tôn nhan vinh quang của Thiên Chúa Cao Cả, được chấp nhận".
Trích sách Tôbia.
Trong những ngày ấy,
Tôbia thổn thức và khóc lóc cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, Chúa công bình, mọi
sự xét đoán của Chúa đều công minh, mọi đường lối của Chúa là từ bi, chân lý và
phán quyết. Lạy Chúa, giờ đây xin hãy nhớ đến con, xin đừng báo oán tội lỗi con,
xin đừng nhớ đến những lỗi lầm của con và của cha ông con. Bởi chúng con đã
không vâng theo các giới răn của Chúa, nên Chúa để cho chúng con bị cướp bóc,
tù đày, chết chóc, nhạo báng, và khinh bỉ nơi các dân mà chúng con bị lưu đày.
Lạy Chúa, giờ đây sự xét xử của Chúa thật cao cả và công bình, vì chúng con
không sống theo giới răn Chúa, và không thành tâm tiến bước trước thánh nhan
Chúa. Lạy Chúa, giờ đây xin cứ đối xử với con theo thánh ý Chúa, và xin hãy cho
linh hồn con được an nghỉ; vì thà con được chết còn hơn sống!"
Cũng trong ngày đó, xảy
ra là Sara, con gái của Raguel, người thành Mêđi, cũng bị một đứa đầy tớ gái của
cha cô lăng mạ, bởi vì cô đã kết hôn với bảy người đàn ông, nhưng khi họ vừa đến
gần cô, thì bị quỷ Asmođêô giết chết ngay. Vậy khi một đứa tớ gái có lỗi, cô quở
mắng nó, nó liền trả lời rằng: "Ðồ sát chồng, chúng tôi sẽ không nhìn thấy
con trai con gái của bà trên mặt đất này. Nào bà muốn giết tôi như đã giết bảy
người chồng của bà đó sao?" Nghe lời đó, cô liền đi thẳng lên lầu nhà cô,
và trong ba ngày đêm, cô không ăn uống gì cả, cô chỉ cầu nguyện, khóc lóc than
van cùng Thiên Chúa, mong Người cứu thoát cô khỏi cảnh nhục nhã ấy.
Lúc ấy, lời cầu nguyện
của hai người trước tôn nhan vinh quang của Thiên Chúa Cao Cả, được chấp nhận.
Chúa liền sai thiên thần Raphael đến để cứu giúp hai người trong chính lúc họ
dâng lời cầu nguyện lên trước tôn nhan Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 24, 2-4a.
4b-5ab. 6-7bc. 8-9
Ðáp: Lạy Chúa, con vươn linh hồn lên tới Chúa (c. 1b).
Xướng: 1) Con tin cậy
vào Chúa, xin đừng để con tủi hổ. Xin đừng để quân thù hoan hỉ về con. Phàm ai
trông cậy Chúa, ắt chẳng hổ ngươi, hổ ngươi sẽ là những kẻ liều thân phản bội.
- Ðáp.
2) Lạy Chúa, xin chỉ
cho con đường đi của Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Ngài. Vì Chúa là
Thiên Chúa cứu độ con, và con luôn luôn cậy trông vào Chúa. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, xin hãy
nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ
con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. -
Ðáp.
4) Chúa nhân hậu và
công minh, vì thế Ngài sẽ dạy cho tội nhân hay đường lối, Ngài hướng dẫn kẻ
khiêm cung trong đức công minh, dạy bảo người khiêm cung đường lối của Ngài. -
Ðáp.
Alleluia: Tv 129, 5
Alleluia, alleluia! -
Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 12, 18-27
"Người không
phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, có ít người
phái Sađốc đến cùng Chúa Giêsu; phái này không tin có sự sống lại và họ hỏi Người
rằng: "Thưa Thầy, luật Môsê đã truyền cho chúng tôi thế này: Nếu ai có anh
em chết đi, để lại một người vợ không con, thì hãy cưới lấy người vợ goá đó để
gây dòng dõi cho anh em mình. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ rồi chết
không con. Người thứ hai lấy người vợ goá và cũng chết không con, và người thứ
ba cũng vậy, và cả bảy người không ai có con. Sau cùng người đàn bà ấy cũng chết.
Vậy ngày sống lại, khi họ cùng sống lại, thì người đàn bà đó sẽ là vợ của người
nào? Vì cả bảy anh em đã cưới người đó làm vợ". Chúa Giêsu trả lời rằng:
"Các ông không hiểu biết Kinh Thánh, cũng chẳng hiểu biết quyền phép của
Thiên Chúa, như vậy các ông chẳng lầm lắm sao? Bởi khi người chết sống lại, thì
không lấy vợ lấy chồng, nhưng sống như các thiên thần ở trên trời. Còn về sự kẻ
chết sống lại, nào các ông đã chẳng đọc trong sách Môsê chỗ nói về bụi gai, lời
Thiên Chúa phán cùng Môsê rằng: "Ta là Chúa Abraham, Chúa Isaac và Chúa
Giacóp". Người không phải là Thiên Chúa kẻ chết, mà là Thiên Chúa kẻ sống.
Vậy các ông thật lầm lạc".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Có sự sống lại
Tin Mừng hôm nay mô tả
cuộc đụng độ đầu tiên giữa Chúa Giêsu và nhóm người Sađốc. Những người Sađốc
thuộc về hàng tư tế quí tộc. Về mặt chính kiến, họ theo bọn xâm lược. Về mặt
tôn giáo, họ rất bảo thủ. Ðối với họ, lề luật phải tuân theo chỉ có trong năm
cuốn sách đầu tiên của Bộ Kinh Thánh. Họ phi bác mọi giáo thuyết xuất hiện sau
này do các tiên tri và các bậc trí giả giảng dạy, chẳng hạn việc kẻ chết sống lại.
Do đó chẳng có gì ngạc nhiên khi họ tấn công Chúa Giêsu về vấn đề này.
Thật thế, dựa vào niềm
tin mà họ cho là đúng đắn, những người Sađốc bắt đầu hỏi Chúa Giêsu bằng bộ luật
Môsê, theo đó khi người chồng chết, nếu người vợ anh ta chưa có con, thì người
anh (hoặc em) chồng phải cưới bà này để nối dõi tông đường.
Họ đặt ra trường hợp một
người đàn bà có bảy đời chồng, vào lúc sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong bảy
người anh em vì tất cả đã lấy bà làm vợ? Những người Sađốc hỏi thế, không phải
vì thành tâm tìm kiếm để sống theo sự thật, mà chỉ để đùa giỡn với sự thật mà
thôi.
Chúa Giêsu biết rõ họ
ngoan cố và cố ý thử thách Ngài, nhưng Ngài vẫn điềm tĩnh và chỉ cho họ thấy sự
dốt nát lầm lẫn của họ: Thứ nhất, họ thiếu hiểu biết Kinh Thánh và quyền năng của
Thiên Chúa; thứ hai, hoàn cảnh con người sau khi sống lại hoàn toàn thay đổi,
không giống như lúc còn sống ở trần gian này. Chúa Giêsu nói rõ có sự sống lại,
nhưng sở dĩ họ không tin là vì họ thiếu hiểu biết Kinh Thánh. Thật thế, trong
sách Môsê, đoạn nói về bụi gai, Thiên Chúa phán: "Ta là Chúa của Abraham,
Chúa của Isaac, Chúa của Yacob", Ngài không là Chúa của kẻ chết, mà là của
kẻ sống. Hơn nữa, nếu Thiên Chúa đã phán một lời liền có mọi sự, chẳng lẽ Ngài
không thể làm cho kẻ chết sống lại sao? Sự sống và sự chết đều do Thiên Chúa,
vì thế sự sống lại cũng thuộc về Thiên Chúa. Lại nữa, khi sống lại từ cõi chết,
thân xác con người được biến đổi hoàn toàn, nó sẽ giống như các thiên thần, giống
như Chúa Kitô Phục Sinh, nên không còn phải chết và cũng chẳng phải dựng vợ gả
chồng nữa.
Từ khi Chúa Giêsu mạc
khải về sự thật này, biết bao người đã tin vào Thiên Chúa và đã sống trọn vẹn với
niềm tin đó; biết bao người đã can đảm sống sự thật được mạc khải, dù phải hy
sinh mạng sống, dù phải từ bỏ mọi danh lợi trần gian. Ðó là gương của những vị
anh hùng tử đạo qua bao thế hệ nơi các dân tộc.
Nguyện xin Chúa soi
lòng mở trí chúng ta hiểu biết và mộ mến Lời Chúa dạy trong sách Kinh Thánh, để
chúng ta am tường các mầu nhiệm của Chúa và thực thi thánh ý Chúa. Xin cho
chúng ta trân trọng sự sống, trau dồi cuộc sống tại thế tốt đẹp để được sống đời
đời với Chúa.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Tư Tuần 9 TN1,
Năm lẻ
Bài đọc: Tob
3:1-11, 16; Mk 12:18-27.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Có sự sống lại và cuộc sống đời
sau.
Niềm tin vào sự sống lại và cuộc sống đời sau là một mặc khải tiệm tiến. Mặc dù
đã có tiềm ẩn trong Cựu Ước; nhưng chỉ với mặc khải của Chúa Giêsu và sự sống lại
của Ngài, niềm tin này mới rõ ràng và chắc chắn hơn.
Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta thấy sự nhầm lẫn và đau khổ của con người khi
không có niềm tin này. Trong Bài Đọc I, cả ông Tobit và cô Sarah đều cầu nguyện
xin Thiên Chúa cho họ chết đi, vì không chịu nổi những đau khổ và nhạo báng xảy
đến cho họ trong cuộc đời. Trong Phúc Âm, khi những người Sadducees muốn dùng Lề
Luật để chứng minh không có sự sống lại, Chúa Giêsu đã mặc khải rõ ràng về có sự
sống lại qua lời Thiên Chúa nói với Moses trong Xuất Hành 3:6, và thân xác phục
sinh của con người sẽ không còn phải chịu ảnh hưởng của các định luật vật lý nữa,
và họ sẽ sống như các thiên thần trên trời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Sự quan phòng của Thiên Chúa
1.1/ Trường hợp của ông
Tobit: Có hai lý do làm ông u sầu: thứ nhất,
vì ông phải chứng kiến và chịu quá nhiều những đau khổ: bị cướp phá tàn nhẫn bởi
Dân Ngoại, bị lưu đày, bị mù; thứ hai, bị châm biếm bởi kẻ thù, và nhất là chịu
mỉa mai từ người vợ của mình. Ông không dám trách Thiên Chúa, vì ông biết đó là
hậu quả của việc xúc phạm đến Ngài từ cha ông, và ngay cả từ chính cá nhân ông:
"Vâng, các phán quyết của Ngài thì nhiều và chân thật; Ngài đối xử như thế
với con vì tội lỗi con, bởi chúng con đã không thi hành mệnh lệnh Ngài và đã chẳng
sống theo chân lý trước nhan Ngài."
Vì không có niềm tin vào sự sống lại và cuộc sống đời sau, nên ông Tobit không
tìm được một lý do nào để tiếp tục sống giữa bao đau khổ và nhạo cười; nên ông
nghĩ chỉ còn một cách: xin Thiên Chúa chấm dứt cuộc đời trên cõi dương gian:
"Xin truyền rút sinh khí ra khỏi con, để con biến khỏi mặt đất và trở
thành bụi đất. Quả thật, đối với con, chết còn hơn sống, vì con đã nghe những lời
nhục mạ dối gian khiến con phải buồn phiền quá đỗi. Lạy Chúa, xin truyền lệnh
cho con được giải thoát khỏi số kiếp gian khổ này. Xin để con ra đi vào cõi đời
đời. Lạy Chúa, xin đừng ngoảnh mặt không nhìn con. Quả thật, đối với con, thà
chết còn hơn là suốt đời phải nhìn thấy bao nhiêu gian khổ, và phải nghe những
lời nhục mạ."
1.2/ Trường hợp của cô
Sarah: Có hai lý do làm cô u sầu: thứ nhất,
cô đã 7 lần lấy chồng, nhưng người chồng nào cũng chết yểu bởi quỉ Asmodeus; thứ
hai, cô bị đầy tớ châm biếm là "đồ sát phu!" và nguyền rủa cho cô
cũng bị chết theo những người chồng đó. Vì không có niềm tin vào sự sống lại và
cuộc sống đời sau, nên cô định lên lầu thắt cổ tự tử; nhưng cô nghĩ đến người
cha sẽ phải chịu đau khổ: Người ta sẽ nhục mạ cha cô và châm biếm: "Ông chỉ
có một cô con gái yêu quý, thế mà vì bạc phận, cô đã thắt cổ tự tử! Như vậy,
tôi sẽ làm cho tuổi già của cha tôi phải buồn phiền đi xuống âm phủ. Nên tốt
hơn là tôi đừng thắt cổ tự tử, mà phải cầu xin Chúa cho tôi chết đi, để đời tôi
không còn phải nghe những lời nhục mạ nữa." Nghĩ như thế, cô dang hai tay
về phía cửa sổ, cầu nguyện rằng: "Chúc tụng Chúa, lạy Thiên Chúa từ nhân!
Chúc tụng danh Chúa đến muôn đời, và mọi công trình của Chúa phải chúc tụng
Ngài muôn muôn thuở."
Sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa: "Ngay lúc ấy, lời cầu xin của hai
người là Tobit và Sarah đã được đoái nghe trước nhan vinh hiển của Thiên
Chúa."
2/ Phúc Âm: Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ
sống.
2.1/ Bẫy giăng của những
người Sadducees: Đây là những người thuộc
nhóm thống trị và giàu có của Do-thái. Chức Thượng-tế thường đến từ nhóm người
này. Khác với Pharisees là những người tin cả vào luật bất thành văn và truyền
thống, họ chỉ tin vào luật thành văn, và chú trọng ưu tiên cho Bộ Ngũ Thư. Họ
không tin có sự sống lại, thiên thần, và các thần khí. Trong trình thuật hôm
nay, họ muốn dùng Lề Luật của Moses để chứng minh không có sự sống lại. Theo
Sách Đệ Nhị Luật 25:5-6, "Khi có những anh em ở chung với nhau, và một
trong những người đó chết mà không có con trai, thì vợ của người chết không được
lấy một người xa lạ, ngoài gia đình; một người anh em chồng sẽ đến với nàng, lấy
nàng làm vợ và chu toàn bổn phận của một người anh em chồng đối với nàng. Đứa
con đầu lòng nàng sinh ra sẽ duy trì tên của người anh em đã chết; như vậy tên
của người chết sẽ không bị xoá khỏi Israel."
Dựa trên khoản luật này, họ nghĩ ra một trường hợp không thực tế cho lắm để thử
Chúa. Họ hỏi Người: "Thưa Thầy, ông Moses có viết cho chúng ta rằng:
"Nếu anh hay em của người nào chết đi, để lại vợ mà không để lại con, thì
người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình." Vậy có
bảy anh em trai. Người thứ nhất lấy vợ, nhưng chết đi mà không để lại một đứa
con nối dòng. Người thứ hai lấy bà đó, rồi cũng chết mà không để lại một đứa
con nối dòng. Người thứ ba cũng vậy. Cả bảy người đều không để lại một đứa con
nối dòng. Sau cùng, người đàn bà cũng chết. Trong ngày sống lại, khi họ sống lại,
bà ấy sẽ là vợ của ai trong số họ? Vì bảy người đó đã lấy bà làm vợ."
2.2/ Câu trả lời của Chúa
Giêsu: gồm 2 phần chính:
(1) Thân xác phục sinh khác với thân xác trần thế: Thân xác phục sinh sẽ không
bị chi phối bởi các định luật vật lý mà con người đang chịu bây giờ; vì thế,
"khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng
sẽ giống như các thiên thần trên trời." Sách Enoch cũng đã từng nói:
"Các anh sẽ có nguồn vui vĩ đại như các thiên thần trên trời." Sách
Khải Huyền của Baruch cũng nói: "người công chính sẽ được tạo thành như
thiên thần trên trời."
(2) Chúa Giêsu dùng chính những gì người Sadducees tin để chứng minh có sự sống
lại: Trong Sách Xuất Hành 3:6, nói về thị kiến từ bụi gai của Moses, mà Chúa
Giêsu trưng dẫn hôm nay, Thiên Chúa đã mặc khải cho ông Moses: "Ta là
Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, và Thiên Chúa của Jacob."
Chúa Giêsu thêm: "Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của
kẻ sống." Điều này chứng tỏ các Tổ-phụ, Abraham, Isaac, và Jacob, đang sống;
vì thế, những người Pharisees đã lầm to khi không tin có sự sống lại.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta cần cố gắng tìm hiểu cho biết thấu đáo mọi sự để niềm tin của chúng
ta được vững chắc. Một sự hiểu biết lờ mờ sẽ dẫn chúng ta đến chỗ khủng hoảng đức
tin, và sống phất phơ như liễu trước gió.
- Chúng ta biết chắc Thiên Chúa sẽ công bằng phán xét và trả cho mỗi người tùy
theo công phúc và tội họ đã làm khi còn sống ở đời này. Bổn phận của chúng ta
là cố gắng chu toàn thánh ý Chúa và sống ngay thật mọi ngày trong cuộc đời.
- Niềm tin vào sự sống lại và cuộc sống đời sau là chân lý căn bản của đức tin
Kitô Giáo. Niềm tin này đã từng được mặc khải cách tiềm ẩn trong Cựu Ước, nhưng
đã được mặc khải cách minh bạch và rõ ràng bởi Chúa Giêsu và sự phục sinh vinh
hiển của Ngài.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
Mc
12,18-27
CÕI
PHÚC THẬT
“Khi người ta từ cõi chết sống lại, thì
chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời.” (Mc 18,25)
Suy
niệm: Khi nói đến chuyện đời
sau, người ta thường quan niệm “dương sao, âm vậy”: đời này có nhà cửa xe cộ, có
ăn uống, dựng vợ gả chồng thì đời sau cũng y như vậy. Nếu đã như thế thì hẳn
chẳng cần đến đời sau nữa; nhất nữa là nếu ở đời sau lại xảy ra những cảnh
“tréo ngoe” như câu chuyện một chị lần lượt cưới cả bảy anh em, sang đời sau
chẳng biết là vợ của người nào. Đó là chiến thuật mà những người phái Xa-đốc
dùng để phủ nhận sự sống lại và cuộc sống đời sau: đặt ra những vấn nạn không
có trên thực tế và coi cuộc sống đời sau dưới lăng kính của cuộc sống đời này.
Sự sống đời đời là một thực tại có thật, là hạnh phúc vô biên so với cuộc đời
tạm này. Chúa Giê-su mô tả đó là cuộc sống “như các thiên thần trên
trời;” thánh Phao-lô thì nói “gieo xuống thì hư nát, mà trỗi
dậy thì bất diệt” (1Cr 15,42-43).
Mời Bạn đến
với Chúa Ki-tô phục sinh và chiêm ngắm những dấu đinh nơi thân xác vinh quang
của Ngài để xác tín niềm tin vào sự sống lại và sự sống đời sau, cùng cảm
nghiệm được niềm hạnh phúc khi được sống kết hợp với Ngài. Có Chúa Ki-tô phục
sinh, hạnh phúc thiên đàng đã bắt đầu thành hiện thực cho bạn ngay ở trần gian
này.
Sống Lời Chúa: Siêng
năng kết hiệp với Chúa Giê-su Thánh Thể để cảm nghiệm được hạnh phúc thiên đàng
ngay từ bây giờ.
Cầu nguyện: Lạy
Chúa, Chúa là niềm hạnh phúc đích thực của con. Xin cho con biết mang trái tim
yêu thương của Chúa để con cũng đem hạnh phúc đến cho anh chị em con. Amen.
(5 phút Lời Chúa)
Thiên Chúa của kẻ sống (7.6.2017 – Thứ tư Tuần 9 Thuờng niên)
Chúng ta tuyên xưng có sự sống đời sau qua kinh Tin Kính. Nhưng sống niềm tin ấy giữa thế giới vật chất và vô tín là điều không dễ.
Suy niệm:
Khi được hỏi về cuộc sống
mai hậu,
Đức Khổng Tử đã trả lời
đại khái như sau:
chuyện đời này còn chưa
nắm hết, nói gì đến chuyện đời sau.
Nhưng chuyện đời sau vẫn
là thao thức muôn thuở của con người.
Con người muốn biết sau
cuộc sống ngắn ngủi này, mình sẽ đi về đâu.
Đi mà không rõ đích đến
thì sẽ đi lông bông vô định.
Tiếc là có người đã tin
rằng chẳng có gì sau cái chết!
Nhóm Xađốc cũng thuộc
hạng người trên.
Họ là những tư tế Do thái
giáo bảo thủ, không chấp nhận các ý tưởng mới
như chuyện người chết
sống lại hay sự hiện hữu của các thiên thần.
Trong Kinh Thánh, họ chỉ
dựa vào Ngũ Thư, trong đó có sách Đệ nhị luật.
Sách này có nói đến
chuyện một người trong họ hàng gần (Đnl 25, 5-10),
phải lấy bà vợ góa không
con của anh em mình, để có người nối dõi.
Nhóm Xađốc đã đưa ra một
trường hợp hãn hữu và buồn cười (cc. 20-23),
để cho thấy chuyện sống
lại là vô lý, và Môsê cũng chẳng tin chuyện đó.
“Khi sống lại, bà ấy sẽ
là vợ của ai? Vì cả bảy người đều đã lấy bà làm vợ.”
Đức Giêsu đã nặng lời chê
các tư tế trong nhóm này (c. 24).
Họ đã hiểu cuộc sống đời
sau như một thứ kéo dài cuộc sống hiện tại,
nơi đó người ta vẫn cưới
vợ, lấy chồng, vẫn sinh con đẻ cái.
Đức Giêsu cho thấy một bộ
mặt khác hẳn của đời sau.
Người được sống lại là
người bước vào cuộc sống hoàn toàn mới.
Họ sống “như các thiên
thần trên trời” (c. 25),
nghĩa là sống trọn vẹn
cho việc phụng sự Thiên Chúa,
với một thân xác đã được
biến đổi nên giống thân xác Đấng phục sinh.
Nhưng đừng hiểu thiên
đàng là nơi mất đi sự ấm áp của tình người.
“Hôm nay anh sẽ được ở
với tôi trên thiên đàng” (Lc 23, 43).
“Thầy đi dọn chỗ cho anh
em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14,3).
Tình yêu với Thầy Giêsu
và những mối dây thân ái giữa người với người,
chẳng có gì bị phá vỡ,
nhưng trở nên hoàn hảo vững bền.
Người ta sẽ không cưới
hỏi hay sinh con,
nhưng tình nghĩa vợ chồng
được nâng lên một bình diện mới.
Đức Giêsu trưng dẫn sách
Xuất hành để minh chứng có sự sống lại.
Thiên Chúa nhận mình là
Thiên Chúa của các tổ phụ Ítraen (Xh 3,15).
Mà người Do thái tin là
Ngài không gắn mình với các anh hùng đã chết.
Vậy Abraham, Ixaác và
Giacóp phải là những người đang sống,
nghĩa là những người đã
chết và đã được phục sinh.
Chúng ta tuyên xưng có sự
sống đời sau qua kinh Tin Kính.
Nhưng sống niềm tin ấy
giữa thế giới vật chất và vô tín là điều không dễ.
Chỉ xin cho vất vả lo
toan đời này không làm ta quên đời sau.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng,
khoái lạc
là những điều hấp dẫn
chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự
do ngước lên cao
để sống cho những giá trị
tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho
tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần
nào
sự phong phú của kho tàng
trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn
và vui tươi
bán tất cả những gì chúng
con có,
để mua được viên ngọc quý
là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không
bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi
của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu
thương
Chúa dành cho từng người
trong chúng con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
7 THÁNG SÁU
Ngài Tạo Nên Con
Người
Có Nam Có Nữ
“Thiên Chúa sáng tạo
con người theo hình ảnh mình; Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên
Chúa; Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,27). Người nam và người
nữ được tạo dựng với phẩm giá bình đẳng trong tư cách là những ngôi vị chia sẻ
cùng một sự duy nhất của tinh thần và thể xác. Tuy nhiên, họ khác nhau về thể
lý và về tâm lý. Thực vậy, hữu thể con người mang dấu vết của cả nam tính lẫn nữ
tính.
Đó là một dấu vết khác
biệt, song đó cũng là một dấu vết cho thấy đặc tính bổ sung lẫn cho nhau. Ta có
thể nhận ra điều ấy qua bản trình thuật Gia-vít về cuộc sáng tạo. Người nam,
khi nhìn thấy người nữ mới được tạo dựng, thốt lên: “Phen này, đây là xương bởi
xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2,23). Đó là những tiếng nói vui mừng và sung
sướng khi con người cảm nhận được một hữu thể giống như mình về mặt yếu tính.
Đó là sự phong phú
trong công cuộc sáng tạo loài người. Có những dị biệt về tâm lý và về thể lý giữa
hai phái tính, tuy nhiên hai bên bổ khuyết cho nhau. Thật là một di sản độc đáo
của con cháu A-đam xuyên qua giòng lịch sử của mình. Hôn nhân nhận lấy sự sống
của nó cũng chính từ thực tại này. Hôn nhân được thiết lập từ đời đời bởi chính
Đấng Tạo Hóa: “Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả
hai thành một xương một thịt.”
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
07 Tháng Sáu
Bằng Lòng Với Cuộc Sống
Sau một thời gian cần
cù và chắt chiu, một người đàn ông nọ đã trở thành người giàu có nhất trong
ngôi làng nhỏ bé của mình.
Từ lúc mua đươc một
con lừa, anh ta mới có ý nghĩ làm một chuyến đi xa cho biết đó biết đây. Anh đến
một ngôi làng khác lớn hơn ngôi làng của anh. Một ngôi nhà thật đẹp và sang trọng
đập vào đôi mắt của anh. Sau khi dò hỏi, anh biết được đó là ngôi nhà của người
giàu có nhất trong làng.
Anh bèn trở về ngôi
làng nhỏ bé của mình và quyết trí làm ăn, dành dụm để có thể may ra xây được một
ngôi nhà đẹp hơn ngôi nhà mà anh vừa trông thấy ở ngôi làng bên cạnh. Không mấy
chốc, tiền bạc dư dả, không những anh đã xây được một ngôi nhà sang trọng đẹp đẽ
hơn mà còn mua được cả đàn ngựa và xe nữa.
Lần này, anh vượt
qua các ngôi làng nhỏ để đến một đô thị lớn. Tại đây, đâu đâu anh cũng thấy những
ngôi nhà đẹp và ngôi nhà nào cũng đẹp hơn ngôi nhà của anh. Anh nghĩ bụng: cho
dẫu có lao nhọc cả quãng đời còn lại, anh cũng không tài nào có thể xây được một
ngôi nhà đẹp như thế.
Anh bèn tiu nghỉu
đánh xe quay lại ngôi làng cũ của mình. Nhưng rủi thay, xe gặp tai nạn, anh
đành phải bỏ chiếc xe để leo lên lưng ngựa cố gắng chạy về ngôi làng cũ của
mình. Nhưng dọc đường, vì mệt mỏi và đói lả, ngựa cũng lăn ra chết. Người đàn
ông chỉ còn biết lủi thủi đi bộ về nhà.
Ðêm đến, giữa sa mạc,
anh nhìn thấy một ánh lửa bập bùng từ xa. Anh nấn ná tìm đến và khám phá ra túp
lều của một vị ẩn sĩ. Vào trong túp lều, người đàn ông mới nhận ra rằng có lẽ
trong đời anh, chưa bao giờ anh thấy có cảnh nghèo nàn cùng cực hơn.
Anh ái ngại nhìn
nhà tu hành rồi thắc mắc: "Thưa ông, làm sao ông có thể sống được trong cảnh
cùng cực như thế này?".
Nhà ẩn sĩ mỉm cười
đáp: "Tôi bằng lòng với cuộc sống... Thế còn ông, xem chừng như ông không
được thỏa mãn về cuộc sống của ông cho lắm". Người đàn ông ngạc nhiên hỏi:
"Sao ông biết tôi không được thỏa mãn?". Nhà ẩn sĩ nhìn thẳng vào đôi
mắt của người đối diện rồi thong thả nói: "Tôi nhìn thấy điều đó trong đôi
mắt của ông. Ðôi mắt của ông cứ chạy theo giàu sang, nhưng sự giàu sang không
bao giờ đến với ông... Ông hãy nhìn cảnh hoàng hôn. Ông có thấy những ánh sáng
yếu ớt đang chiéu rọi trên cánh đồng không? Chúng tưởng mình đang soi sáng cả
vũ trụ. Nhưng không mấy chốc, các ngôi sao mọc lên, và những tia sáng hoàng hôn
biến mất. Những ánh sao tưởng chúng đang soi sáng cả bầu trời, nhưng khi mặt
trăng vừa ló rạng, thì những ánh sao ấy cũng bắt đàu tắt ngụm. Vầng trăng sáng
kia tưởng mình soi sáng cả trái đất, nhưng không mấy chốc, mặt trời mọc lên và
mọi thứ ánh sáng của đêm đen đều biến mát. Nếu những thứ ánh sáng trên đây đều
biết suy nghĩ về những điều ấy, thì có lẽ chúng sẽ tìm thấy nụ cười đã đánh mất".
Nghe câu chuyện ví
von của nhà hiền triết, người đàn ông mở miệng mỉm cười, nhưng nỗi buồn vẫn còn
thoáng trên gương mặt ông.
Vị ẩn sĩ tiếp tục
câu chuyện: "Ông cso biết rằng sánh với tôi, ông là vua không?". Người
đàn ông tự nhiên so sánh căn nhà của mình với túp lều của vị ẩn sĩ. Nhưng đó
không phải là điều mà vị ẩn sĩ muốn nói đến... Ông cầm chiếc đèn đưa lên cao và
mời người đàn ông đến gần bên mình.
Dưới ánh đèn, người
đàn ông mới nhận ra rằng vị ẩn sĩ là người không còn ngay cả đôi chân để có thể
di chuyển một cách bình thường.
Giữa cuộc hành trình đầy
cam go, Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngắm cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi
Tabor. Chúa Giêsu muốn dùng thứ ánh sáng từ trên núi cao ấy để chiếu rọi vào cuộc
tử nạn mà Ngài sắp trải qua, cũng như chính nỗi hoang mang lo sợ của các môn đệ
khi Ngài loan báo cái chết... Xin cho ánh sáng Phục Sinh của Chúa chiếu rọi vào
cuộc sống đầy âm u, tăm tối của chúng ta. Xin cho chúng ta biết đón nhận từng đớn
đau, thử thách trong cuộc sống với tinh thần lạc quan, phó thác, chấp nhận và
hân hoan, vì tin rằng bên kia tăm tối là ánh sáng Phục Sinh đang chờ đón chúng
ta.
Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét