15/11/2019
Thứ sáu tuần 32
thường niên
Thánh Albertô Cả,
giám mục, tiến sĩ Hội Thánh.
Lễ nhớ
* Thánh nhân sinh khoảng năm 1206 tại Lau-in-gân, nước Đức. Sau khi theo
học ở Pa-đô-va và Pa-ri, người nhập dòng Anh Em Thuyết Giáo, đảm nhận
công việc giảng dạy ở nhiều nơi. Đặc biệt, tại đại học Pa-ri (1245-1248). Tại
đây, trong số các học trò, có một người sau thành nổi danh, đó là thánh Tôma
Aquinô.
Được chọn làm giám mục Ra-tít-bon, nhưng thánh An-be-tô chỉ làm công việc
lãnh đạo vỏn vẹn có hai năm so với cả một đời làm giáo sư và nhà khảo cứu,
chuyên lo khám phá những quy luật của khoa vật lý để tìm ra sự can thiệp của Đấng
Sáng Tạo. Người qua đời ở Cô-lô-nhơ năm 1280.
BÀI ĐỌC I: Kn 13, 1-9
“Nếu họ đã có thể
truy tầm càn khôn, sao họ lại không nhận thấy Chúa tể Càn khôn”.
Trích sách Khôn
Ngoan.
Khờ dại thay tất cả những
người không chịu nhận biết Chúa, và cả những người không biết căn cứ vào các sự
vật hữu hình để tìm hiểu Đấng Tự Hữu, và không chú ý đến các công trình để biết
ai là Đấng Hoá công. Nhưng họ kể lửa, gió, khí thiêng, bầu trời đầy tinh tú, nước
lũ, mặt trời, mặt trăng là những thần minh bá chủ hoàn cầu. Nếu họ say mê vẻ đẹp
của các vật đó mà kể chúng là chúa tể, thì phải biết rằng: Đấng quản trị các vật
đó còn tốt đẹp hơn bội phần, vì chính Đấng tác sinh thiện mỹ, đã tạo thành mọi
vật đó. Hoặc nếu họ ngạc nhiên về năng lực và kỳ công của những tạo vật đó, thì
do đó họ phải hiểu rằng Đấng đã tạo thành các vật đó, còn có quyền lực hơn nhiều,
vì do sự cao sang tốt đẹp của tạo vật mà người ta có thể nhìn biết Đấng tạo dựng
mọi loài.
Dầu sao họ cũng không
đáng trách mấy, vì chưng, có lẽ họ lầm trong khi tìm kiếm Chúa, và muốn gặp Người.
Họ tìm kiếm, khi sống giữa các kỳ công của Chúa, nhưng họ ngộ nhận khi thấy các
vật kia tốt đẹp.
Tuy vậy, chính họ cũng
không đáng được tha thứ, vì nếu họ có khả năng nhận thức để truy tầm càn khôn,
sao họ lại không nhận thấy cách dễ dàng hơn chính Chúa tể càn khôn?. Đó là lời
Chúa.
ĐÁP CA: Tv 18, 2-3. 4-5
Đáp: Trời xanh tường
thuật vinh quang Thiên Chúa (c. 2a).
Xướng: 1) Trời xanh tường
thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp tay Người. Ngày này nhắc
nhủ cho ngày khác, đêm này truyền tụng cho đêm kia. – Đáp.
2) Đây không phải lời
cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai. Nhưng tiếng chúng
đã vang cùng trái đất, và lời chúng truyền ra khắp cõi địa cầu. – Đáp.
ALLELUIA: 1 Ga 2, 5
Alleluia, alleluia!
– Ai giữ lời Chúa Kitô, thì quả thật tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi
người ấy. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 17, 26-37
“Cũng xảy ra như thế
trong ngày Con Người xuất hiện”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các môn đệ rằng: “Như sự kiện đã xảy ra thời Noe thế nào, thì trong
ngày Con Người cũng xảy đến như vậy. Thiên hạ cứ ăn uống, cưới vợ gả chồng, mãi
cho tới ngày Noe vào tầu, rồi nước lụt đến tiêu diệt mọi người.
“Lại cũng như đã xảy
ra thời ông Lót: người ta ăn uống, mua bán, trồng tỉa, xây cất, nhưng ngày ông
Lót ra khỏi thành Sôđôma, thì trời liền mưa lửa và sinh diêm, tiêu diệt mọi người.
Cũng sẽ xảy như thế trong ngày Con Người xuất hiện.
“Trong ngày đó, ai ở
trên mái nhà có đồ vật trong nhà, thì chớ xuống lấy đi; và ai ở ngoài đồng cũng
đừng trở về. Các con hãy nhớ trường hợp vợ ông Lót. Ai lo cứu mạng sống mình
thì sẽ mất, còn ai đành mất sự sống mình thì giữ được nó.
“Thầy bảo các con:
Trong đêm ấy sẽ có hai người trên một giường, thì một người bị đem đi, và người
kia sẽ được để lại. Hai phụ nữ xay cùng một cối, thì một người sẽ bị đem đi,
còn người kia sẽ được để lại. Hai người ở ngoài đồng, thì một người bị đem đi,
và người kia được để lại”.
Các môn đệ thưa Chúa rằng:
“Lạy Thầy, chuyện đó ở đâu vậy?” Người phán bảo các ông: “Xác ở đâu thì diều
hâu tựu lại đó”. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Ngày Của Con
Người
Ngay từ lúc chiếc
phi cơ của hãng hàng không Singapore bắt đầu lăn bánh từ phi đạo của phi trường
Tưởng Giới Thạch, Ðài Loan, vào một buổi tối thứ Ba trong tháng 11 năm 2000, bà
Sally Walker đã có một cảm giác không ổn. Hai tay nắm chặt vào chỗ dựa tay của
ghế ngồi trong phần đuôi của chiếc phi cơ chỉ có phân nữa hành khách, người phụ
nữ Hoa Kỳ bốn mươi sáu tuổi này lo lắng nhìn giông tố đang thổi ào ào bên ngoài
cửa sổ phi cơ. Vào lúc 11h48' tối, chiếc phi cơ di chuyển ra phi đạo để bay về
Los Angeles, Hoa Kỳ, bà Walker, một giáo sư tại đại học Giorgie đã lầm thầm cầu
nguyện khi nhìn thấy hai cánh phi cơ bị nghiêng ngả và thân phi cơ bị lắc mạnh.
Khi chiếc phi cơ di chuyển ở vận tốc cất cánh với một cú sốc thật mạnh và rồi
thêm một lần nữa, chiếc phi cơ bị giật dữ dội sang bên trái và nổ tung. Các quả
cầu lửa bắn ra khi chiếc phi cơ bị bể làm ba phần, bay rít trên mặt đường nhựa
của sân bay. Sau này, ngồi trên chiếc xe lăn bà Walker kể lại sự thoát chết từ
chiếc phi cơ ngập lửa rằng: "Mọi thứ đều bị đốt cháy. Thật là một cơn ác mộng
khủng khiếp". Bà Walker bị thương nhẹ ở chân là một trong những người rất
may mắn. Hơn tám mươi người trong số một trăm bảy mươi chín hành khách của chuyến
bay định mệnh đã chết trong tai nạn này. Một số người bị đốt cháy đến độ không
còn có thể nhận diện được.
Tai nạn thảm khốc
này xảy ra đúng một năm sau khi chiếc phi cơ của hãng hàng không Ai Cập bị rớt
trên đường bay từ thủ đô Cairô đến New York, Hoa Kỳ, gây thiệt mạng cho hai trăm
bảy mươi người. Nó xảy ra tại một trong những phi trường được xem là an toàn nhất
thế giới, và được hoạt động bởi một trong những công ty an toàn nhất thế giới.
Dĩ nhiên, sau bất cứ một
tai nạn nào, người ta cũng cố gắng tìm ra cho bằng được nguyên nhân, bởi vì
không có tai nạn nào mà không có nguyên nhân, dù nguyên nhân ấy vẫn còn nằm
trong vòng bí ẩn. Tựu trung, nguyên nhân nào cũng gắn liền với những giới hạn của
con người. Khoa học, kỹ thuật dù có tiến bộ đến đâu cũng không thể xóa bỏ được
những hàng rào dựng lên bởi chính thân phận bất toàn của con người. Ðây hẳn phải
là chân lý có thể nuôi dưỡng những suy tư và cầu nguyện của các tín hữu Kitô
chúng ta trong tháng cầu cho các đẳng linh hồn này.
Tin Mừng được Giáo Hội
cho chúng ta lắng nghe trong những ngày cuối năm phụng vụ dường như cũng hướng
tâm tư chúng ta về ý tưởng ấy và trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói đến ngày
của Con Người. Ngày ấy có thể là ngày tận thế khi Chúa Giêsu trở lại trong vinh
quang. Ngày ấy có thể là ngày từ giã cõi đời của mỗi người chúng ta. Nhớ đến những
người quá cố, suy tưởng về sự chết không hề là một thái độ bệnh hoạn hay bi
quan mà là tư thế tỉnh thức tích cực của người môn đệ Chúa Giêsu. Chúa Giêsu
nói đến tính cách bất ngờ của ngày của Con Người để kêu gọi các môn đệ mặc lấy
thái độ tỉnh thức. Thời ông Nôê, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng mà không
màng đến lời cảnh cáo của ông, đến khi đại nạn hồng thủy đến thì đã quá muộn.
Ý nghĩ về sự chết hướng
con người đến cùng đích của mình để tìm kiếm ý nghĩa cho cuộc sống. Ý nghĩa ấy
luôn gợi lên cho con người ý thức về thân phận mong manh bất toàn của kiếp người
và mời gọi con người tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời. Với ý thức ấy,
con người hướng về cùng đích của cuộc sống và tỉnh thức không những để chờ đợi
Chúa đến vào ngày sau hết, hay để được đợi mong Ngài mau đến trong những khoảnh
khắc của cuộc sống.
Nguyện xin Chúa ban
cho chúng ta lẽ khôn ngoan và tinh thần tỉnh thức đích thực ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 32 TN1
Bài đọc: Wis
13:1-9; Lk 17:26-37.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu
Con người thường có
khuynh hướng yêu thích những gì đẹp trước mắt hơn những giá trị cao quí ẩn dấu
bên trong. Chẳng hạn, yêu thích những món ăn ngon mà quên đi tình thương của
người đã bỏ thời giờ, tiền của để chuẩn bị bữa ăn đó; đến nỗi nhiều khi một tiếng
cám ơn cũng quên không nói. Đối với Thiên Chúa cũng vậy, con người nhiều khi
quá yêu thích những tạo vật do Thiên Chúa tạo dựng mà quên đi tình thương của
Ngài; đến nỗi nhiều khi quên luôn đích điểm của cuộc đời là về sống với Chúa
muôn đời. Các Bài đọc hôm nay nhắc nhở con người phải biết quí trọng những gì
có giá trị vĩnh cửu hơn là những hào nhóang chóng qua. Trong Bài đọc I, tác giả
Sách Khôn Ngoan nhắc nhở con người phải biết suy xét về niềm tin của mình, để
thờ phượng chính Đấng Tạo Hóa, thay vì thờ các tạo vật Ngài tạo dựng. Trong
Phúc Âm, Chúa Giêsu tiếp tục nhắc nhở cho con người phải luôn biết chuẩn bị cho
Ngày Chúa đến lần hai; để đừng bị tiêu diệt như Nạn Hồng Thủy thời ông Noah,
hay nạn Mưa Diêm Sinh thời ông Lot.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Các thọ tạo càng lớn lao đẹp đẽ thì càng giúp nhận ra Đấng
Tạo Thành.
Có nhiều điều chúng ta
có thể bàn luận trong trình thuật hôm nay; nhưng chúng ta chỉ giới hạn trong
hai điều chính: sự hiện hữu của Thiên Chúa và các đặc tính của Ngài biểu hiện
qua các tạo vật trong vũ trụ.
1.1/ Sự hiện hữu của
Thiên Chúa: Theo tác giả, trí khôn của con người và sự hiện hữu của các tạo vật
trong vũ trụ, đủ giúp con người nhận ra sự hiện hữu của Thiên Chúa. Thánh
Thomas gọi đây là nguyên lý nhân quả: vật gì có là phải có người làm cho nó có.
Người dựng nên các tạo vật phải là Đấng Tự Hữu mà chúng ta gọi là Thiên Chúa. Một
tác giả khác diễn tả: Thiên Chúa cho con người có trí khôn và cho con người thấy
mọi hiệu quả của việc tạo dựng; trong khi Ngài ẩn mình để xem con người có nhận
ra Ngài hay không! Người khôn ngoan biết dùng trí óc để luận ra ngay Thiên Chúa
là Đấng Tạo Dựng. Người ngu si không chịu dùng trí khôn suy xét cho mọi vật tự
nhiên mà có, hay sáng chế ra những học thuyết kỳ lạ: Big Bang, Tiến Hóa… Tác giả
sách Khôn Ngoan nhận định những người này như sau: “Hết những ai không chịu
nhìn nhận Thiên Chúa, tự bản chất là những kẻ ngu si. Từ những vật hữu hình tốt
đẹp, chúng không đủ khả năng nhận ra Đấng hiện hữu, và khi chiêm ngắm bao công
trình, chúng cũng không nhận biết Đấng Hoá Công.”
1.2/ Mỗi tạo vật mặc
khải một hay nhiều đặc tính của Thiên Chúa: Nhìn một bông hoa đẹp con người phải
suy xét tới người dựng nên bông hoa đó; ông phải khôn ngoan và tài tình hơn
bông hoa đó nhiều. Nhìn ánh sáng đẹp đẽ và hơi ấm của mặt trời, nhiều người đã
sụp xuống bái lạy và tôn thờ thần Mặt Trời; nhưng họ phải suy xét và hỏi: Người
làm ra nó phải khôn ngoan và tài tình hơn nhiều. Tác giả sách Khôn Ngoan nhận định
lý do con người không nhận ra Thiên Chúa, vì họ chỉ xét đoán dựa theo dáng vẻ
bên ngoài, mà không chịu dùng trí khôn để suy xét sâu xa hơn. Trí khôn phải
giúp cho con người nhận ra: Đấng dựng nên phải đẹp hơn tất cả các vẻ đẹp của
các thụ tạo Ngài dựng nên; Đấng dựng nên phải uy quyền và mạnh mẽ hơn các loài
thụ tạo; và các thọ tạo càng lớn lao đẹp đẽ thì càng giúp nhận ra Đấng Tạo
Thành.
Cũng cùng một quan niệm
như Phaolô, tác giả sách Khôn Ngoan qui trách nhiệm không nhận ra và không thờ
phượng Thiên Chúa cho con người: “Tuy nhiên, không vì thế mà chúng được thứ
tha. Vì nếu chúng có đủ khả năng hiểu biết để có thể nghiên cứu các sự vật trên
đời, thì sao lại không sớm nhận ra Đấng Chủ Tể của những sự vật đó?”
2/ Phúc Âm: Ngày Chúa đến lần thứ hai
2.1/ Con người không
chuẩn bị: Mặc dù đã được báo trước về tai họa sắp xảy ra, nhưng con người vẫn
ngoan cố không chịu chuẩn bị. Tại sao con người không chịu chuẩn bị? Họ có thể
nghĩ chuyện đó không bao giờ có thể xảy ra: Kinh nghiệm dạy con người: không ai
học được chữ ngờ; chẳng hạn: vụ không tặc khủng bố 9/11 hay cơn bão Katrina.
Hay chuyện đó còn lâu mới tới: cứ việc vui chơi ăn uống cho tới khi nhận ra những
tín hiệu báo trước rồi ăn năn cũng không muộn. Nhưng một lý do có lẽ chính đáng
hơn cả là vì con người quí trọng vật chất hơn Đấng đã tạo dựng ra chúng. Chúa
Giêsu gợi lại 2 biến cố đã xảy ra và được ghi lại trong Sách Sáng Thế Ký để dẫn
chứng sự khờ dại của những người không chịu chuẩn bị:
(1) Nạn lụt Hồng Thủy:
“Cũng như thời ông Noah, sự việc đã xảy ra cách nào, thì trong những ngày của
Con Người, sự việc cũng sẽ xảy ra như vậy. Thiên hạ ăn uống, cưới vợ lấy chồng,
mãi cho đến ngày ông Noah vào tàu, và nạn hồng thủy ập tới, tiêu diệt tất cả.”
(2) Mưa lửa diêm sinh
từ trời: “Sự việc cũng xảy ra giống như vậy trong thời ông Lot: thiên hạ ăn uống,
mua bán, trồng trọt, xây cất. Nhưng ngày ông Lot ra khỏi Sodom, thì Thiên Chúa
khiến mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống tiêu diệt tất cả.”
Và Chúa kết luận: “Sự
việc cũng sẽ xảy ra như thế, Ngày Con Người được mặc khải.”
2.2/ Những gì sẽ xảy
ra và việc cần làm trong Ngày Tận Thế.
(1) Sự việc sẽ xảy ra
nhanh chóng, con người sẽ không có thời giờ chuẩn bị. Khi sự việc đó xảy ra,
con người cần ý thức: Không phải là lúc để bảo vệ của cải: “Ngày ấy, ai ở trên
mái nhà mà đồ đạc ở dưới nhà, thì đừng xuống lấy.” Không phải là lúc quay trở về
nhà: Cũng vậy, ai ở ngoài đồng thì đừng quay trở lại. Hãy nhớ chuyện vợ ông
Lot: vì không nghe lời sứ thần Thiên Chúa dạy nên tiếc của ngóai đầu trở lại,
đã bị hóa thành cột muối. Phải có can đảm để trốn thóat: “Ai tìm cách giữ mạng
sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng
sống.”
(2) Không có sự lẫn lộn
giữa người lành và kẻ dữ trong ngày đó: Sứ thần của Thiên Chúa biết phân biệt
rõ người lành ra khỏi kẻ dữ; các ngài sẽ đóng ấn trên các tôi tớ của Thiên Chúa
trước khi các sứ thần khác ra tay tàn sát. Chúa Giêsu trưng dẫn 3 ví dụ cho sự
chính xác này: “Thầy nói cho anh em biết: đêm ấy, hai người đang nằm chung một
giường, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Hai người đàn bà
đang cùng nhau xay bột, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại.
Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, thì một người sẽ được đem đi, còn người
kia bị bỏ lại.”
(3) Đâu là chỗ người
lành được đem đi và kẻ dữ bị bỏ lại? Các môn đệ lên tiếng hỏi Đức Giêsu: “Thưa
Thầy, ở đâu vậy?”
– Nơi của kẻ dữ: Chúa
Giêsu không trả lời trực tiếp nhưng nói với các ông câu châm ngôn: “Xác nằm
đâu, diều hâu tụ đó.” Tất cả những người khinh thường không chịu chuẩn bị sẽ bị
tiêu diệt; và xác của họ sẽ bị diều hâu bâu tới rúc rỉa.
– Chỗ của người lành:
Chúa Giêsu không cho biết ở đây; nhưng như gia đình của Noah và của Lot, họ sẽ
thóat mọi nguy hiểm và được sống muôn đời.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC
SỐNG:
– Thiên Chúa cho chúng
ta có trí khôn để nhận ra sự hiện hữu của Ngài trong các tạo vật Ngài dựng nên.
Chúng ta đừng bao giờ chạy theo thờ phượng các tạo vật thay vì Thiên Chúa.
– Hai điều kiện cần để
chuẩn bị cho Ngày Chúa đến là vững tin nơi Đức Kitô và sống yêu thương mọi người.
Chúa đã cảnh cáo con người nhiều lần và khuyên con người phải tỉnh thức sẵn
sàng trong khi chờ đợi Ngày Chúa đến lần thứ hai. Dẫu vậy, sẽ có rất nhiều kẻ
khinh thường không chịu chuẩn bị cho đến giây phút cuối và bị hư đi.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
15/11/2019 – THỨ SÁU TUẦN 32 TN
Th. An-be-tô Cả, giám mục, tiến sĩ HT
Lc 17,26-37
TÔI CHỌN SỰ SỐNG
Chúa Giê-su nói: “Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất;
còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống.” (Lc 17,33)
Suy niệm: Nhạc sĩ Văn Cao có những vần thơ nói về vấn đề sống-chết
nghe như âm hưởng của Lời Chúa hôm nay: “Giữa sự sống và sự chết, tôi chọn sự sống.
Để bảo vệ sự sống, tôi chọn sự chết.” Sự sống là cái gì quý giá nhất trong cuộc
đời, vì thế đáng cho ta nâng niu, chọn lựa. Thế nhưng, đừng quên rằng sự chết,
nấp dưới vỏ bọc sự sống, cũng có sức huỷ diệt nhưng cũng hấp dẫn ghê gớm.
Chẳng hạn sự chết của rượu chè say sưa, của phim ảnh đồi truỵ, của ma tuý, của
phá thai, của đời sống buông thả. Người chạy theo nó tưởng là được sống, là cuộc
đời, nhưng thực ra, là phải chết. Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã gọi đích
danh đó là nền văn minh sự chết. Ngược lại, để có được sống thật, thì phải dám
chấp nhận chết: chết vì quên mình để phục vụ đồng loại, chết do hy sinh từ bỏ
cho những giá trị của Nước Trời.
Mời Bạn: Hãy xác tín rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về sự
sống vĩnh cửu. Vì thế, bạn hãy mạnh dạn hy sinh những sự sống giả tạo, để có thể
đạt được sự sống muôn đời của Chúa.
Chia sẻ: Tại sao tôi phải chấp nhận liều mất mạng sống thì mới
được sự sống thật sự?
Sống Lời Chúa: Tôi sẽ mạnh dạn bỏ đi một nết xấu đang gây sự chết
nơi tôi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin hãy dẫn dắt con đi từ cõi chết
đến sự sống, từ lầm lạc đến chân lý. Xin hãy dẫn dắt con đi từ thất vọng đến hy
vọng, từ sợ hãi đến tín thác. Xin hãy dẫn dắt con đi từ ghen ghét đến yêu
thương, từ chiến tranh đến hoà bình. Xin hãy đổ đầy bình an trong trái tim
chúng con. Amen. (Mẹ Têrêxa Calcutta)
(5 Phút Lời Chúa)
Được đem đi, bị bỏ lại (15.11.2019
– Thứ Sáu Tuần 32 TN)
Suy niệm:
Gần đây trong y học, người ta nói đến hội chứng Brugada.
Hội chứng này thường gặp ở nơi nam giới vùng Đông Nam Á.
Nó có thể gây tử vong bất thình lình và nhanh chóng,
cho một người khi ngủ vào ban đêm, dù trước đó anh vẫn khỏe mạnh.
Số người mắc hội chứng có tính di truyền này hiện đang gia tăng.
Đến nay người ta vẫn chưa giải thích được nguyên nhân gây bệnh.
Sống làm người ở đời, con người phải đương đầu với bao bất ngờ.
Những điều tưởng như không thể nào xảy ra được, lại xảy ra.
Những điều đã tính toán rất cẩn thận, lại xảy ra không như ý.
Bệnh tật, rủi ro, tai nạn, và sau cùng là cái chết.
Những cái bất ngờ đến nhanh quá khiến con người không kịp trở tay.
Làm sao ta có đủ bình tĩnh để đón lấy mọi cái bất ngờ trong cuộc sống?
Kitô giáo chờ đợi một bất ngờ,
vì biết bất ngờ đó thế nào cũng đến, chỉ không biết rõ khi nào thôi.
Đó là Ngày Chúa Giêsu trở lại trái đất này
trong tư cách là Vua xét xử cả nhân loại.
Vào buổi đầu, nhiều Kitô hữu tưởng là Ngài sẽ trở lại ngay lập tức.
Nhưng dần dần họ thấy rằng Giáo Hội phải kiên nhẫn chờ đợi.
Chỉ khi chờ đợi điều chắc chắn sẽ xảy ra, tuy không rõ khi nào,
người ta mới không bị hụt hẫng khi biến cố xảy đến.
Giáo Hội đã chờ hai ngàn năm và hôm nay vẫn đang chờ.
Chờ và chuẩn bị cho Ngày Quang Lâm làm nên sức sống của Giáo Hội.
Nhưng chờ đợi lâu dài cũng có thể làm người ta mỏi mòn.
Cuộc sống hàng ngày với nhịp điệu bình thường, đều đặn, êm ả,
có thể cuốn hút ta vào một vòng xoáy khó có lối ra.
Cơn hồng thủy đã bất ngờ ập xuống vào thời ông Nôê,
khi “họ đang ăn, họ đang uống, họ đang cưới vợ, họ đang lấy chồng.”
Dòng chảy tự nhiên ấy bị cắt đứt đột ngột bởi cơn hồng thủy.
Khi Thiên Chúa tiêu diệt thành Xơđôm bằng lửa bởi trời,
thì “họ đang ăn, họ đang uống, họ đang mua, họ đang bán,
họ đang trồng, họ đang xây” (c. 28).
Cuộc sống tưởng như cứ trôi đều, ai ngờ nó phải dừng lại.
Chuyện ăn uống, mua bán, lập gia đình, trồng trọt, xây cất
chẳng phải là điều xấu, cần phải tránh xa hay coi thường.
Nhưng chúng ta không để mình bị ru ngủ
bởi cái nhịp tự nhiên và quyến rũ của chúng.
Người Kitô hữu sống đời thường như mọi người một cách tỉnh táo.
Tận tụy nhưng lại không bị mất hút, hết mình nhưng lại còn chút e dè.
Sống tưng bừng giây phút hiện tại nhưng vẫn nhớ đến điểm tới.
Hai người nằm một giường, hai phụ nữ xay một cối (cc. 34-35),
nhưng số phận chung cuộc của họ lại khác nhau.
Có người được đem đi, có người bị bỏ lại.
Làm sao tôi đừng tiếc đồ đạc mà xuống lấy hay quay trở lại nhà (c. 31)?
Làm sao tôi đừng như vợ ông Lót quay nhìn lại và hóa thành cột muối?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở
đó.
Chúa đã nếm biết
nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận
người.
Xin dạy chúng con biết đường
lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn lên quê hương
vĩnh cửu,
chúng con thấy mình được
thêm sức mạnh
để xây dựng trái đất này,
và chuẩn bị nó đón ngày Chúa
trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên
hữu Thiên Chúa,
xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời
không làm chúng con quên trời
cao;
và những vẻ đẹp của trần
gian
không ngăn bước chân con tiến
về bên Chúa.
Ước gì qua cuộc sống hằng
ngày của chúng con,
mọi người thấy Nước Trời
đang tỏ hiện.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
15 THÁNG MƯỜI MỘT
Đức Giêsu Trân Trọng
Những Thực Tại Đời Thường
Tiệc cưới Cana trong
Tin Mừng Gioan là một câu chuyện hùng hồn nổi bật trên bối cảnh giáo lý mạc khải.
Ở đầu sứ vụ mêsia của Người, Đức Giêsu Na-da-rét xuất hiện ở Cana, xứ Galilê, để
dự một đám cưới. Người không đến đó một mình. Mẹ Người và các môn đệ Người cùng
có mặt với Người ở đó.
Điều ấy cho thấy tầm
quan trọng mà Đức Giêsu gán cho biến cố này. Tuy nhiên, thoạt nhìn, chúng ta
không khỏi ngạc nhiên. Cả bốn Sách Tin Mừng đều trình bày Đức Giêsu như một người
dốc hết tâm lực để phụng sự Cha trên trời (Lc 2,49). Chính Người nói rằng sứ mạng
của Người qui hướng vào việc thiết lập Nước Thiên Chúa, không phải một vương quốc
trên cõi đời này.
Vì thế, việc Người
tham dự một đám cưới có thể thoạt thấy như chẳng ăn nhập gì với tiếng gọi và với
lối sống của Người. Nhưng sự thật không phải thế. Thầy Chí Thánh muốn dạy chúng
ta biết cách định hướng các thực tại trần gian này qui hướng về Vương Quốc của
Thiên Chúa. Đám cưới ở Cana là một biến cố nêu bật giáo huấn này. Đức Giêsu
liên đới với các thực tại đời thường của cuộc sống con người để giúp chúng ta
hiểu rằng những giá trị đích thực của con người có thể và phải phục vụ cho một
định mệnh siêu vượt trên cuộc sống trần gian này.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 15/11
Thánh Albertô Cả,
Giám mục, tiến sĩ, Hội Thánh
Kn 13, 1-9; Lc 17,
26-37.
LỜI SUY NIỆM: “Thầy nói cho
anh em biết: đêm ấy, hai người đang nằm chung một giường, thì một người sẽ được
đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Hai người đàn bà đang cùng nhau xay bột, thì một
người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng,
thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại.”
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy: “hai người cùng nằm chung một giường, hai
người đàn bà cùng xay bột và hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, tất cả
bên ngoài họ không có gì khác nhau, chúng ta không thấy người tốt kẻ xấu, nhưng
số phận đêm cuối cùng lại khác nhau. Người được Chúa đem đi, còn người kia thì
bị bỏ lại. Chúa Giêsu đang muốn mỗi người chúng ta phải biết chuẩn bị đời sống
của mình trong mọi lúc và mọi nơi, lúc làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi luôn thuộc
về Chúa, vi Chúa; để được Chúa đem đi chứ không bị bỏ lại.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho tất cả chúng con luôn thuộc về Chúa và có Chúa trong
suy nghĩ và trong mọi công việc chúng con đang làm, cũng như lúc chúng con nghỉ
ngơi, để ngày sau hết chúng con được sống bên Chúa luôn mãi.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 15-11
THÁNH ALBERTÔ CẢ
Gíam mục, Tiến Sĩ Hội
Thánh (1206 – 1280)
Thánh Albertô là một
người thuộc thế hệ đầu của dòng Đaminh, Dòng được thành lập năm 1216. Ngài góp
phần lớn trong những tiến triển quan trọng về trí thức trong thế kỷ XIII và Đức
giáo hoàng Piô XII năm1941 đã đặt Ngài làm thánh bảo trợ cho những ai say mê
nghiên cứu các khoa học tự nhiên.
Ngài sinh ra tại
Swabia có lẽ vào năm 1206, là con trưởng thuộc một gia đình quí phái trong binh
nghiệp. Điều người ta biết rõ về người thiếu niên Đức này là lòng yêu thích
nghiên cứu học hành và thiên nhiên. Khi thì Ngài học với các thầy dòng
Benedictô, khi thì Ngài lạc lõng trong miền quê, say mê quan sát cây cỏ khám
phá các loại cây và để cho năng khiếu chín mùi trước cảnh sắc của tạo hóa.
Cuối cùng Albertô đã bỏ
rơi truyền thống hiệp sĩ của gia đình. Một người cậu đã dẫn Albertô tới Bologne
để hoàn tất việc học hành. Ngài nghe một bài giảng của chân phước Giocdano
(Jordain) miền Saxe thuộc dòng Đaminh và cảm thấy được Chúa gọi, Nhưng lại ngập
ngừng vì mới 16 tuổi. Ông cậu muốn Albertô quên đi ý tưởng này. Nhưng ở Padua,
Albertô gặp lại chân phước Giocđanô và sau một cuộc đàm thoại đã nói với Ngài:-
Thưa thày ai đã tỏ lộ lòng con cho Ngài ?
Từ đây không ai ngăn cản
nổi ơn kêu gọi của Albertô nữa. Ngài vào nhà tập dòng anh em giảng thuyết. Lời
cầu nguyện của Ngài diễn tả một ước muốn sống tự thoát: – “Lạy Chúa Giêsu Kitô,
con kêu lên Chúa, xin Chúa đừng để con bị quyến rũ bởi những lời hão huyền về
danh giá gia đình, về uy thế của dòng tu, về sự lôi cuốn của khoa học”.
Dưới ánh sáng chân lý
Ngài đã tuân theo, Albertô nhiệt thành nghiên cứu khoa học và trở thành tu sĩ
thánh thiện, nhà tư tưởng lớn, giáo sư siêu việt, nhà sưu tầm bách khoa tài ba.
Ngài có sự hiểu biết uyên bác đặc biệt như một số những nhà trí thức lớn thời
Trung cổ.
Luôn luôn tìm gia tăng
những hiểu biết, Albertô rảo qua khắp nước Đức, thu thập những ý niệm về các loại
súc vật cây cỏ, trước tác những tác phẩm về khoa học tự nhiên. Ngài quan tâm tới
các thuyết của Aristote và tìm cách Kitô hóa các lý thuyết đó. Ngài lần lượt dạy
học tại Cvologne, Pribourg, Ratisbonne, Strasbourg, Ngài sẽ ảnh hửơng trọng yếu
tới người học trò thiên phú này là “bò câm”, Ngài tiên báo rằng: tiếng rống của
con bò này sẽ vang dội khắp nơi.
Khoảng năm 1240, Ngài
tới Paris giữ ghế giáo sư tại đây. Các lớp học quá nhỏ không đủ để dung nạp hết
các thính giả của Ngài, Ngài phải dạy họ tại công trường nay vẫn còn giữ tên
Ngài: công trường Maubert hay Albertô cả. Lời Ngài có uy tín đến nỗi để chấm dứt
cuộc tranh luận chỉ cần nói: “Thày Albertô đã nói vậy”.
Tài năng Ngài lan rộng
tại đại học Paris, đạihọc danh tiếng nhất thế giới. Ngài trú ngụ tại nhà dòng
thánh Giacobê, viết nhiều tác phẩm về nhiều đề tài khác nhau: thần học, toán học,
luân lý, chính trị, triết học, hình học, điạ chất học. Người ta kể rằng: ngày
kia một thày dòng Đaminh vô danh đến trước mặt thánh Albertô, tội nghiệp cho sự
lao lực của Ngài và khuyên Ngài nghỉ ngơi lo lắng tới sức khỏe. Đây lại chẳng
phải là một thần dữ mặc lốt thày dòng sao ? Để trả lời, thánh làm dấu thánh
giá. Thế là hết các cám dỗ, satan trốn mất.
Vua thánh Luy (Louis)
tỏ tình nghĩa với thày dòng thời danh này và trao cho Ngài nhiều kỷ vật quí báu
trước khi nghe về Đức, bởi vì thánh Albertô được đặt làm giám tỉnh. Vâng lệnh đức
giáo hoàng , Ngài giã từ căn phòng sách vở và học trò, suốt ba năm Ngài đi bộ,
không tiền của, ăn xin để thăm các nhà dòng và lập nhiều nhà mới. Roma kêu mời
Ngài để làm sáng tỏ cuộc tranh cãi giữa các giáo sĩ. Albertô được một thời an
bình trong dòng để dạy học và viết lại những quan sát và suy tư của mình. Nhưng
Đức giáo hoàng buộc Ngài nhậm chức Đức giám mục Ratisbonne, một trách vụ năng nề.
Trong trung tâm giàu
có phồn thịnh này, người ta kể lại rằng: Đức giám mục không có lấy “một đồng tiền
trong két, một giọt rượu trong hầm, một nhúm bột trong vựa”. Dầy vậy, thánh
ALBERTO vẫn trả hết nợ và xây dựng một nhà thương. Khi đã hoàn thành công cuộc
hết sưc có thể, Ngài xin từ chức để trở lại đời sống một tu sĩ đơn giản. Năm
1623 theo lệnh Đức giáo hoàng, Ngài đi kêu gọi nghĩa binh trong các làng quê nước
Đức.
Một năm sau Đức giáo
hoàng qua đời và Ngài ngừng công việc lại. Thánh Albertô thấy cần được hồi tâm.
Ngài lui về tu viện Surtzbourg và đắm mình vào cuộc nghiên cứu và chỉ đi sửa lại
những cuộc tranh luận cãi. Một lần nữa lại được rảo gọi qua các đô thị lớn nước
Đức, Ngài thánh hiến các thánh đường, truyền chứa cho các giáo sĩ. Năm 1270
Ngài đến dạy tại Cologne. Ơ Công đồng Lyon, Ngài bênh vực Rodolphe I miền
Habbsourg. Bảy năm sau, tức năm 1277, dầu đã già Ngài buộc phải đi Paris để
bênh vực cho giáo thuyết học trò mình là Tôma Aqunô.
Albertô hoàn toàn già
nua, Ngài chọn cho mình một phần mộ trong dòng và mỗi ngày đến đọc kinh nhật tụng
cầu cho kẻ chết, để cầu cho chính mình. Dần dần Ngài đâm ra lú lẫn. Một lần có
du khách hỏi thăm Ngài trả lời chắc nịch: – “Albertô không còn ở đây nữa, ông
ta …”
Ngài qua đời êm ái tại
phòng riêng giữa các anh em đầy chung quanh, Ngài được phong làm tiến sĩ Hội
Thánh năm 1931.
(daminhvn.net)
15 Tháng Mười Một
Xuống Núi
Có hai vị thiền sư
vừa xuống núi. Họ đi vào trong một con đường lầy lội. Cơn mưa nặng hạt đã khiến
một thiếu nữ xinh đẹp không thể băng qua ngã tư lầy lội được… Lập tức, một
trong hai vị thiền sư đến bồng người thiếu nữ trên tay và đưa qua đường. Vị sư
khác lấy làm khó chịu nên không mở miệng nói với bạn mình một lời. Mãi một lúc
sau, không còn nhịn được nữa, ông ta mới lên tiếng: “Chúng ta là người tu hành,
không được phép gần đàn bà, nhất là những cô gái đẹp. Sao anh lại bồng đàn bà
trên tay?”.
Vị sư đã bồng người
thiếu nữ trên tay mỉm cười đáp: “Tôi đã bỏ cô ta tại chỗ rồi. Còn anh sao cứ
mãi mang cô ta tới đây”.
Chúa Giêsu đã nói:
“Chính từ lòng người mới xuất phát mọi tội ác… Sự hoán cải đích thực chính là
hoán cải nội tâm. Tất cả những thực hành đạo đức bên ngoài, nếu không đi cùng một
ý hướng ngay lành và một tâm hồn sám hối thực sự, chỉ là trò giả hình…
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét