23/11/2019
Thứ bảy tuần 33
thường niên
BÀI ĐỌC I: 1 Mcb 6,
1-13
“Vì các tai hoạ trẫm đã gây cho
Giêrusalem mà trẫm phải buồn bực mà chết”.
Trích sách Macabê
quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, vua Antiôcô rảo khắp các tỉnh miền bắc. Vua nghe nói
tại Ba-tư có thành Êlymai nổi tiếng là giàu có và lắm vàng bạc; trong thành lại
có một ngôi đền thờ lắm bảo vật, đầy những binh giáp bằng vàng, chiến bào,
khiên mộc di sản của Alexanđrô, con Philipphê, vua xứ Macêđônia, là vua tiên khởi
cai trị dân Hy-lạp. Vậy ông đến tìm cách chiếm lấy thành để cướp của. Nhưng ông
không thành công, vì dân thành đã biết trước ý định của ông, nên đã vùng lên chống
lại. Ông bỏ chạy và buồn bực lui quân trở về Babylon.
Lúc vua còn ở Ba-tư, có người đến đem tin cho vua hay toán quân của ông ở
Giuđa đã bị đánh bại chạy tán loạn, và Lysia, vị tướng chỉ huy một đoàn quân
hùng hậu, cũng đã phải tháo lui chạy trốn quân Do-thái; quân Do-thái lại càng mạnh
thêm nhờ ở khí giới, lương thực và chiến lợi phẩm rất nhiều đã lấy được của các
đoàn quân họ đánh bại. Họ đã hạ tượng thần vua đã đặt trên bàn thờ ở Giêrusalem;
họ cũng đã xây thành đắp luỹ cao như trước chung quanh Đền thờ và chung quanh
thành Bethsura.
Nghe tin ấy, nhà vua khiếp đảm và rất xúc động. Vua vật mình xuống giường
và buồn đến lâm bệnh, (bởi vì) sự việc đã không xảy ra như vua ước muốn. Vua liệt
giường nhiều ngày, càng ngày càng buồn. Và tưởng mình sắp chết, vua liền triệu
tập tất cả bạn hữu lại mà nói với họ rằng: “Trẫm không còn chớp mắt được nữa và
lòng trẫm tan nát vì ưu tư. Trẫm tự nghĩ: trước kia khi trẫm còn quyền thế, trẫm
vui sướng và được người ta quý mến, mà giờ đây trẫm lâm cảnh buồn sầu và đau khổ
biết bao! Bây giờ trẫm hồi tưởng lại các tai hoạ trẫm đã gây cho Giêru-salem:
trẫm đã chiếm đoạt các chén bằng vàng bạc tại đó, và đã ra lệnh tiêu diệt dân
Giuđêa cách vô cớ. Trẫm nhìn nhận là vì các việc ấy mà phải khốn khổ như thế
này, mà giờ đây trẫm phải buồn bực mà chết nơi đất khách quê người”. Đó là lời
Chúa.
ĐÁP CA: Tv 9, 2-3. 4 và
6. 16b và 19
Đáp: Lạy Chúa, con
mừng rỡ vì ơn Ngài cứu độ (x. c. 16a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, con sẽ kể ra mọi điều lạ
lùng của Chúa. Con sẽ mừng rỡ hân hoan trong Chúa, con sẽ đàn ca danh Ngài, lạy
Đấng Tối Cao. – Đáp.
2) Vì quân thù của con đã tháo lui, chúng chạy trốn và vong mạng trước
thiên nhan Chúa. Chúa trách phạt chư dân, diệt vong đứa ác, bôi nhoà tên tuổi
chúng tới muôn đời. – Đáp.
3) Người chư dân rơi chìm xuống hố mà họ đã đào, chân họ mắc vào cạm bẫy
mà họ đã che. Vì kẻ cơ bần không bị đời đời quên bỏ, hy vọng người đau khổ
không mãi mãi tiêu tan. – Đáp.
ALLELUIA: Pl 2, 15-16 – Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống, anh em hãy chiếu
sáng như những vì sao ở giữa thế gian. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 20, 27-40
“Thiên Chúa không phải là Thiên
Chúa của kẻ chết, nhưng của kẻ sống”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự
sống lại, đến gần Chúa Giêsu hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, Môsê đã viết cho chúng
tôi: nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em
phải cưới người vợ đó để anh mình có kẻ nối dòng. Vậy có bảy anh em: người thứ
nhất cưới vợ, rồi chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng
chết không con. Người thứ ba cũng cưới người vợ goá đó. Và tất cả bảy người đều
cưới như vậy và đều chết mà không để lại người con nào. Sau cùng người thiếu phụ
đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người
ấy, vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm vợ?”
Chúa Giêsu trả lời rằng: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, song những
ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không
cưới vợ lấy chồng; họ sẽ không thể chết nữa, vì họ giống như thiên thần, họ là
con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống lại,
thì Môsê trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham,
Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của
kẻ chết, mà là của kẻ sống, vì mọi người đều sống cho Chúa”.
Bấy giờ có mấy luật sĩ lên tiếng thưa Người rằng: “Lạy thầy, Thầy dậy đúng
lắm”. Và họ không dám hỏi Người điều gì nữa. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm : Chân lý của
đời sống đức tin
Vào cuối kinh Tin Kính, những đồ đệ của Chúa Giêsu tuyên xưng: "Tôi
tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen".
Sự sống lại và sự sống đời đời là chân lý quan trọng cho đời sống đức
tin. Nếu không có sự sống lại và sự sống đời đời thì đức tin của chúng ta còn
có ý nghĩa gì nữa, và công việc nhập thể cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô, Con
Thiên Chúa, không còn ý nghĩa nữa. Ðây là chân lý quan trọng nhưng khó tin và
có thể có trường hợp xảy ra như đã xảy ra vào thời Chúa Giêsu, và cả những kẻ
có niềm tin cũng bị vấp phạm không tin vào sự thật này nữa bởi vì nó không thể
nào giải thích cặn kẽ được. Bởi lý trí con người lập luận theo đường lối tự
nhiên, con người có thể chất vấn Thiên Chúa như những người Sađốc ngày xưa đã
chất vấn Chúa Giêsu.
Có thể nói chúng ta cám ơn những người Sađốc vì nhờ vào vấn nạn của họ,
mà chúng ta có được lời xác định rõ ràng của Chúa Giêsu về sự sống lại. Những
người theo phái Sađốc là những kẻ thuộc hàng quí tộc và tư tế. Danh gọi Sađốc
phát sinh từ tên riêng của vị thượng tế trong đền thờ thời vua Salômôn. Bộ luật
duy nhất mà những người thuộc phái Sađốc chấp nhận là bộ Tora của Môisen, được
ghi lại trong năm cuốn sách đầu tiên của Kinh Thánh mà thôi. Trong bộ Ngũ Thư
thời Môisen, sự thật về sự sống lại và về sự sống đời đời chưa được mạc khải rõ
ràng. Mãi về sau, tức là vào thời của Maccabê và tiên tri Daniel, tức khoảng thứ
kỷ thứ 2 trước Chúa giáng sinh, thì sự thật về sự sống lại mới được quả quyết
rõ ràng. Một đàng thì chưa được mạc khải rõ ràng, và đàng khác lại có luật nối
dòng của Môisen cho trường hợp cưới vợ của anh khi anh mình chết đi mà không có
con, nên chúng ta không lạ gì khi thấy các nhà thông luật, trưởng giả và tư tế
không tin có sự sống lại, đã dùng luật Môisen chống lại sự sống lại. Trong dòng
lịch sử cũng không thiếu những người chối bỏ chân lý về sự sống lại. Vào thời đại
của chúng ta hiện nay cũng vậy, cũng có những triết gia và đôi khi tệ hơn nữa,
những thần học gia lại tuyên bố không tin hay ít ra là nghi ngờ sự thật về sự sống
lại.
Trên bình diện này, mọi lý luận chỉ dựa trên công sức trí khôn con người,
thì không thể nào dẫn dắt đến sự nhìn nhận niềm tin vào sự sống lại. Chúa Giêsu
đã quả quyết mạnh mẽ về sự thật có sự sống lại, nhưng Ngài không giải thích cho
biết sự việc sẽ xảy ra như thế nào và cũng không nói về thời gian khi nào sẽ xảy
ra biến cố sống lại. Có thể là hai câu hỏi: như thế nào và vào lúc nào, là hai
điều không quan trọng cho ơn cứu rỗi, nên Chúa Giêsu đã không giải thích, không
mạc khải gì thêm. Không phải chỉ có lời quả quyết suông của Chúa Giêsu mà thôi,
nhưng chúng ta còn có sự kiện cụ thể khác nữa, đó là chính sự sống lại của Chúa
Giêsu Kitô. Chúa Kitô Phúc sinh là câu trả lời duy nhất cho thắc mắc của con
người về cái chết, về sự sống lại và sự sống đời đời.
Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong niềm tin này.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần 33 TN1
Bài đọc: I Mac 6:1-13; Lk 20:27-40.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự sống lại và cuộc sống đời đời
Có thể nói câu hỏi: “Có sự sống lại và cuộc sống đời đời không?” là câu hỏi
then chốt và quan trọng nhất của cuộc đời; vì niềm tin này sẽ hướng dẫn con người
trong cuộc sống ở đời này. Nếu con người tin có sự sống lại và cuộc sống vĩnh cửu
mai sau, con người sẽ biết sống ở đời này làm sao để đạt được cuộc sống vĩnh cửu
mai sau; nếu không tin có sự sống lại và cuộc sống đời sau, con người sẽ tập
trung mọi cố gắng để làm sao cho cuộc sống đời này được hạnh phúc và hưởng thụ
tối đa, mà không cần quan tâm đến việc thưởng phạt ở đời sau. Niềm tin vào sự sống
lại, tuy đã được đề cập đến trong Cựu-Ước, nhưng chưa được cắt nghĩa rõ ràng;
đa số người thời đó tin hạnh phúc chỉ ở đời này: sống lâu trăm tuổi, con đàn
cháu đống, được Thiên Chúa ban muôn phúc lành. Quan niệm về sự bất tử của linh
hồn được cắt nghĩa rõ ràng hơn trong Sách Khôn Ngoan (khỏang ~100 BC), và sự sống
lại trong Sách Maccabees (~150 BC). Khi Đức Kitô nhập thể, Ngài đã mặc khải rõ
ràng cho con người những điều này và Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa trong các
Sách Tin Mừng.
Các Bài đọc hôm nay tập trung vào việc tìm ra câu trả lời cho câu hỏi
quan trọng này. Trong Bài đọc I, vua Antiochus hối hận về những việc làm gian
ác đã gây ra cho người Do-thái trong những ngày cuối đời, khi nhà vua phải
đương đầu với những thất bại liên tiếp, bệnh tật, và sự chết. Trong Phúc Âm, những
người Sadducees muốn chứng minh không có sự sống lại nên dựng nên một câu truyện
giả sử để hỏi thử Chúa. Ngài trả lời Nhóm Sadducees về sự sống lại và sửa sai
niềm tin của họ.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tôi biết chắc rằng chính vì thế
mà tôi gặp phải bao nhiêu tai biến.
1.1/
Những thất bại liên tiếp của vua Antiochus:
(1) Lòng tham vô đáy: Những người tham lam không bao giờ bằng lòng với những
gì họ đang có, lòng họ luôn mong muốn có nhiều của cải hơn. Khi con người say
men chiến thắng, họ nghĩ họ có thể làm mọi sự, và không ai có thể ngăn cản họ.
Đó là lý do mà khi vua Antiochus ”nghe tin ở Ba-tư có thành Elymais, một thành
nổi tiếng vì nhiều của cải vàng bạc. Đền thờ trong thành cũng có nhiều báu vật,
có cả những mảnh giáp trụ bằng vàng, có áo giáp và vũ khí mà con vua Philíp là
Alexandre đã để lại;” nhà vua đã tới đó, tìm cách đánh chiếm và cướp phá thành.
Nhưng lần này không thành công, vì dân trong thành đã hay tin trước. Họ đứng
lên giao chiến chống lại vua khiến vua phải bỏ chạy về Babylon mà lòng buồn não
ruột.
(2) Thất bại trong việc quản trị đất Judah: Việc gian ác và cai trị bất
chính sẽ không tồn tại lâu dài vì “trời cao có mắt.” Hơn nữa, khi con người bị
dồn vào chân tường, họ sẽ phản ứng lại để bảo vệ sự sống còn của họ. Đang khi
vua ở Ba-tư, có người đến báo cho vua biết là các đoàn quân bên đất Judah đã bị
thảm bại: ”Tướng Lysias chỉ huy đoàn quân tinh nhuệ nhất đã bị người Do-thái đẩy
lui. Những người này càng thêm mạnh nhờ vũ khí, quân nhu và và nhiều chiến lợi
phẩm thu được của những đoàn quân đã bị họ đánh tan tành. Họ đã triệt hạ Đồ ghê
tởm do vua xây ở trên bàn thờ dâng lễ toàn thiêu tại Jerusalem, rồi xây tường
luỹ cao chung quanh Thánh Điện giống như ngày xưa. Cả thành Bethzur của vua, họ
cũng xây như vậy.” Nghe tin ấy, vua rất đỗi kinh hoàng. Vua lâm bệnh liệt giường
vì phiền não, lại cũng vì sự việc không diễn ra như lòng mong ước.
1.2/
Gieo gió sẽ gặt bão: Khi đối diện với thất bại, bệnh tật, và sự chết, con người mới biết suy
nghĩ lại những việc gian ác họ đã làm. Vua Antiochus nhận ra tất cả của cải ông
đã vơ vét được cách bất chính không đem lại hạnh phúc cho ông. Máu của những
người vô tội đổ ra vì tham vọng ngông cuồng của ông giờ đây trở lại ám ảnh ông
ngày đêm. Vua Antiochus nhận ra sự liên quan giữa bệnh tật ông đang chịu với những
hành vi gian ác ông đã làm. Vua nói với các bạn hữu: “Hồi tưởng lại những hành
vi tàn bạo đó, tôi biết chắc rằng chính vì thế mà tôi gặp phải bao nhiêu tai biến,
và giờ đây sắp phải chết nơi đất khách quê người vì buồn phiền vô hạn.”
Những suy xét của vua Antiochus phải là bài học cho những người ngông cuồng
không chịu tuân theo luật tự nhiên của Đấng Tạo Hóa. Họ phải biết một luật luân
lý hết sức nền tảng của con người họ phải tuân theo là “làm lành tránh dữ.”
Theo nguyên lý nhân quả, con người phải hứng chịu mọi hậu quả về các hành động
họ làm khi còn sống trên dương gian này. Nếu làm những điều tốt lành, họ sẽ được
thưởng công xứng đáng; nếu làm những sự gian ác, họ sẽ phải đền trả cách cân xứng.
Hầu hết các tôn giáo lớn trên địa cầu đều chịu ảnh hưởng của nguyên lý này, cho
dù mỗi tôn giáo một niềm tin khác nhau.
2/ Phúc Âm: Có sự sống lại hay không?
2.1/
Câu hỏi khó của Nhóm Sadducees nhằm chứng minh không có sự sống lại: Nhóm này chỉ tin vào Sách Luật
Moses và không tin có sự sống lại. Đó là lý do tại sao họ đến và hỏi Chúa
Giêsu: “Thưa Thầy, ông Moses có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em
của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để
sinh con nối dòng cho anh hay em mình (Deut 25:5). Vậy nhà kia có bảy anh em
trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Người thứ hai, rồi
người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà
không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. Vậy trong ngày
sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?” Câu hỏi
của họ tuy dựa trên Lề Luật, nhưng không thực sự xảy ra trong cuộc đời. Tuy
nhiên, nếu có sự sống lại, nàng sẽ thuộc về ai trong 7 người anh em?
2.2/
Câu trả lời của Chúa Giêsu: Chúa Giêsu tách rời 2 vấn đề của họ: chuyện vợ chồng và sự sống lại; đồng
thời Ngài sửa sai niềm tin của họ:
(1) Chuyện vợ chồng: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được
xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng
chẳng lấy chồng.” Vợ chồng chỉ xảy ra khi còn ở dương gian; tất cả là anh chị
em trong cuộc sống mai sau. Con người không có nhu cầu để cưới vợ lấy chồng
trên Thiên Đàng như Hồi-Giáo tin.
(2) Cuộc sống trường sinh: “Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được
ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống
lại.”
(3) Chúa dùng Luật họ tin để bắt bẻ sự tin sai của họ: “Còn về vấn đề kẻ
chết trỗi dậy, thì chính ông Moses cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi
gai (Exo 3:1-6), khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Abraham, Thiên
Chúa của tổ phụ Isaac, và Thiên Chúa của tổ phụ Jacob. Mà Người không phải là
Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” Nếu
họ tin “Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống,” họ phải tin các tổ phụ Abraham, Isaac,
và Jacob vẫn đang sống; nói cách khác, họ phải tin có sự sống lại.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải chịu trách nhiệm cho mọi hành động của mình khi còn sống
trên dương gian; vì thế, chúng ta phải luôn hành động theo Luật Chúa dạy và luật
tự nhiên.
– Căn bản của niềm tin vào sự sống lại là chính Chúa Giêsu. Chúng ta phải
để niềm tin này nuôi dưỡng và soi sáng mọi công việc chúng ta làm, và phải biết
sống làm sao ở đời này để xứng đáng thừa hưởng cuộc sống mai sau.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
23/11/2019 – THỨ BẢY TUẦN 33 TN
Th. Clê-men-tê I, giáo hoàng, tử đạo
Lc 20,27-40
HƯỚNG VỀ TRỜI MỚI ĐẤT MỚI
“Họ sẽ không thể chết nữa vì được ngang hàng với các thiên
thần.” (Lc 20,36)
Suy niệm: Những người phái Sa-đốc đặt
ra cho Chúa Giê-su vấn nạn của tập thể những người không tin có sự sống lại: Một
người đã lấy bảy đời chồng, khi sống lại, người này sẽ là vợ của ai? Thực ra
đây là một câu hỏi hay và họ đã hỏi đúng chỗ, bởi vì Chúa Giê-su là Thiên Chúa
làm người nên Người có thể có câu trả lời thoả đáng cho họ: Khi sống lại trong
trời mới đất mới, người ta sẽ không dựng vợ gả chồng, họ sẽ nên như các thiên
thần. Đó chính là Nước Thiên Chúa đã đến ngày hoàn tất: một vương quốc hoà
bình, công chính, thánh thiện được Chúa Giê-su hiển trị và trao lại cho Thiên
Chúa Cha. Nước đó đã bắt đầu tại trần gian, chính là Hội Thánh, nơi qui tụ những
người tin vào ơn cứu độ do Đức Ki-tô mang lại.
Mời Bạn: “Thiên Chúa không làm nên
con cá nếu Ngài chưa làm nên biển cả để nó bơi. Ngài không làm nên con chim, nếu
Ngài không dựng nên bầu trời để nó bay. Thiên Chúa cũng sẽ không đặt khát vọng
sống bất tử vào lòng người nếu Ngài không dựng nên một thiên đàng để thoả mãn
khát vọng đó.” Mầm sống vĩnh cửu được gieo vào lòng bạn, đừng để bất cứ sự gì
vùi dập nó đi.
Chia sẻ: Chủ nghĩa tiêu thụ có gì ngăn trở người ki-tô hữu hướng về
trời mới đất mới?
Sống Lời Chúa: Sống Tin Mừng, đón nhận Nước
Chúa và hoán cải với tinh thần của một trẻ thơ, đấy là cách chúng ta tham dự
vào – là cảm nếm trước – sự sống vĩnh cửu ở đây và ngay lúc này.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa dựng nên chúng con cho Chúa. Xin cho
chúng con luôn khát mong đi tìm Chúa, và biết gạt xa chúng con tất cả những gì
có thể làm chúng con xa Chúa.
(5 Phút Lời Chúa)
Đời này, đời sau (23.11.2019 –
Thứ Bảy Tuần 33 TN)
Suy niệm:
Cuộc đời con người có vẻ như chấm dứt bằng cái chết.
Một triết gia Ðức bảo con người sinh ra để chết.
Cái chết là số phận của mỗi người,
nhưng nói chung ai cũng muốn sống.
Kitô giáo cho rằng con người sinh ra là để sống mãi.
Cái chết chỉ là cánh cửa mở vào cõi vĩnh hằng.
Một số tôn giáo tin rằng đời người có nhiều kiếp.
Kitô giáo chỉ nhận có một cuộc đời ta đang sống.
Chính cuộc đời duy nhất này
định đoạt số phận vĩnh cửu của ta.
Không có một cơ hội thứ hai để làm lại.
Chính vì thế phải sống hết mình cho đời này
để đáng hưởng hạnh phúc đời sau.
Ðời sau mãi mãi là một mầu nhiệm.
Chẳng ai chụp hình được thiên đàng hay hỏa ngục.
Người đã khuất cũng không trở lại để kể ta nghe.
Bởi thế, nhiều người không tin có đời sau.
Cả những tín hữu cũng bị cuốn hút bởi vật chất,
và sống như thể chỉ có đời này.
Ðời sau là chuyện ở đâu đó, hoàn toàn xa lạ.
Người thuộc phái Xađốc tin rằng sau cái chết
linh hồn con người vất vưởng như cái bóng nơi âm phủ.
Âm phủ là nơi tối tăm, buồn chán, thiếu sự sống.
Người Pharisêu lạc quan hơn, cho rằng
đời sau là sự kéo dài của đời này.
Người ta sống như trước, nhưng tràn trề hạnh phúc.
Ðức Giêsu vén mở cho ta phần nào bức màn đời sau.
Ðời sau khác hẳn đời này.
Người ta không cưới vợ lấy chồng, không cần con nối dõi,
nhưng sống như các thiên thần,
nghĩa là chỉ lo phụng sự và ca ngợi Thiên Chúa.
Ðời sau là nơi không còn bóng dáng của thần chết.
Người ta thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh.
Toàn bộ con người được sống lại: cả hồn lẫn xác.
Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian,
nhưng sẽ được biến đổi một cách kỳ diệu
để chung hưởng hạnh phúc với linh hồn.
Trong tháng cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời,
chúng ta nghĩ đến cái chết và đời sau.
Cái chết dạy tôi biết cách sống.
Ðời sau kéo tôi ra khỏi những hạnh phúc giả tạo,
và những nỗi khổ đau do mê lầm.
Tôi đang đi về đời sau
để gặp Ðấng mà tôi đã tin yêu suốt đời.
Tất cả cuộc hành trình đều phải hướng về nguồn cội.
Chúng ta đã được dựng nên cho Thiên Chúa,
và chúng ta còn khắc khoải mãi cho đến khi gặp được Ngài.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
khi ra thăm nghĩa địa,
khi vào viếng phòng hài cốt,
con hiểu rằng mình phải có
lòng tin lớn lao
mới dám nghĩ một ngày nào đó
những thân xác hư hoại này sẽ
sống lại.
Con người trở về bụi tro,
nhưng bụi tro sẽ trở lại làm
người,
vì con người sinh ra là để bất
tử như Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
trần gian này quá đẹp
khiến con mải mê, quên mình
là lữ khách;
thiên đàng lại xa xôi, chẳng
có chỗ trong con.
Con loay hoay vun quén cho đời
sống cá nhân,
như thể con sẽ sống mãi trên
mặt đất.
Xin khơi dậy nơi con
niềm khát khao những điều
cao cả.
Xin đừng để con
mãn nguyện với những cái tầm
thường.
Ước gì Chúa cho con nếm chút vị ngọt của trời cao,
khi con quên mình
để sống cho anh em trên mặt
đất.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
23 THÁNG MƯỜI MỘT
Mở Rộng Tấm Lòng Để
Đón Nhận
“Bất cứ ai đón nhận em
bé này nhân danh Thầy là đón nhận chính Thầy” (Lc 9,48). Lời ấy của Chúa Giêsu
soi sáng ý nghĩa của việc đón nhận trẻ em làm con nuôi. Quyết định nhận nuôi một
đứa trẻ luôn luôn phát xuất từ tình yêu đối với trẻ em và từ nỗi khát khao được
làm cha làm mẹ. Việc nhận con nuôi là một chứng tá độc đáo loan báo cho thế giới
thấy tấm lòng rộng mở để chia sẻ sự sống và tình yêu tự nguyện đối với một đứa
trẻ đang cần có cha mẹ và cần một mái ấm gia đình.
Dù trong thời đại
chúng ta những đám mây đen đang vần vũ trên các gia đình, chúng ta vẫn được
khích lệ bởi vô số những tấm gương quảng đại rực sáng lên trong các gia đình
Kitôhữu. Chúng ta ngập tràn hy vọng khi nhìn thấy các chứng tá ấy. Những sự chọn
lựa theo tinh thần Kitô giáo thường trái ngược với não trạng thế gian xung
quanh chúng ta. Những sự chọn lựa ấy sẽ thách đố và chất vấn những người cần
nghe Tin Mừng, những người có khuynh hướng muốn sống một cuộc sống đóng kín và
ích kỷ. Việc nhận con nuôi là một dấu hiệu qua đó các gia đình Kitôhữu tuyên bố
rằng mình không muốn khép kín nơi chính mình – trái lại, muốn mở ra đón nhận một
đứa trẻ đáng thương và nhận một trách nhiệm cao cả cách vui tươi và vô vụ lợi.
Quyết định nhận con
nuôi không bao giờ là một quyết định dễ dàng. Thật vậy, quyết định đó luôn luôn
kèm theo với nó những bổn phận hết sức quan trọng và phức tạp. Tuy nhiên, đó là
một quyết định có sức làm phong phú cộng đồng.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng
trong thời đại chúng ta ngày càng có nhiều gia đình ước ao nhận con nuôi. Đây rõ ràng là một chiều hướng tích cực. Đây là một
sự đáp trả đầy yêu thương trước một tiếng gọi cao cả. Đó là lý do tại sao tôi
muốn bày tỏ sự ủng hộ của mình đối với những gia đình đang đảm nhận công việc
quan trọng này. Tôi cũng muốn khích lệ công việc của những người liên hệ đến việc
giới thiệu nhận con nuôi. Xin Chúa chúc lành cho công việc đầy ý nghĩa này và
chúc lành cho mọi gia đình đang nuôi dạy những đứa con nuôi một cách đầy yêu
thương và quảng đại.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 23/11
Thánh Clêmentê I,
giáo hoàng, tử đạo
và Thánh Côlumbanô,
viện phụ
1Mcb 6, 1-13; Lc
20, 27-40.
LỜI SUY NIỆM: “Người không phải
là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất
cả đều đang sống.”
Với quan niệm của người Xađốc họ tin vào sự tự do không giới hạn và không tin
có sự sống lại. Trong lúc người thuộc nhóm Pharisêu họ tin tưởng và trông đợi sự
giáng lâm của Đấng Mêsia và tin vào sự sống lại của người chết. Đứng trước hai
quan niệm này Chúa Giêsu đã gợi cho họ nhớ lại lời Thiên Chúa của họ, đã nói với
Môsê: Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của của
Isaác và Thiên Chúa của Giacóp (Xh 3,6).
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người chúng con đừng bao giờ hiểu về trời theo cách
hiểu dưới đất này, nhưng luôn tin tưởng vào Lời Chúa và Giáo Huấn của Giáo Hội.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 23-11
Thánh CLÊMENTÊ I
Giáo Hoàng Tử Đạo
Người ta biết được về
thánh Clêmentê, vị giáo hoàng trị vì trong 10 năm chỉ nhờ bức “thư gởi giáo hữu
Corintô” thôi. Vào thế kỷ thứ IV có lưu hành những chứng thư đầy huyền thoại.
Theo đó, cha Ngài là Phaustin thuộc dòng dõi Giacop. Sinh tại Roma, được nuôi
dưỡng trong Do thái giáo.
Thánh Clêmentê đã nghe
theo những diễn từ của các thánh tông đồ và trở thành môn đệ các Ngài. Ngài đã
theo thánh Phaolô trong các hành trình đi truyền giáo và đã trở thành đấng kế vị
thứ ba của thánh Phêrô. Vua Trajanô đang bách hại các Kitô hữu biết được rằng:
vị giáo hoàng đã đem được nhiều người trở lại đạo. Ông kết án Ngài phải làm việc
khổ sai tại các hầm mỏ bên kia Bắc Hải, trong các miền hoang vắng. Hai ngàn
Kitô hữu đẽo đá tại đây chịu cảnh khát nước thảm khốc.
Tương truyền rằng
thánh Clêmentê cầu nguyện rồi lên một ngọn đồi và thấy một con chiên ghi dấu
chân đúng vào chỗ có dòng nước tươi mát vọt lên làm giảm khát cho người mang
án. Các bức tranh cẩn đâu tiền còn diễn lại biểu tượng một con chiên đứng trên
ngọn núi xanh. Nhà vua khi biết được rằng thánh Clêmentê đã dùng lời nói và
phép lạ để an ủi các Kitô hữu, liền sai các sứ giả tới cột cổ Ngài vào một cái
neo rồi ném xuống biển. Lệnh đường thi hành. Nhưng trong khi các tín hữu cầu
nguyện trên bờ, họ thấy dòng nước rút đi một cách lạ lùng và có thể đưa xác vị
tử đạo lên đất liền.
Điều chắc chắn kính là
bức thư của thánh Clêmentê đã thành một trong các tài liệu quí giá của Kitô
giáo thời Chúa xưa. Các Kitô hữu Côrintô chạy đến Đức giáo hoàng để tìm hoà giải
những cuộc tranh chấp, đã kính cẩn đón tiếp thư của Ngài. Những thư này được đọc
cho các cộng đoàn tín hữu. Thư của thánh Clêmentê chứng thực việc thánh Phêrô đến
và chịu chết ở Roma, việc Nêrô bắt các Kitô hữu làm trò mua vui. Thư cũng gợi ý
cho chúng ta việc tổ chức Giáo hội. Giữa các sự việc lớn lao khác, thánh
Clêmentê đã nói:
– “Ai mạnh hãy lo cho
người yếu. Người giầu hãy giúp đỡ người nghèo và người nghèo hãy chúc tụng Chúa
và điều Ngài muốn cung ứng cho các nhu cầu của họ. Người khôn ngoan hãy tỏ ra
khôn ngoan không phải chỉ trong lời nói mà còn trong các việc lành. Người khiêm
tốn đùng nóí gì về mình và đừng tìm phô diễn hành động của mình. Người lớn
không thể tồn tại mà không có người nhỏ và người nhỏ cũng không thể tồn tại mà
không có người lớn… Thân thể không thể bỏ qua sự phục vụ của những chi thể nhỏ
bé hơn.
Các tín hữu còn học biết
bằng qua những âu lo vô ích và sống đời sám hối, mỗi người phải biết vâng phục
để trở nên tôi tớ hoàn tất vinh quang Thiên Chúa. Đức Kitô đã không đến trong
kiêu sa, nhưng đã tự hạ, đã chịu khổ cực. Vậy phải nên thánh và tín thác cho
Chúa.
Chỉ một bức thư này
còn quan trọng trong sự thật vượt xa mọi truyện thần thoại.
(daminhvn.net)
23 Tháng Mười Một
Tấm Gương Trong Lâu Ðài Versailles
Lâu đài Versailles ở
ngoại ô Paris là một trong những danh lam thu hút nhiều du khách nhất. Trong
lâu đài, nơi mà du khách cảm thấy bị giữ chân lâu nhất đó là phòng khánh tiết bằng
pha lê, được trang bị bằng hàng ngàn tấm kính từ trên trần nhà đến các vách tường.
Du khách sẽ ngỡ
ngàng vì một hiện tượng lạ lùng: Nếu bạn đưa tay ra và chỉ về một phía nào đó,
bạn sẽ thấy có hàng trăm ngàn cánh tay và hàng ngàn khuôn mặt đang hướng về bạn
như đang ngắm nhìn bạn. Bạn sẽ cảm thấy như mọi người đang chú ý đến bạn. Nhưng
nhìn cho kỹ thì tất cả những cánh tay, tất cả những khuôn mặt đó đều là của bạn.
Ðó là hình ảnh của mỗi
người trong chúng ta. Ai trong chúng ta cũng cho mình là quan trọng nhất. Tất cả
mọi hành động, mọi ý nghĩ, mọi lời nói, đều tập trung vào bản thân chúng ta và
trong lòng chúng ta không còn một chỗ trống nào dành cho người khác.
Cái tôi trong chúng ta
có thể là một trở ngại cho tương giao giữa chúng ta và người khác cũng như
tương giao giữa chúng ta và Chúa. Sự sống của Chúa chỉ có thể lớn mạnh trong
chúng ta và sự sống của chúng ta chỉ có thể triển nở là lúc chúng ta thực sự sống
cho Chúa. Lời của Ngài phải tiêu diệt cái tôi ích kỷ trong chúng ta để chúng ta
có thể lớn lên trong Người. Nói như thánh Gioan Tẩy Giả khi gặp chúa Giêsu:
“Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Thưa bạn, đó là bí quyết trong cuộc
sống của người Kitô chúng ta.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét