CHÚA NHẬT 02/06/2013
MÌNH MÁU THÁNH CHÚA
(Phần I)
BÀI ĐỌC I: St 14, 18-20
"Ông mang bánh và
rượu tới".
Trích sách Sáng Thế.
Trong
những ngày ấy, Menkixêđê là vua thành Salem, đem bánh và rượu tới, vì ông là
thượng tế của Thiên Chúa Tối Cao, ông chúc phúc cho Abram rằng: "Xin Thiên
Chúa Tối Cao và Đấng tạo thành trời đất chúc phúc cho Abram, và đáng chúc tụng
thay Thiên Chúa Tối Cao, vì nhờ Người che chở, quân thù đã rơi vào tay
ông". Và Abram dâng cho ông một phần mười tất cả chiến lợi phẩm. Đó là lời
Chúa.
ĐÁP CA: Tv 109, 1. 2. 3. 4
Đáp: Con là Thượng tế tới muôn đời theo phẩm hàm Menkixêđê (c.
4bc).
1)
Thiên Chúa đã ban bố cùng Chúa tôi rằng: "Con hãy ngồi bên hữu Ta, cho tới
khi Ta bắt quân thù làm bệ kê dưới chân Con". - Đáp.
2)
Đức Thiên Chúa từ Sion sẽ phô bày vương trượng quyền bính của Ngài, rÄng:
"Con hãy thống trị giữa quân thù". - Đáp.
3)
"Các thủ lãnh cùng hiện diện bên Con, ngày Con giáng sinh trong thánh
thiện huy hoàng: trước rạng đông, tựa hồ sương sa, Ta đã sinh hạ ra Con". - Đáp.
4)
Đức Thiên Chúa đã thề và không hối hận rÄng: "Con là Thượng tế tới muôn
đời theo phẩm hàm Menkixêđê". - Đáp.
BÀI ĐỌC II: 1 Cr 11, 23-26
"Mỗi khi anh em
ăn và uống anh em loan truyền việc Chúa chịu chết".
Trích
thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.
Anh
em thân mến, phần tôi, tôi đã lãnh nhận nơi Chúa điều mà tôi đã truyền lại cho
anh em, là Chúa Giêsu trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và
phán: "Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con:
Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta". Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn
tối, Người cầm lấy chén và phán: "Chén này là Tân Ước trong Máu Ta; mỗi
khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta". Vì mỗi khi anh
em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho tới
khi Chúa lại đến. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 6, 51-52
Alleluia,
alleluia! - Chúa phán: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh
này, thì sẽ sống đời đời". - Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 9, 11b-17
"Tất cả đều ăn no
nê".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy, Chúa Giêsu nói với dân chúng về nước Thiên Chúa và chữa lành những kẻ cần
được cứu chữa. Vậy khi đã xế chiều, nhóm mười hai đến thưa Người rằng:
"Xin Thầy giải tán dân chúng, để họ đi vào trong các làng mạc và trại
quanh đây mà trú ngụ và kiếm thức ăn, vì chúng ta đang ở nơi hoang địa".
Nhưng Người nói với các ông: "Các con hãy cho họ ăn đi". Các ông trả
lời: "Chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, trừ phi chúng con
phải đi mua thức ăn cho cả đám đông này". Số đàn ông độ năm ngàn. Người
nói với các môn đệ rằng: "Hãy cho họ ngồi xuống từng nhóm độ năm mươi
người". Các ông đã làm như thế, và bảo tất cả ngồi xuống. Chúa Giêsu cầm
lấy năm chiếc bánh và hai con cá, nhìn lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và
phân phát cho các môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Tất cả đều ăn no nê,
và người ta thu lượm được mười hai thúng miếng vụn còn dư lại. Đó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Bàn tiệc huynh
đệ
Lễ
nào không phải là lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu hay sao, mà phụng vụ còn phải
đặt ra ngày lễ hôm nay? Ðó là vấn đề được tranh luận sôi nổi ở cuối thế kỷ XIII
và đầu thế kỷ XIV trước khi lễ kính trọng thể Mình Máu Thánh Chúa Giêsu được
phổ biến ở mọi nơi.
Trước
đó, tức là trong hơn 10 thế kỷ đầu của Kitô giáo, Hội Thánh vẫn cử hành thánh
lễ tạ ơn, nhưng không nghĩ tới việc đặt ra một ngày đặc biệt để tôn thờ Chúa
Giêsu ngự nơi Thánh Thể. Hội Thánh coi Thánh Thể là lương thực hằng ngày nên
không để ý quan sát, mà chỉ quan tâm lãnh nhận. Sang đến cuối thế kỷ 12, vì có
người đặt vấn đề về sự hiện diện của Chúa Giêsu nơi Thánh Thể, Hội Thánh mới
thấy việc chiêm ngưỡng và suy nghĩ về bí tích này là cần thiết. Lễ Mình Máu
Thánh Chúa Giêsu được đặt ra để nói lên niềm tin vào việc Chúa ngự nơi Thánh
Thể. Và niềm tin này đòi hỏi việc tôn thờ xứng đáng, biểu hiện trong thái độ
chầu Mình Thánh, và kiệu Mình Thánh. Ðó còn là những việc mà chúng ta muốn làm
hôm nay cùng với việc dự lễ và rước lễ để nói lên lòng tin yêu của chúng ta đối
với bí tích Thánh Thể.
Nhưng
cho dù chính đáng, những cách thức biểu lộ niềm tin này vẫn không cần thiết
bằng việc kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể mà Hội Thánh vẫn quan tâm ngay từ
đầu. Và những bài đọc Kinh Thánh hôm nay muốn giúp chúng ta làm công việc này.
1. Bánh Rượu Trong Tay Melkisedek
Bài
sách Khởi nguyên đưa chúng ta về một thời đại xa xưa. Thời đại của tổ phụ
Abraham cách đây gần 40 thế kỷ. Hôm ấy vị tổ phụ đi giao chiến về để cứu anh em
mình là gia đình ông Lót. Abraham đã toàn thắng. Trên đường về có vua ở Sôđôm
ra đón để chúc mừng và tỏ tình thân thiện. Lại có vua ở Salem là Melkisedek cũng ra gặp gỡ. Tác giả
sách Khởi nguyên chỉ dùng có ba câu để thuật lại câu chuyện. Nhưng đây là ba
câu đã có ảnh hưởng lớn trong truyền thống của Kinh Thánh. Hết mọi từ ngữ đều
có ý nghĩa. Melkisedek nếu chiết tự thì có nghĩa là Vua Công Chính, và Salem không những là tên
được đồng hóa với Giêrusalem mà còn gợi lên tư tưởng hòa bình. Chắc chắn câu
chuyện kể ở đây đã thành danh tiếng vì nó đã xảy ra tại Giêrusalem ở ngay thời
của tổ phụ dân Chúa. Người ta truyền tụng nó để đề cao Giêrusalem và để nói lên
rằng thủ đô của Dân Chúa đã được vị tổ phụ của dân tộc đặt chân đến.
Hơn
nữa, ở đây, nơi đô thị "Hòa Bình" này, vị tổ phụ đã gặp một nhân vật
"mầu nhiệm". Ông không phải chỉ là vua mà còn mang danh hiệu là
"Ông vua công chính".
Về
sau người ta đã cố gắng tìm hiểu lai lịch của ông, nhưng mọi nỗ lực chỉ đi đến
một kết luận: ông như không cha, không mẹ; đột nhiên xuất hiện rồi lại biến mất
tăm hơi. Ông là con người mầu nhiệm, y như thái độ của ông trong câu chuyện
này.
Ông
ra đón Abraham, nhưng khác hẳn với vua Sôđôm đã ra gặp vị tổ phụ. Vì mặc dù là
vua Salem , ông
đã không nghênh đón "Người đại thắng khải hoàn" theo cung cách triều
đình, nhưng với tác phong tư tế; Vì theo tục lệ đông phương thời ấy, hoàng đế
cũng là tư tế. Ông mang bánh và rượu ra. Ông làm một cử chỉ tôn giáo. Ông chúc
lành cho Abraham và ông ca tụng Chúa Tối Cao dựng nên trời đất để chúc phúc.
Ông làm cho Abraham như phải cúi đầu và dâng cho ông thập phân về hết mọi sự.
Có
lẽ hàng tư tế Do Thái đã thích câu chuyện này và thích lợi dụng tối đa. Họ nhắc
đi nhắc lại để cho con cái Israel
phải quý việc nộp thập phân huê lợi cho hàng tư tế, vì chính tổ phụ đã làm như
thế!
Nhưng
phần lớn truyền thống Cựu Ước lại chú ý đến vai trò tư tế của Melkisedek và vị
Chúa tối cao mà ông tôn thờ. Ngài là Ðấng dựng nên trời đất nên Ngài cũng là
chính Giavê, Chúa của dân Israel .
Ngài đã phó địch thù trong tay Abraham, và như vậy Ngài là Chúa toàn năng của
tất cả mọi người, cả khi người ta không biết Ngài. Tất cả những tư cách này
khiến con cái Israel - cũng như tổ phụ Abraham thấy ngay Ngài cũng là Thiên
Chúa của họ, và Giêrusalem thật là nơi thánh địa, vì từ đầu vẫn là đô thị của
Thiên Chúa.
Ðiều
này cũng nói lên quan niệm của Cựu Ước không coi tôn giáo tự nhiên, tôn thờ
đấng dựng nên trời đất, như tôn giáo của các dân ngoại. Ngoại giáo là tà giáo,
chứ tôn giáo tự nhiên thờ Ðấng Tối Cao là chính giáo ở thời chưa được mạc khải,
nên vẫn đáng trọng.
Tuy
nhiên Cựu Ước chưa chú trọng đến bánh rượu ở trên tay Melkisedek như phụng vụ
muốn cho chúng ta phải làm trong ngày hôm nay. Những của lễ kia, nằm trong tay
vị tư tế mầu nhiệm của tôn giáo tôn thờ Ðấng Tối Cao là hình ảnh báo trước bánh
rượu sẽ được đôi tay của vị tư tế đạo mới dâng lên sau này. Thiên Chúa, Ðấng
dựng nên trời đất, ngay từ buổi đầu lịch sử dân Chúa, đã tỏ ra muốn dùng bánh
rượu làm lễ vật. Những của lễ này nằm trên tay Melkisedek nói lên lòng tôn thờ
tự nhiên chuẩn bị cho việc phụng thờ hoàn chỉnh sau này.
Do
đó, ngày nay trong Thánh Lễ, chúng ta dâng lên Chúa bánh rượu "là hoa màu
ruộng đất và lao công vất vả của con người" để trở nên Mình và Máu Chúa
Kitô. Thánh lễ của chúng ta kiện toàn lễ dâng của Melkisedek. Bánh rượu trên
tay vị tư tế này đang chờ được vị Thượng tế đạo mới thánh hóa. Và như vậy,
Thánh lễ đã bắt nguồn từ xa xưa và kiện toàn mọi lễ dâng từ thời Abel qua
Melkisedek và cho tới nay. Chúng ta không dâng lễ ở ngoài lịch sử, nhưng dâng
tất cả lịch sử làm của lễ khi nhận lấy bánh rượu và được dâng từ thời
Melkisedek để trở nên bánh nuôi sống và của uống thiêng liêng cho chúng ta.
Và
Melkisedek là hình ảnh báo trước về Chúa Kitô và các tư tế của Người, trong đó
có cả chúng ta. Do đó, mỗi khi dâng lễ, chúng ta lại nhớ đến vị tư tế xa xưa
này. Mỗi khi cầm bánh rượu, chúng ta như nắm lấy tất cả thiên nhiên và lịch sử.
Chúng ta muốn tất cả trở thành lương thực nuôi dưỡng chúng ta sau khi đãbiến
đổi nên Mình và Máu Chúa Giêsu. Chính Người với lễ hy sinh của Người nối kết và
hoàn chỉnh mọi lễ dâng của các thế hệ xa xưa cũng như của những thế hệ sau này.
Chúng ta hãy nhìn Người trong hành vi tế lễ.
2. Bánh Rượu Trong Tay Chúa Giêsu
Chắc
chắn, khi còn ở trần gian và sống với các môn đệ, Ðức Giêsu đã nhiều lần cầm
lấy bánh và rượu. Nhưng có thể nói, môn đệ đã quên hết mọi lần khác để chỉ nhớ
một lần, lần xảy ra trong bữa ăn tối sau hết trước khi Người ra đi chịu chết.
Lần
ấy Người đã cầm lấy bánh rượu một cách khác thường, không thể quên được, đến
nỗi mỗi lần khi nhắc lại đã có lần nào Người cầm bánh rượu, là môn đệ lại nhớ
đến lần này và lấy cử chỉ, thái độ của Người trong lần này để mô tả mọi lần
khác. Chính vì vậy mà hôm nay chúng ta xem bài thư Phaolô trước nói đến lần Ðức
Giêsu cầm lấy bánh rượu ở bàn tiệc ly. Rồi chúng ta mới nói đến bài Tin Mừng kể
việc Ðức Giêsu cầm lấy bánh để chia trong một dịp khác.
Việc
này xảy ra trước bữa tiệc ly, nhưng như đã nói, môn đệ Chúa kể lại việc này
theo "khuôn mẫu" của việc Người cầm lấy bánh rượu trong bữa ăn cuối
cùng. Thành ra, chính bài thư Phaolô sẽ giúp chúng ta hiểu bài Tin Mừng, mặc dù
câu chuyện kể ở đây đã xảy ra trước, nhưng lại đã được viết lại sau và theo
kinh nghiệm bàn tiệc ly.
Thánh
Phaolô viết đoạn thư này vào khoảng năm 57, căn cứ vào truyền thống chân thật.
Ðây là điều Ngài đã nhận được nơi Chúa, tức là bắt nguồn từ Chúa để truyền lại
cho tín hữu. Do đó, đây là sự kiện chân thật. Chỉ có uy tín chân thật này mới
có thể làm cho giáo dân Côrintô suy nghĩ và sửa mình.
Họ
vẫn hội họp nhau để cử hành "bữa tiệc của Chúa". Nhưng Phaolô thấy
chẳng có vẻ gì là "của Chúa" cả. Gần giống như các bữa tiệc tôn giáo
của dân ngoại rồi. Bởi vì ai đến ăn, cũng mang phần riêng của nhà mình tới.
Người có nhiều thì ngồi chung với nhau ăn nhậu một cách tham lam và khinh bỉ
những người khác. Những người nghèo hơn, mang theo phần ít, ngồi ăn một cách
buồn bã. Người ta chỉ mượn "nhà của Chúa" để mang đồ ăn "nhà
mình" tới. Người ta lợi dụng buổi lễ tôn giáo để ăn uống chứ không cử hành
"bữa ăn tối" của Chúa nữa.
Thế
nên để sửa dạy giáo dân của Ngài, Phaolô phải nhắc lại thế nào là "Bữa
ăn" đích thực của Chúa. Ngài làm cho họ nhớ lại giáo huấn chân truyền. Và
sự thật ấy thế này: trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu đã cầm lấy Bánh và tạ ơn xong,
Ngài đã bẻ ra và nói: "Này là Mình Ta vì các ngươi...". Cũng vậy về
Chén, sau khi dùng bữa tối xong, Ngài nói: "Chén này là giao ước mới trong
Máu Ta, các ngươi hãy làm sự này mỗi khi uống mà nhớ đến Ta".
Chỉ
trong mấy câu vắn tắt, Phaolô đã thuật lại tất cả sự thật. Ngài nói rõ việc ấy
xảy ra trong đêm Ðức Giêsu bị nộp. Thế nên việc ban bánh rượu này cho môn đệ
gắn liền với cuộc khổ nạn của Người. Và bữa ăn của Chúa, luôn luôn mang sắc
thái của buổi tiệc ly.
Ðó
cũng là bữa ăn Vượt qua của người Do Thái, nhắc lại việc Chúa cứu dân ra khỏi
Ai Cập và tin tưởng cầu xin cùng chờ đợi Chúa còn tiếp tục giải cứu nữa trong
tương lai cho đến khi có giao ước mới và vĩnh cửu như lời các ngôn sứ của Chúa
từng loan báo. Và trong bữa ăn này, việc giết một con chiên để lấy máu bôi lên
cửa là việc cốt yếu. Thế mà khi chia bánh rượu cho môn đệ, Ðức Giêsu lại tuyên
bố: Ðây là Mình Ngài bị nộp và đây là chén Máu Ngài sẽ đổ ra. Người còn gọi đó
là chén giao ước mới. Do đó rõ ràng Người đã tự coi, tự biến mình nên Chiên
Vượt qua để mang đến ơn cứu độ mà các ngôn sứ từng loan báo.
Các
môn đệ không lầm. Họ thấy rõ với các cử chỉ này Chúa Giêsu đã khai trương thời
đại mới. Người đã thay thế bữa ăn Vượt qua của người Do Thái bằng bữa ăn của
Người hôm nay. Có thể họ chưa hiểu rõ những lời về Mình và Máu; vì phải đợi đến
ngày hôm sau khi thấy Mình Người bị nộp và Máu Người chảy ra họ mới hiểu hết ý
nghĩa. Nhưng họ đã cảm thấy chắc chắn Chúa Giêsu muốn dùng các cử chỉ của Người
hôm nay để ký kết giao ước mới, chấm dứt đạo cũ và nghi lễ cũ. Từ nay bước sang
thời đại cứu độ và nếp sống mới. Và nghi lễ mới cũng đã được thiết lập, vì Ðức
Giêsu đã bảo: phải làm sự này mà nhớ đến Người. Tức là mỗi khi nhớ đến Ngài,
nhớ đến để hiệp thông với Ngài trong hành vi cứu độ để được giao ước mới, phải
làm việc Ngài vừa làm, tức là phải cầm lấy Bánh Rượu mà làm như Ngài.
Thế
mà giáo dân Côrintô đâu có làm như thế! Thánh Phaolô bảo họ: "mỗi lần anh
em ăn bánh và uống chén này, anh em loan báo sự chết của Chúa... anh em làm bất
xứng, thì sẽ mắc tội đối với Mình và Máu Chúa".
Những
lời này tuyên bố rõ ràng có sự hiện diện của Chúa nơi Thánh Thể. Bánh rượu đã
trở nên Mình Máu Thánh Chúa. Nếu ngày lễ hôm nay có ý nói lên niềm tin Chúa
hiện diện nơi Bánh Thánh, Rượu Thánh, thì những lời Phaolô vừa nói đã đạt yêu
cầu. Nhưng mục đích của Phaolô không phải chỉ muốn nói đến sự hiện diện của
Chúa nơi Thánh Thể; Ngài muốn nói rằng người ta phải hiệp thông với Chúa, có
tâm tình của Chúa để cử hành tiệc Bánh Rượu.
Ðây
là bữa ăn Vượt qua. Người ta phải ôn lại và ôm lấy tất cả lịch sử từ trước cho
đến nay với tâm tình tạ ơn nhưng cũng với ý thức xót xa vì bao nhiêu khiếm
khuyết để ước mong được cứu độ nhờ giao ước mới. Người ta sẽ cầm lấy bánh và
chén rượu. Và lúc ấy theo lời Chúa Giêsu đã nói, người ta nhớ đến Người, nhớ
đến cuộc tử nạn hồng phúc của Người. Người ta tham dự, thông phần lễ hy sinh
Người đã dâng để được vượt qua, sống lại, hướng về ngày vinh quang Người trở
lại.
Bánh
rượu trên tay Chúa, vì thế, không phải chỉ là bánh rượu trên tay Melkisedek
nữa. Nếu trên tay vị tư tế mầu nhiệm này, bánh rượu tượng trưng cho thiên nhiên
và đạo tự nhiên, thì trên tay Chúa Giêsu bánh rượu mang thêm ý nghĩa lịch sử và
giao ước cũ. Ðó không phải chỉ là hoa màu ruộng đất nhưng còn là lao công vất
vả của con người. Thiên nhiên và con người đều phải trở nên tạo vật mới nhờ mầu
nhiệm Chúa Giêsu nơi Bí Tích Bánh Rượu mà chúng ta còn tiếp tục dâng trên bàn
thờ.
3. Bánh Rượu Trên Tay Chúng Ta
Dĩ
nhiên khi dâng bánh rượu, chúng ta phải có những tâm tình như trên vừa nói; vì
lời thánh Phaolô đã nói với tín hữu Côrintô cũng là để cho chúng ta. Nhưng mục
đích cuối cùng của Phaolô không phải chỉ muốn nhắc cho chúng ta nhớ "Bữa
ăn của Chúa" mà còn khuyên chúng ta vì tính chất của bữa ăn như vậy, nên
phải cử hành tiệc Thánh Thể mà gia tăng bác ái. Bữa ăn của Chúa phải là bữa ăn
Huynh đệ.
Ở
đây chúng ta hãy nhớ bài Tin Mừng Luca. Chúng ta đã nói cử chỉ cầm bánh rượu
của Ðức Giêsu nơi bàn tiệc ly đặc sắc quá khiến mỗi khi nhắc lại những lần khác
mà Ðức Giêsu cầm lấy bánh rượu, các môn đệ lại nhớ đến các cử chỉ của Người ở
bàn tiệc ly và dùng chúng làm khuôn mẫu để diễn tả.
Ðiều
này rõ ràng trong bài Tin Mừng hôm nay. Luca kể hôm ấy Chúa muốn thiết những
người đi theo Người vào nơi hiu quạnh. Người cho họ ngả mình xuống thành từng
cỗ, mỗi cỗ độ năm mươi... Rồi Người cầm lấy bánh và hai con cá. Người ngẩng mặt
lên trời và chúc tụng trên bánh và cá, đoạn bẻ ra và ban cho môn đệ để họ thết
dân chúng...
Chúng
ta bảo bữa ăn này báo trước bàn tiệc ly và nhất là bàn tiệc Thánh Thể trong Hội
Thánh; hay chúng ta phải nói các bữa ăn Thánh Thể và bàn tiệc ly đã cung cấp
cho Luca mọi yếu tố để thuật lại một câu chuyện xảy ra trước?
Dĩ
nhiên câu chuyện này cũng có ý báo trước những sự việc xảy ra sau... nhưng
chính những sự kiện xảy ra sau đã đem ý nghĩa đến cho câu chuyện xảy ra trước
và cung cấp cho nó những tài liệu để diễn tả.
Chúng
ta không cần nói thêm điều ấy nữa. Nhưng vì Luca đã nhìn vào bàn tiệc Thánh Thể
trong Hội Thánh để thuật câu chuyện đã xảy ra nơi sa mạc, thì chúng ta hãy xem
ngoài các yếu tố báo trước bàn tiệc ly và bàn tiệc Thánh Thể, Luca còn muốn chú
trọng đến điểm nào nữa? Dường như tác giả đã chú ý đến vai trò của các tông đồ.
Lúc đó họ muốn giải tán dân vì thấy bất lực cung cấp lương thực cho dân. Nhưng
được Chúa gợi ý cho dân ăn, họ nhiệt tình muốn đóng góp tất cả và sẵn sàng làm
thêm... Chúa bảo họ tổ chức cho dân ngả xuống thành từng cỗ. Người trao bánh cá
cho họ phân phát... cuối cùng còn thu được 12 giỏ mảnh vụn, đúng số 12 tông đồ.
Những
điều ấy há không đáng suy nghĩ sao? Trong bàn tiệc Thánh Thể, Chúa muốn chúng
ta phải biết nghĩ đến nhu cầu của anh em. Có thể chúng ta bất lực, nhưng Chúa
sẽ giúp. Mình Máu Người còn trao cho chúng ta để chia sẻ, huống nữa là của cải
vật chất và tài năng tự nhiên mà Chúa đã đặt trong tay mỗi người. Chúng ta
không phải chia sẻ những của ấy sao? Chúng ta sợ mất mát thiệt thòi sao, khi
thấy cuối cùng còn thu lại được 12 giỏ mảnh vụn?
Chắc
chắn Hội Thánh ban đầu đã hiểu rằng bàn ăn của Chúa cũng phải là bàn tiệc huynh
đệ, nên khi cử hành mầu nhiệm Thánh Thể, Hội Thánh cũng tổ chức việc chia sẻ
nâng đỡ vật chất. Giáo dân Côrintô đã quên phương diện này, nên Phaolô đã phải
nhắc lại. Lời thánh Phaolô hôm nay cũng chất vấn chúng ta, chúng ta sốt sắng
tôn thờ Thánh Thể nhưng có biết chia xẻ với nhau một cách thực tế không, để
không một ai phải thiếu thốn quá đang khi những người khác thì no đầy?
Thế
nên hôm nay chúng ta phải suy nghĩ về cả ba bài đọc để khi long trọng tôn thờ
Chúa trong Thánh Thể, chúng ta ý thức thêm về nhiệm vụ bác ái để mỗi lần cử
hành bàn tiệc của Chúa, chúng ta lại nghĩ đến bàn ăn của anh em. Nơi bàn thánh
chúng ta được Chúa thì sự sống mới chúng ta nhận được phải đưa chúng ta đến với
anh em và chia xẻ số phận với anh em để khi trở lại dâng lễ chúng ta có bánh
rượu là hoa màu ruộng đất và lao công của con người dâng lên để trở thành bánh
nuôi sống và của uống thiêng liêng cho tất cả chúng ta.
(Trích dẫn từ tập sách
Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ:
Bí-tích Thánh Thể diễn tả tình yêu Thiên Chúa
dành cho con người.
Bí
tích Thánh Thể và bí tích Truyền Chức không thể tách rời nhau và là hai tặng
phẩm vô giá Thiên Chúa đã chuẩn bị cho con người từ xa xưa, vì yêu thương con
người.
Các
bài đọc hôm nay muốn nêu bật nguồn gốc và mục đích của hai bí tích này. Trong
bài đọc thứ nhất, tác giả Sách Khởi Nguyên đề cập đến một nhân vật kỳ lạ là
Melchizedek xuất hiện mang theo bánh và rượu để ra đón Abraham chiến thắng trở
về. Không ai biết Melchizedek là ai cho đến khi tác giả Thư Do-thái dùng phương
pháp “midrash” nối kết với Thánh Vịnh 110, để tuyên bố: Đức Kitô chính là
Melchizedek Thiên Chúa đã chuẩn bị từ thời tổ phụ Abraham để làm Thượng Tế cứu
thoát con người khỏi tội nhờ lễ vật Ngài dâng trên đồi Golgotha một lần là đủ,
và giờ đây chúng ta vẫn còn tái diễn mỗi ngày trong các nhà thờ để hưởng nhờ
hiệu quả của biến cố đó. Trong bài đọc II, thánh Phaolô truyền lại những gì
Ngài đã tiếp nhận được nơi Đức Kitô cho các tín hữu Corintô về “bữa tiệc tình
yêu.” Đây là trình thuật đầu tiên chúng ta biết được (Thư Corintô I có trước
các Sách Tin Mừng) và các cộng đoàn đầu tiên đã trung thành cử hành mỗi khi hội
họp để tưởng nhớ Đức Kitô và loan truyền Cuộc Khổ Nạn của Ngài. Trong Phúc Âm,
tuy Đức Kitô chính thức thiết lập hai bí tích Thánh Thể và Truyền Chức trong
Bữa Tiệc Ly; nhưng các động tác chính của bí tích Thánh Thể: “cầm lấy bánh,
ngước mắt lên trời, tạ ơn, bẻ ra, và trao cho các môn đệ” đã có từ khi Chúa
Giêsu làm phép lạ nuôi 5,000 người ăn.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Bí tích Thánh Thể và chức tư tế
Tác
giả Thư Do-thái dùng phương pháp midrash (tra chữ Melchizedek) để xác định
Melchizedek chính là Đức Kitô. Ngài là Thượng Tế Tối Cao và muôn đời theo phẩm
trật Melchizedek. Tác giả dùng hai trình thuật chính:
1.1/
Sáng Thế Ký 14:18-20: Melchizedek không cha, không mẹ có nghĩa Ngài không có nguồn
gốc thế gian và là tư tế của Thiên Chúa đến muôn đời. Tên Do-thái của
Melchizedek có nghĩa “Vua công chính.” Ngài đang làm vua thành Salem có nghĩa là “thành
bình an.” Hầu hết các học giả đều đồng nhất thành này với thành Jerusalem hiện giờ. Ông
mang bánh và rượu ra để chỉ bữa ăn giao ước với Abraham. Ông chúc phúc cho
Abram và nói: "Xin Thiên Chúa Tối Cao, Đấng dựng nên trời đất, chúc phúc
cho Abram! Chúc tụng Thiên Chúa Tối Cao, Đấng đã trao vào tay ông những thù
địch của ông!" Ông Melchizedek phải quyền thế hơn Abram, vì ông chúc phúc
cho Abram và lãnh nhận “một phần mười tất cả chiến lợi phẩm” từ Abram.
1.2/
Thánh Vịnh 110:1-4: Thánh Vịnh này được làm bởi vua David và nói về ngày đăng quang
của Đức Kitô như sau: Sấm ngôn của Đức Chúa ngỏ cùng Chúa Thượng tôi: "Bên
hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân
con." Từ Sion, Đức Chúa sẽ mở rộng quyền vương đế của Ngài: Giữa lòng địch
quân, xin Ngài làm bá chủ. Đức Chúa phán bảo rằng: "Ngày đăng quang con
nắm quyền thủ lãnh, vẻ huy hoàng rực rỡ tựa thần linh. Ngay trước lúc hừng đông
xuất hiện, tự lòng Cha, Cha đã sinh ra Con." Đức Chúa đã một lần thề ước,
Người sẽ chẳng rút lời, rằng: "Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật
Melchizedek."
Có
rất nhiều điểm trùng hợp giữa hai trình thuật mà tác giả Thư Do-thái nêu lên:
Đức Kitô là Thượng Tế đến muôn đời theo phẩm trật Melchizedek, chứ không phải
là Thượng Tế theo phẩm trật Aaron hay Levi, được thiết lập ít nhất 430 năm sau
Abraham. Chức tư tế của Đức Kitô được làm bởi lời thề của Thiên Chúa cao trọng
hơn chức tư tế theo dòng dõi Levi, cha truyền con nối. Lễ vật của Đức Kitô cao
trọng hơn lễ vật của tư tế dâng hằng ngày hay Thượng Tế dâng mỗi năm một lần.
Ngài chỉ dâng một lần là đủ vì Ngài dâng chính máu của Ngài chứ không phải máu
của các con vật... (x/c Thư Do Thái, chương 7-8) Nói tóm, Đức Kitô là Thượng tế
của giao ước mới, hoàn hảo hơn giao ước cũ. Ngài đến để hủy bỏ toàn bộ chức tư
tế cũ và lễ vật hy sinh của giao ước cũ.
1.3/
Qumran 11Q13:
Đây là tài liệu khám phá tại Qumran , hang 11,
nói về nhân vật Melchizedek như sau:
“Ông
sẽ xuất hiện trong Năm Thánh sau cùng. Melchizedek sẽ trả lại cho dân chúng
những gì thuộc về họ. Ông sẽ công bố cho họ Năm Thánh, và sẽ giải phóng họ khỏi
nợ nần và tất cả các tội của họ. Bắt đầu Năm Thánh, Ông sẽ công bố chiếu chỉ
này; sau đó đến Ngày Xá Tội (sau giai đoạn thứ 10 của Năm Thánh), Ông sẽ đền
tội cho tất cả các “con của ánh sáng” và những người được tiền định cho Melchizedek.
Vì đây là thời gian ấn định là “Năm hồng ân của Melchizedek.” Bằng quyền năng,
Ông sẽ xét xử dân thánh của Thiên Chúa và sẽ thiết lập một vương quốc công
chính, như đã được viết về ông trong Thánh Vịnh: “Một nhân vật giống như Đức
Chúa đã thay thế Ngài trong công hội của Thiên Chúa; giữa các sứ thần, ông phân
xử” (Psa 82:1). Kinh Thánh cũng nói về ông: “Hãy nhận chỗ cao nhất trên Trời:
Một thiên sứ? sẽ phân xử con người” (Psa 7:7-8). Melchizedek sẽ thi hành việc
báo thù theo chỉ thị của Thiên Chúa. Ông cũng giải phóng tất cả các tù nhân
khỏi tay của Belial và tất cả quyền lực của quỉ thần với nó.”
Ngôn
sứ Isaiah đề cập đến Năm Hồng Ân mà Đức Kitô xác định àm chỉ về Ngài: “Thần khí
của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố
lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một
năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta” (Isa
61:1-2).
2/
Bài đọc II: Truyền thống của Giáo Hội về bí tích Thánh Thể
Thư
Corintô là tài liệu sớm nhất (50-60 AC) nói về việc cử hành Lễ Bẻ Bánh hay Lễ
Tình Yêu (tiệc Agapê) trong cộng đoàn sơ khai. Các Tin Mừng đều viết sau Thư
Corintô (60-100 AC).
Phaolô
viết: “Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh
em: trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ
ra và nói: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh
em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy." Cũng thế, cuối bữa ăn,
Người nâng chén và nói: "Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước
Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy."
Thật
vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan
truyền Chúa đã chịu chết.” Hai điều chúng ta cần nghiên cứu trong trình thuật
này:
2.1/
Tưởng Niệm: “Anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.”
Tưởng
niệm trước tiên là nhớ đến tình yêu của Chúa Giêsu đã làm cho các môn đệ trong
suốt cuộc đời tại thế, và nhất là tình yêu hy hiến mà Ngài đã làm cho các ông
trong Cuộc Khổ Nạn – Cái chết trên đồi Golgotha – và sự Phục Sinh vinh hiển của
Ngài. Tưởng niệm cũng là lúc các môn đệ nhớ lại những gì Chúa Giêsu dạy và các
ông phải làm: Noi gương Đức Kitô, các ông cũng phải chết đi cho các tín hữu để
tỏ tình yêu cho Thiên Chúa và cho tha nhân.
Thánh
Phaolô nhắc lại những điều này để khiển trách các tín hữu Corintô đã không dự
tiệc theo như lòng Chúa Giêsu mong muốn. Họ coi đó như là một buổi dạ tiệc hay
bữa ăn thông thường. Các tín hữu Corintô đã làm tổn thương đến đức bác ái khi
họ chia nhóm theo giai cấp giầu nghèo, không đợi nhau và đoàn kết khi cử hành
Lễ Bẻ Bánh. Nói tóm, Ngài khiển trách họ đã biến Lễ Bẻ Bánh thành buổi hội họp chỉ
để ăn uống!
2.2/
Loan truyền: “Mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, anh em loan truyền Chúa đã chịu
chết.”
Loan
truyền trước hết là loan truyền ơn cứu độ được Đức Kitô thực hiện qua cái chết
của Ngài. Bằng máu của Ngài đổ ra trên Thập Giá, Thiên Chúa đã tha các tội của
nhân loại đã xúc phạm đến Ngài. Khi con người được sạch tội, họ được giao hòa
với Thiên Chúa, và xứng đáng lãnh nhận ơn cứu độ là cuộc sống đời đời. Hy lễ
của Đức Kitô vẫn tái diễn mỗi ngày trên bàn thờ vì con người vẫn phạm tội và
cần được tha thứ, dù Lễ Tế của Ngài chỉ thực hiện một lần là có công hiệu suốt
đời, vì đó là Máu của con Thiên Chúa.
3/
Phúc Âm: Những chuẩn bị trước cho việc lập Bí-tích Thánh Thể
Đây
là trình thuật được tường thuật cả bốn Thánh Ký. Riêng Gioan, trình thuật này
được tiếp nối bằng diễn từ về Thánh Thể trong suốt chương 6. Gioan không tường
thuật sự kiện Chúa Giêsu thành lập bí tích Thánh Thể trong Bữa Tiệc Ly; nhưng
chương 6 chứa đựng tất cả những gì Chúa Giêsu muốn mặc khải về bí tích Thánh
Thể và các phản ứng của con người.
3.1/
Chúa Giêsu quan tâm đến nhu cầu ăn uống cũng như tinh thần của dân chúng.
Có
thể nói trình thuật của Luca hôm nay như một Thánh Lễ: Chúa tập họp dân chúng
từ khắp nơi lại để giảng dạy và chữa lành (tương ứng với Phụng Vụ Lời Chúa). Sau
đó là phần cho dân chúng ăn (Phụng Vụ Thánh Thể).
Ba
điều chúng ta cần để ý đến trong trình thuật hôm nay: Thứ nhất, Chúa động lòng
xót thương dân chúng. Ngài không chỉ bằng lòng với việc dạy dỗ; nhưng còn lo
đến kiếm của ăn cho dân. Thứ hai, Ngài truyền cho các môn đệ phải kiếm lương
thực cho dân ăn dẫu các ông phản đối. Sau cùng, đây là một phép lạ: Từ năm
chiếc bánh và hai con cá, Chúa đã phân phát cho các môn đệ để các môn đệ cho
dân ăn no nê mà vẫn còn dư 12 thúng đầy. Phép lạ này phải có liên quan đến bữa
tiệc Thánh Thể, vì chỉ một thân thể của Chúa Giêsu được bẻ ra để nuôi biết bao
người ăn no nê mà vẫn còn dư.
3.2/
Công thức truyền phép trong bí tích Thánh Thể: “Bấy giờ Đức Giêsu cầm lấy năm cái bánh
và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ
để các ông dọn ra cho đám đông.” Có thể nói đây là một công thức truyền phép
của tiệc Thánh Thể mà các môn đệ đã dần dần quen thuộc. Họ chỉ cần nhìn cử chỉ
và điệu bộ Chúa làm, họ nhận ra là chính Chúa Giêsu, như hai môn đệ trên đường
đi Emmaus của Lucas, hay như các môn đệ bên bờ hồ Galilee trong Gioan, chương
21.
ÁP DỤNG
TRONG CUỘC SỐNG:
-
Bí-tích Thánh Thể là bí tích tình yêu mà Thiên Chúa đã chuẩn bị và mặc khải cho
con người từ thời tổ phụ Abraham. Sau khi đã nhận được tình yêu Thiên Chúa,
chúng ta cũng phải mang tình yêu này vào cuộc sống để yêu thương tha nhân như
Thiên Chúa yêu thương chúng ta.
-
Bí-tích Thánh Thể là bí tích hiệp nhất mọi người trong cùng một thân thể của
Đức Kitô. Chúng ta đừng để chia rẽ xảy ra trong gia đình và cộng đoàn.
-
Bí-tích Thánh Thể là bí tích tạ ơn. Chúng ta cần nhận ra tất cả những ơn lành
của Thiên Chúa đã làm cho chúng ta, nhất là ơn cứu độ đến từ Đức Kitô qua hiến
lễ trên đồi Golgotha của Ngài.
Linh mục Anthony Đinh
Minh Tiên OP
Thái độ sống
Chúa
Giêsu và các môn đệ đang đứng trước một cử toạ đông đảo, đói lời Chúa cũng như
đói cơm bánh. Lúc ấy, trời đã về chiều mà địa điểm tụ họp lại là một nơi hoang
vắng. Thánh Luca đã ghi lại Chúa Giêsu và các môn đệ có hai cách đối xử hoàn toàn
khác biệt nhau trong cảnh huống đặc biệt ấy.
Các
môn đệ thì đề nghị Chúa Giêsu giải tán đám đông để mỗi người tự lo liệu lấy cái
ăn và nghỉ ngơi cho mình. Thật là đơn giản. Các môn đệ và cả Thầy của họ khỏi
bận tâm vất vả, mặc dù giải pháp các ông đề nghị có thể đưa đến một tình trạng
xáo trộn có thể là khung khiếp. Chúng ta thử mường tượng cả một đám đông, mà
nguyên số đàn ông đã lên tới 5000, kéo vào một vài làng gần đó, chắc hẳn là
không có những siêu thị hiện đại dư đầy hàng hoá, để sục sạo mua bán cái ăn
thức uống. Cảnh giành giật, cấu xé nhau không thể không xảy ra. Và cảnh tượng
ấy hiển nhiên là trái nghịch với cảnh Nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu vừa mới rao
giảng cho họ. Các môn đệ như muốn giới hạn sứ vụ của các ông và cả của Chúa
Giêsu vào những việc ngày nay quen gọi là việc đạo. Thực ra cứ lý tự nhiên mà
xét, vào lúc này không thể làm gì hơn là giải tán để mỗi người tự lo liệu lấy.
Giải pháp riêng xem ra vẫn dễ hơn và khoẻ hơn. Chẳng phải chúng ta nghĩ oan cho
các môn đệ. Bởi vì ngay Chúa Giêsu cũng đã ra lệnh cho các ông: Các con hãy cho
họ ăn đi. Các ông đã trả lời: Chúng ta chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá, trừ khi
chúng con phải đi mua thức ăn cho tất cả đám đông này.
Nhưng
Chúa Giêsu thì lại có một thái độ khác hẳn. Ngài không thể bỏ mặc đám đông đã
đi theo Ngài. Sứ mạng của Ngài, như Ngài đã từng khẳng định: Không phải là mưu
tìm cơm áo cho những kẻ thiếu thốn bởi vì chính Ngài đã bỏ trốn khi đám đông
tìm Ngài để tôn Ngài lên làm vua sau khi được Ngài làm phép lạ cho họ ăn no nê.
Nhưng Ngài không giới hạn sứ mạng của Ngài vào những việc thiêng liêng, để rồi
làm ngơ trước cái đói, cái khó khăn, cái cùng quẫn của con người. Và ở đây Chúa
Giêsu đã dạy cho các môn đệ của Ngài bài học, đó là phải biết quan tâm về cuộc
sống của những người chung quanh. Mọi sự đều được bắt đầu từ sự quan tâm này.
Đồng thời không có sự quan tâm này thì mọi sự đều trở nên khó khăn. Trái lại,
khi đã có sự quan tâm nhập cuộc, thì tình hình khó khăn sẽ được giải quyết như
bởi một phép lạ. Dĩ nhiên, sự quan tâm đến người khác đòi hỏi chúng ta phải đầu
tư sức lực, trí tuệ và khả năng để đáp ứng những nhu cầu của họ. Và như thế sự
quan tâm cũng có nghĩa là tự hiến mình cho kẻ khác.
Và
Chúa Giêsu đã thể hiện tới cùng sự quan tâm này nơi chính bản thân của Ngài,
bởi vì Ngài đã ban chính thịt máu Ngài, nghĩa là trọn vẹn cuộc sống của Ngài
cho kẻ khác: Các con hay cầm lấy mà ăn vì này là mình Ta. Các con hãy cầm lấy
mà uống vì này là máu Ta. Cử hành Thánh Thể chính là lặp lại cử chỉ tự hiến của
Chúa Giêsu: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. Thánh Thể không phải chỉ là
một nghi lễ, nhưng hơn thế nữa còn là một thái độ sống, một sự quan tâm, một sự
dấn thân vì hạnh phúc của người khác.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng
Sáu
2 THÁNG SÁU
Triều Thiên Của Tạo
Vật
Con người
là một thể thống nhất, là duy nhất trong chính mình. Nhưng trong thể thống nhất
này có hàm chứa tính lưỡng diện. Thánh Kinh trình bày cả thể thống nhất (ngôi
vị) lẫn tính lưỡng diện (hồn và xác) của con người. Chẳng hạn, Sách Huấn Ca
viết: “Đức Chúa lấy đất mà tạo ra con người, rồi lại đưa con người trở về đất”
(Hc 17, 1 – 2). Nhưng Sách Huấn Ca cũng viết: “Người ban cho chúng trí khôn,
luỡi, mắt, tai, và trái tim để chúng suy nghĩ. Người làm cho chúng được đầy
kiến thức thông minh, tỏ cho chúng biết điều tốt điều xấu.” (câu 5 – 6)
Từ quan
điểm này, Thánh Vịnh 8 thật hết sức có ý nghĩa. Con người được tôn dương là một
tuyệt tác khi tác giả thánh vịnh nói với Thiên Chúa bằng những lời này: “… con
người là chi, mà Chúa cần nhớ đến; phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm? Chúa
cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ
triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự
dưới chân” (câu 5 – 7).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul
II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Chúa
Nhật IX thường Niên
Mình
Và Máu Thánh Chúa KiTô (Lễ trọng)
St
14, 18-20; 1Cr 11, 23-26; Lc 9, 11b-17
LỜI SUY NIỆM: “Bấy giờ
Đức Giêsu cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời
chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông” (Lc
9,16)
Điều
này được tái hiện trong Thánh lễ, khi người Ki-Tô hữu đến tham dự. Chúng ta có
thật sự yêu thích và ham muốn được nhận lãnh Mình Máu Thánh Chúa với một lòng
tin, tin Máu Thịt của Chúa Giêsu KiTô hòa nhập vào trong máu thịt của mình, để
nuôi sống cả hồn lẫn xác chúng ta hay không? Nếu tin, chúng ta có dám dẫn thân
xác và linh hồn của chúng ta, đang có Chúa Giêsu ngự, đến những nơi tối tăm hay
không? Nếu chúng ta muốn cuộc sống của chúng ta mỗi ngày mỗi nên tốt, chúng ta
phải đến với Thánh Lễ và dọn mình Rước Lễ. Ơn Chúa sẽ giúp chúng ta sống đẹp
lòng Ngài.
Mạnh
Phương
Gương Thánh nhân
Ngày
02-06
Thánh
MARCELLINÔ và PHÊRÔ
Tử
Đạo (+304)
Không
có tài liệu lịch sử nào nói về nguồn gốc của hai thánh tử đạo Marcellino và
Phêrô cả. Các Ngài được phúc tử đạo dưới thời Diocletianô.
Thánh
Marcellino được ơn tử đạo còn thánh Phêrô được ơn trừ quỉ.
Nhờ
được ơn trừ quỉ, thánh Phêrô được rất nhiều người mộ mến. Ngược lại cũng có
nhiều người ghen tức và thù oán tìm cách giết hại. Tỉnh trưởng Sêrênô ra lệnh
tống giam Ngài. Bạn ông là Antêmi có đứa con gái bị quỉ ám. Nghe biết Phêrô có
quyền trừ quỉ, ông giối thiệu bạn mình tới ngục thất để gặp thánh nhân. Gặp
ông, thánh nhân khuyên nhủ ông hãy tin vào Chúa Giêsu và thờ phượng Thiên Chúa.
Ông bực tức cho rằng: Chúa không cứu nổi Phêrô thì làm sao thánh nhân cứu nổi
con ông được. Rồi ngay đêm ấy khi quân canh ngục còn đang thi hành nhiệm vụ thì
thánh nhân đã có mặt ở nhà Antêmi. Cả gia đình Antêmi bỡ ngỡ và xin theo đạo.
Paulina, con gái Antêmi được lành bệnh. Từ đó gia đình Antêmi thành nơi tụ tập
thường hay lui tới dạy đạo và rửa tội cho các tân tòng.
Tức
giận, Sêrênô ra lệnh hành hạ hai thánh nhân một cách dã man rồi giam ngục tối,
nền rắc đầy miểng chai, và bỏ đói các Ngài cho chết. Tuy nhiên Chúa đã giải
thoát cho các Ngài trong một tuần lễ để lo cho các dự tòng được chịu phép rửa
tội. Nghĩ rằng gia đình Antemi lập mưu cho cuộc vượt thoát này, Sêrênô ra lệnh
giết cả gia đình ông.
Cuối
cùng hai thánh nhân Marcellinô và Phêrô bị đem hành quyết. Khi thi hành án
quyết, đao phủ Đorotê đã thấy linh hồn hai Ngài bay về trời. Quá xúc động ông
đã xin tòng giáo và qua đời cách lành thánh. Còn xác hai thánh nhân được chôn
cất ở nghĩa trang Ad Duos Lauros đường Labicana.
Khi
Giáo hội được sống trong an bình, người ta xây cất trên mộ hai Ngài một thánh
đường rất nguy nga. Tên Hai thánh nhân đã được nhắc đến trong lễ quy Roma.
(daminhvn.net)
02 Tháng Sáu
Nguồn
Gốc Của Sa Mạc
Người
Ả Rập giải thích nguồn gốc của sa mạc bằng câu chuyện ngụ ngôn như sau:
"Thiên
Chúa đang sáng tạo vũ trụ. Sau khi đã hoàn tất tinh tú, trái đất, biển khơi,
sông ngòi, Thiên Chúa bắt tay vào việc tạo dựng con người. Ngài nặn được những
thân hình thật đẹp, nhưng đó chỉ là những pho tượng, vì chưa có linh hồn".
Lúc
bấy giờ, một tổng lãnh thiên thần mới đề nghị với Thiên Chúa là cần phải tạo
dựng linh hồn cho con người. Thế là Thiên Chúa miệt mài giam mình trong phòng
thí nghiệm để tác tạo linh hồn cho con người. Các linh hồn vừa mới ra lò còn
rất mảnh khảnh và yếu ớt.
Ngài
mang các linh hồn tươi tắn ấy xuống trần gian và phân phát cho loài người.
Nhưng rủi thay, hôm đó trời đổ mưa, cho nên một số linh hồn chưa đủ cứng cáp đã
biến dạng.
Một
ngày nọ, một trong những người đã lãnh nhận được linh hồn méo mó, đã buột miệng
nói ra một lời dối trá. Tuy chỉ là một lời dối trá không đáng kể, nhưng đó là
một lời dối trá đầu tiên xuất hiện trong lịch sử loài người.
Thiên
Chúa vô cùng hối hận vì đã không ngăn ngừa được sự dối trá ấy. ngài bèn tập
trung loài người lại và tuyên bố: "Từ nay, đừng có một người nào phạm thêm
một điều dối trá nữa. Nếu không, cứ mỗi lần có một lời dối trá, ta sẽ cho rơi
xuống mặt đất một hạt cát".
Nhiều
người nghe lời đe dọa của Thiên Chúa, cười thầm trong lòng. Một hạt cát có đáng
kể là bao sánh với màu xanh trùng trùng điệp điệp của cây cỏ. Thành ra, loài
người đã không đếm xỉa đến lời cảnh cáo của Thiên Chúa. Người thứ hai thêm một
lời nói láo mà vẫn đinh nih đó chỉ là một lời không đáng kể, cũng như thêm một
hạt cát trên trái đất cũng không thay đổi được bộ mặt của nó. Cứ thế, người thứ
ba, rồi người thứ tư... Người ta nói dối đến độ Thiên Chúa không còn đủ sức để
cho cát rơi xuống trên mặt đất nữa... Ngài đành phải dùng đến bàn tay của các
thiên thần để cho mưa cát xuống... Không mấy chốc, những đồng cỏ xanh tươi,
những vườn cây um tùm biến thành sa mạc khô cằn. Thỉnh thoảng một vài ốc đảo
xanh tươi mọc lên, đó là dấu hiệu sự hiện diện của một vài người còn biết tôn trọng
sự thật. Nhưng dần dà, ôn dịch dối trá lan tràn khắp nơi, trái đất chỉ còn là
một bãi sa mạc.
Tất
cả những ai sống trong một xã hội xây dựng trên dối trá, lừa đảo, đố kỵ lẫn
nhau đều biểu hiện được thế nào là sa mạc của tình người. Sa mạc nào cũng là biểu
hiện của sự chết: chết của tình người, chết của lòng tin tưởng lẫn nhau, chết
của hy sinh phục vụ, chết của lòng quảng đại. Tựu trung, dối trá cũng là tên
gọi của ích kỷ. Người dối trá là người chỉ biết sống cho mình. Nếu ơn gọi của
con người, nếu sự thật của con người là sống yêu thương, sống cho người, thì kẻ
dối trá là người chối bỏ chính mình.
Chúa
Giêsu đã lên án gắt gao thái độ dối trá. Ngài nói: "Có thì nói có, không
thì nói không, thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra". Kẻ dối trá, do
đó, tự đặt mình dưới quyền thống trị và điều khiển của ma quỷ.
Mỗi
một thái độ dối trá là một hạt cát rơi xuống trên sa mạc của tình người. Nhưng
mỗi một hành động của quảng đại, của yêu thương, của phục vụ là một ốc đảo xanh
tươi của Chân lý, đó là Chân lý của tình yêu.
(Lẽ Sống)
2-6
Các Thánh Marcellinus và Phêrô
(c. 304)
M
|
ặc dù chúng không biết gì nhiều về hai vị tử đạo dưới thời
Diocletian này, nhưng chắc chắn rằng giáo hội thời tiên khởi đã sùng kính hai
vị. Chứng cớ của sự tôn kính ấy là đền thờ mà hoàng đế Constantine đã cho xây trên mộ của các ngài,
và tên của các ngài được nhắc đến trong Lời Nguyện Thánh Thể I.
Thánh Giáo Hoàng Damasus nói rằng ngài nghe biết câu chuyện về hai
vị tử đạo từ người đao phủ mà sau đó người này đã trở lại Kitô Giáo.
Marcellinus là một linh mục, còn Phêrô là người trừ tà, cả hai từ
trần năm 304. Theo truyền thuyết về sự tử đạo của các ngài, cả hai là người
Rôma và coi sự tù đầy như một cơ hội để rao giảng và hoán cải những lính canh
tù và gia đình của họ. Truyền thuyết cũng nói rằng cả hai bị chặt đầu ở trong
rừng để người Kitô không có cơ hội chôn cất và tôn kính thi thể của các ngài.
Tuy nhiên, hai phụ nữ đã tìm thấy các thi thể ấy và họ đã chôn cất tử tế.
Lời Bàn
Tại sao các vị này được nhắc đến trong lời nguyện Thánh Thể và có
ngày lễ tôn kính riêng, dù rằng hầu như chúng ta không biết gì về họ? Có lẽ vì
Giáo Hội tôn trọng ký ức còn ghi nhận được trong lịch sử. Và đã một lần, các
ngài là động lực khuyến khích toàn thể Giáo Hội. Họ đã thể hiện một bước đức
tin tột bực.
Lời Trích
"Giáo Hội luôn tin rằng các tông đồ, và các vị tử đạo của
Ðức Kitô là những người đã đem lại bằng chứng đức tin và đức ái cao cả qua việc
đổ máu của họ, thực sự kết hợp chặt chẽ với chúng ta trong Ðức Kitô" (Hiến
Chương về Giáo Hội, 50).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét