Trang

Thứ Tư, 12 tháng 6, 2013

13-06-2013 : THỨ NĂM TUẦN X MÙA THƯỜNG NIÊN

Thứ Năm Ngày 13/06/2013
Tuần X Thường Niên – Năm C


BÀI ĐỌC I:  2 Cr 3, 15 - 4, 1. 3-6
"Thiên Chúa chiếu sáng trong lòng chúng ta, hầu làm sáng tỏ sự hiểu biết về vinh quang của Người".

 Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, cho đến nay, mỗi lần đọc sách Môsê, vẫn còn có cái màn che lòng con cái Israel. Nhưng khi người ta đã trở lại cùng Chúa, màn ấy mới được cất đi. Chúa là Thần linh, và ở đâu có Thần linh Chúa, thì ở đấy có tự do. Phần chúng ta hết thảy, không màn che mặt, chúng ta phản ảnh vinh quang của Chúa, được biến hoá giống hình ảnh Chúa, từ vinh quang này đến vinh quang khác, xứng với tác động của Thần Linh Chúa.
Bởi thế, đảm nhiệm việc phục vụ do lòng thương xót chúng tôi đã được hưởng, chúng tôi không ngã lòng. Nếu Phúc Âm chúng tôi còn ẩn khuất, thì cũng chỉ ẩn khuất cho những ai hư mất, cho những ai không tin, vì thần thế gian này đã làm cho tâm trí họ trở thành mù quáng, khiến họ không còn thấy sáng chói Phúc Âm của vinh quang Đức Kitô, Người là hình ảnh của Thiên Chúa. Thật vậy, chúng tôi không rao giảng bản thân chúng tôi, nhưng rao giảng Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng tôi: chúng tôi chỉ là tôi tớ anh em vì Đức Giêsu, bởi Thiên Chúa, Đấng đã phán: "Sự sáng hãy từ bóng tối toả ra", chính Người chiếu sáng trong lòng chúng ta, hầu làm sáng tỏ sự hiểu biết về vinh quang của Người trên tôn nhan của Đức Giêsu Kitô. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 84, 9ab-10. 11-12. 13-14
Đáp: Vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng tôi (c. 10b).

1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng tôi.  - Đáp.
2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống.  - Đáp.
3) Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Đức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Người.  - Đáp.

ALLELUIA: Ga 14, 29

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.

PHÚC ÂM: Mt 5, 20-26
"Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu.
"Các con đã nghe dạy người xưa rằng: 'Không được giết người. Ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án'. Còn Thầy, Thầy sẽ bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là "ngốc", thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là "khùng", thì sẽ bị vạ lửa địa ngục. Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm hoà với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa con ra trước mặt quan toà, quan toà lại trao con cho tên lính canh và con sẽ bị tống ngục. Ta bảo thật cho con biết: Con sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng!" Đó là lời Chúa.

SUY NIỆM : Sự thánh thiện đích thực

Chân phước Marchello, một kỹ nghệ gia giàu có người Italia, đã bán hết tất cả gia sản và sang Châu Mỹ La tinh phục vụ những người phong cùi, có kể lại câu chuyện như sau: tại một viện bài phung giữa rừng già miền Amazone, có một người đàn bà thoạt nhìn qua ai cũng thấy đáng thương. Từ nhiều năm qua, vì phong cùi, bà bị chồng con bỏ rơi, bà sống đơn độc trong một túp lều gỗ, mặt mũi đã bị đục khoét đến độ không còn hình tượng con người nữa.
Mang đến cho bà vài món quà, chân phước Marchello hỏi bà:
- Bà làm gì suốt ngày? Có ai đến thăm bà không?
Người đàn bà trả lời:
- Tôi sống đơn độc một mình. Tôi không còn làm được gì nữa, tay chân bại liệt, mắt mũi lại chẳng còn trông thấy gì nữa.
Marchello tỏ ra cảm thông trước nỗi khổ của bà, ngài hỏi:
- Vậy chắc bà phải cô đơn buồn chán lắm phải không?
Người đàn bà liền nói:
- Thưa ngài, không. Tôi cô độc thì có, nhưng tôi không hề cảm thấy buồn hoặc bị bỏ rơi, bởi vì tôi cầu nguyện suốt ngày và tôi luôn cảm thấy có Chúa bên cạnh.
Ngạc nhiên về lòng tin của bà, chân phước Marchello hỏi tiếp:
- Thế bà cầu nguyện cho ai?
Người đàn bà như mở to được đôi mắt mù lòa, bà nói:
- Tôi cầu nguyện cho Ðức Giáo Hoàng, cho các Giám Mục, Linh mục, Tu sĩ. Tôi cầu nguyện cho những người phong cùi bị bỏ rơi, cho các trẻ em mồ côi, cho tất cả những ai giúp đỡ trung tâm này.
Chân phước Marchello ngắt lời bà:
- Bà không cầu nguyện cho bà sao?
Với một nụ cười rạng rỡ, người đàn bà quả quyết:
- Tôi chỉ cầu nguyện cho những người khác mà thôi, bởi vì khi người khác được hạnh phúc, thì tôi cũng được hạnh phúc.
Thái độ sống và cầu nguyện của người đàn bà phong cùi trên đây minh họa cho sự thánh thiện đích thực là người chỉ sống cho người khác, lấy hạnh phúc của người khác làm của mình. Ðể có được thái độ như thế, chắc chắn phải có một đức tin sâu xa, một đức tin luôn đòi hỏi con người nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa trong mọi người và yêu thương mọi người. Như vậy, thánh thiện và bác ái cũng là một: thánh thiện mà không có bác ái là thánh thiện giả hình.
Chúa Giêsu đã đến để đem lại cho sự thánh thiện một nội dung đích thực. Ngài đề ra một mẫu mực thánh thiện hoàn toàn khác với quan niệm và thực hành của người Biệt Phái và Luật Sĩ, tức là những nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó. Theo họ, thánh thiện là chu toàn một cách chi li và máy móc những luật lệ đã được quy định mà không màng đến linh hồn của lề luật là lòng bác ái; họ có thể trung thành tuyệt đối với những qui luật về ăn chay và cầu nguyện, nhưng lại sẵn sàng khước từ và loại bỏ tha nhân.
Ðả phá quan niệm và cách thực hành của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, Chúa Giêsu đưa bác ái vào trọng tâm của lề luật; hay đúng hơn, Ngài tóm lại tất cả lề luật thành một luật duy nhất, đó là lòng bác ái. Ai muốn làm môn đệ Ngài, người đó phải vượt qua quan niệm và cách thực hành đạo của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, nghĩa là cần phải lấy bác ái làm linh hồn và động lực cho toàn cuộc sống: "Nếu các con không ăn ở công chính hơn những Biệt Phái và Luật Sĩ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời."
Quả thật, nếu an bình, hân hoan, hạnh phúc là thể hiện của Nước Trời ngay trong cuộc sống này, thì chúng ta chỉ được vào Nước Trời, nếu chúng ta biết sống cho tha nhân mà thôi. Sống vui và hạnh phúc, phải chăng không là mơ ước của mọi người, nhưng liệu mỗi người có ý thức rằng bí quyết của hạnh phúc và niềm vui ấy chính là sống cho tha nhân không? Kỳ thực, các thánh là những người đạt được niềm vui và hạnh phúc ấy ngay từ cuộc sống này. Người Tây phương đã chẳng nói: "Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn" đó sao?
Nguyện xin Chúa cho chúng ta luôn biết tìm kiếm và cảm mến được niềm vui và hạnh phúc đích thực trong yêu thương và phục vụ.
(Veritas Asia)



Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 10 TN1, Năm lẻ

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Phải cảm nhận được tình thương Thiên Chúa và tin vào Đức Kitô.

Điều quan trọng nhất trong cuộc đời này và sẽ tồn tại trong cuộc đời sau là tình yêu Thiên Chúa. Các Bài Đọc hôm nay mở mắt cho chúng ta thấy những hậu quả tốt lành khi một người có được tình yêu này. Trong Bài Đọc I, thánh Phaolô xác nhận tình yêu Thiên Chúa, biểu tỏ cho con người qua Đức Kitô, có khả năng biến đổi con người thành tạo vật mới. Sau khi được thấm nhuần tình yêu này, con người sẽ biết cách đáp trả thích đáng tình yêu Thiên Chúa dành cho họ, và biết yêu thương tha nhân như những người con của Chúa và như những chi thể của Nhiệm Thể Đức Kitô. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra hai ví dụ cụ thể là hậu quả của tình yêu Thiên Chúa: người môn đệ Đức Kitô phải luôn biết tha thứ và sống hòa thuận với mọi người.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Khi người ta quay lại với Đức Kitô, tấm màn mới được cất đi.

1.1/ Con người phải tin vào Đức Kitô: Nếu chỉ tin vào Lề Luật của Moses, con người chỉ hiểu vinh quang Thiên Chúa lờ mờ như qua một tấm màn, như Phaolô xác quyết: "Phải, cho đến nay, mỗi khi họ đọc sách ông Moses, tấm màn vẫn che phủ lòng họ." Điều này có lịch sử trong Sách Xuất Hành: vì dân Do-thái không thể chịu đựng được khi Thiên Chúa tỏ uy quyền, nên họ xin Thiên Chúa nói với ông Moses, và ông sẽ nói lại cho dân chúng. Sau khi Moses đàm đạo với Thiên Chúa và xuống núi để nói với dân chúng, họ vẫn không thể nhìn mặt Moses vì vinh quang Thiên Chúa phản chiếu trên mặt ông; nên Moses đã phải đeo một khăn che mặt để khỏi làm nhức mắt dân chúng.

Tấm màn này cũng có lịch sử trong Đền Thờ để phân chia nơi Thánh và nơi Cực Thánh, là nơi Thiên Chúa ngự. Không ai có thể vào nơi Cực Thánh ngoại trừ Thầy Thượng Tế, ông chỉ được vào đó mỗi năm một lần trong Ngày Yom Kippur. Khi Chúa Kitô trút hơi thở trên Thập Giá, bức màn này trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Tác giả Thư Do Thái chú giải: Nhờ Đức Kitô, từ nay con người có thể trực tiếp đến với Thiên Chúa mà không cần phải đợi tới ngày Yom Kippur, và cũng chẳng cần vào Đền Thờ tại Jerusalem.
Thánh Phaolô ví khi con người đọc Cựu Ước mà không nhận những mặc khải của Đức Kitô, như đọc sách qua một tấm màn; họ chỉ có thể hiểu lờ mờ những mầu nhiệm và vinh quang của Thiên Chúa. Nhưng nếu họ tin vào những mặc khải của Đức Kitô, bức màn này sẽ bị lấy đi, và họ có thể hiểu rõ ràng các mầu nhiệm và vinh quang của Thiên Chúa. Thánh Phaolô xác quyết với các tín hữu: ''Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí.''

1.2/ Khó khăn của người môn đệ khi rao giảng về Đức Kitô: Chinh phục tha nhân về cho Thiên Chúa là công việc rất khó khăn và đòi hỏi người môn đệ phải kiên nhẫn, vì họ phải đối phó với quyền lực của ác thần và của thế gian. Thánh Phaolô tường thuật kinh nghiệm của Ngài: "Tin Mừng chúng tôi rao giảng có bị che khuất, thì chỉ bị che khuất đối với những người hư mất, đối với những kẻ không tin. Họ không tin, vì tên ác thần của đời này đã làm cho tâm trí họ ra mù quáng, khiến họ không thấy bừng sáng lên Tin Mừng nói về vinh quang của Đức Kitô, là hình ảnh Thiên Chúa."

Tuy nhiên, người môn đệ phải xác tín: Quyền lực của Đức Kitô có thể thắng vượt mọi quyền lực của ác thần và của thế gian. Nếu người môn đệ thành tâm, yêu thương, có đủ kiên nhẫn, và luôn sống kết hiệp với Đức Kitô, Thiên Chúa sẽ ban những ơn cần thiết để giúp ông chinh phục con người về cho Ngài.

2/ Phúc Âm: Phải ăn ở công chính hơn các kinh sư và luật sĩ để được vào Nước Trời.

Môn đệ của ai phải nói và hành động như môn đệ của người ấy. Người môn đệ của Đức Kitô cũng phải nói năng và hành động theo những gì Đức Kitô dạy. Trình thuật hôm nay nêu bật hai đặc điểm chính là hậu quả khi con người đã cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa.

2.1/ Không được giận dữ với tha nhân: Chúa Giêsu phân biệt đòi hỏi của Lề Luật và của tình yêu; đồng thời Ngài cũng thách đố các môn đệ phải sống theo đòi hỏi của tình yêu, những điều mà Lề Luật không thể đạt tới: "Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt."

Lề Luật không thể kết tội những gì xảy ra bên trong con người vì không nhìn thấy những điều đó. Lề Luật cũng không kết tội khi con người chửi mắng người khác, vì đó là những cảm xúc nhất thời của con người. Lề Luật chỉ kết tội con người khi có bằng chứng rõ ràng như giết người, gây thương tích thân xác hay tài sản ... Ngược lại, đối với Thiên Chúa, Ngài có thể thấu hiểu bên trong tâm hồn mỗi người và biết rõ những thiệt hại cho cả người làm lẫn người bị xúc phạm; nên Ngài đòi hỏi các môn đệ phải đi xa hơn trong tiến trình nên trọn lành.


2.2/ Phải ăn ở thuận hòa với mọi người: Chúa Giêsu nêu ra hai lý do người môn đệ phải sống hòa thuận với mọi người:

(1) Mối liên hệ với Thiên Chúa không thể tách rời khỏi mối liên hệ với tha nhân: Theo truyền thống Do-thái, mỗi khi vô tình phạm tội, hối nhân phải dâng lễ vật để xin Thiên Chúa tha thứ cho những tội đã phạm. Trường hợp liên quan tới mối liên hệ với con người, họ phải làm hòa với nhau trước khi có thể giao hòa với Thiên Chúa. Thần học về Bí-tích Giải Tội cũng đòi hối nhân phải tha thứ cho người xúc phạm đến mình như Thiên Chúa đã tha thứ cho hối nhân.

(2) Ăn ở hài hòa giúp con người tránh được những nhức đầu trong cuộc sống: Cha ông chúng ta vẫn dạy "dĩ hòa vi quí;" người hiền lành sẽ được mọi người thương mến. Ngược lại, những người khó chịu, cau có, sẽ chuốc cho mình những ghen ghét, tranh tụng, và mất bình an. Chúa Giêsu khuyên các môn đệ: ''Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng."

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta phải cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa trước khi có thể đáp trả lại, và yêu thương tha nhân như Thiên Chúa yêu thương chúng ta.

- Chúng ta có được tình yêu Thiên Chúa là qua sự kết hiệp và ở lại trong Đức Kitô. Nếu không có Đức Kitô, chúng ta không thể yêu mến Thiên Chúa và tha nhân như được đòi hỏi.

- Để đáp ứng ơn gọi làm môn đệ của Đức Kitô, chúng ta không phải chỉ giữ những Lề Luật bên ngoài, mà còn phải luôn đối xử với nhau bằng tình yêu Thiên Chúa.


Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 10 -
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)

Thứ Năm :

Mt 5,20-26

A. Hạt giống...
Chúa Giêsu đề ra lý tưởng sống cho người môn đệ : Phải công chính hơn những người biệt phái. Công chính của biệt phái là lo giữ luật cách chín chắn không sơ sót chút nào cả, nhưng họ giữ luật một cách máy móc không chút tâm tình. Còn sự công chính của các môn đệ Chúa là giữ mọi khoản luật với tâm tình yêu thương, thương người như anh em và thương Chúa như cha mình.
Sau đó Chúa Giêsu đưa thí dụ về cách giữ một số khoản luật :
- Luật "không được giết người" : môn đệ Chúa không chỉ tránh giết người mà còn phải cố gắng sống với mọi người bằng tình anh em, vì thế không nên phẫn nộ với anh em, không nên chửi rủa anh em.
- Luật dâng lễ vật : lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa nhất là cuộc sống đầy tình yêu thương. Do đó trước khi dâng lễ vật, phải lo hoà giải với những anh em nào có chuyện bất hoà với mình.

B.... nẩy mầm.
1. Có hai thứ thước để đo mức công chính : thước đo của người biệt phái là xem mình có giữ luật đàng hoàng không ; thước đo của người môn đệ Chúa là xét xem mình có sống trọn tình thương không. Tôi thường dùng thứ thước nào ?
2. Cách nói cường điệu của Chúa Giêsu khi giải thích khoản luật "chớ giết người" cho tôi thấy thêm được rằng giận, mắng và chửi một người anh chị em cũng là một cách giết chết người đó. Giết chết người anh em bởi vì tôi không coi người đó là anh em nữa nên mới nặng lời như thế. Trong lòng tôi "người anh em" kể như đã chết rồi, chỉ còn là một người dưng, một kẻ thù.
3. Nếu Chúa đã coi việc làm hoà trọng hơn của lễ, thì tôi có biết bao của lễ có sẵn hằng ngày trong cuộc sống chung đụng và nhiều va chạm này. Sao tôi không dâng cho Chúa ?
4. "Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng : chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà" (Mt 5,21)
Phần lớn chúng tôi, những người trẻ, không giết người nhưng lại thường "giết" mình. Tội ấy có đáng xét xử không ? Chúng tôi ít khi hỏi mình như thế bởi còn mải đắm say với men rượu, men tình... trong những cuộc ăn chơi phóng túng. Kết cuộc là huỷ hoại thể xác và tâm hồn, trí não và tương lai của mình cách thảm hại.
Lạy Chúa, xin cho giới trẻ chúng con biết quý trọng sự sống, và giúp nhau vun trồng sự sống, sự sống mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng con. (Hosanna)

Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp.Cần Thơ

3/06/13 THỨ NĂM TUẦN 10 TN
Th. Antôn Pađôva, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh               
Mt 5,20-26

HÃY ĐI LÀM HÒA
“Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em đó đã, rồi trở lại đây dâng lễ vật của mình.” (Mt 5,23-24)
Suy niệm: Theo luật cũ, nếu trước khi dâng lễ, người Do Thái cảm thấy mình nhơ uế (Lv 15,27) thì họ phải thanh tẩy trước đã. Cũng thế, Chúa cũng đòi hỏi Kitô hữu một phản ứng như vậy, nếu trước khi dâng lễ họ nhớ mình đang ở trong tình trạng bất hòa với tha nhân. Thái độ đối với tha nhân quyết định giá trị của việc bổn phận thờ phượng Thiên Chúa. Người ta dễ quan tâm đến việc thờ phượng Thiên Chúa, mà lơ là bổn phận tha thứ và yêu thương đối với tha nhân. Đạo Chúa là đạo Bác ái, yêu thương, tha thứ, làm hòa là mở ra con đường cho người anh em hoán cải.
Mời Bạn: Nét đặc trưng của môn đệ Chúa, và của Kitô hữu là yêu thương, tha thứ, cảm thông, đối thoại… điều này xem ra khó đối với bạn, nhưng lại rất cần thiết cho đời sống đạo, nên Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con…”
Chia sẻ: Nhớ lại một lần bạn gặp chuyện xích mích mà bạn cảm thấy khó làm hoà. Thử phân tích lý do –về phía bạn thôi– tại sao như thế.
Sống Lời Chúa: Bạn hãy cố gắng làm hòa với một người nào đó có sự bất bình với bạn. Sống chan hòa yêu thương trong gia đình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống theo lời Chúa dạy, đừng bao giờ để lòng ghen ghét và hận thù ảnh hưởng đến mọi suy nghĩ lời nói và việc làm của chúng con nhưng xin cho chúng con luôn biết tha thứ và sống chan hòa tình yêu Chúa.

Chớ giết người 


Suy nim:
“Chớ giết người”, đó là một trong những giới luật quan trọng. 
Dân Do thái đã nhận giới luật này từ Thiên Chúa 
qua trung gian ông Môsê trên núi Xinai (Xh 20, 13; Đnl 5, 17). 
Đức Giêsu không đến để bãi bỏ Luật Môsê. 
Ngài nâng Luật này lên một tầng cao mới. 
Không phải chỉ hành vi giết người mới là tội. 
Ngay cả ai giận ghét anh em trong lòng 
và biểu lộ ra bằng những lời nhục mạ, mắng chửi, 
cũng phải chịu những hình phạt tương tự (c. 22).
Đức Giêsu đẩy giới răn này đến chỗ triệt để, tận căn. 
Ngài tìm về cội nguồn của hành vi sát nhân nơi tâm con người. 
Nếu lòng con người không còn giận ghét anh em, 
và lời nói giữ được sự kính trọng, ôn hòa, 
thì tội giết người hoàn toàn có thể tránh được.
Sống với nhau tránh sao khỏi những tranh chấp, cọ sát. 
Đi làm hòa với người anh em trong cộng đoàn là điều khẩn trương. 
Thậm chí phải để lại lễ vật sắp dâng trước bàn thánh 
mà đi làm hòa với một người anh em đang bất bình với mình, 
rồi sau đó mới trở lại dâng lễ vật cho Chúa (cc. 23-24). 
Phải chăng người ta chỉ đến được với Chúa và được đoái nhận lễ vật 
khi người ta đến được với anh em trong sự an hòa thứ tha? 
Để đến được với người đang xích mích với mình, 
cần khiêm hạ, ra khỏi mình và lên đường đến với người ấy. 
Đi bước trước để đến với người khác, dù lỗi không thuộc về mình, 
đó là cách làm hòa và làm lành những vết thương. 
Hòa giải với tha nhân phải được coi là việc cần làm ngay 
trước khi ta có thể hiệp thông với Thiên Chúa qua việc dâng của lễ.
“Chớ giết người”, giới răn này xem ra bị coi nhẹ trong thế giới hôm nay, 
một thế giới tự hào là văn minh, nhưng mạng sống con người bị rẻ rúng. 
Những vụ phá thai, những tai nạn xe cộ mỗi ngày, 
những cuộc chiến không ngừng giữa các quốc gia thù nghịch. 
Bao cuộc khủng bố đã làm hàng ngàn người chết. 
Những tội ác diệt chủng đã xóa sổ cả triệu con người. 
“Chớ giết mình”, con người cũng không biết quý mạng sống mình. 
Những vụ tự tử, những cái chết do sử dụng ma túy hay ăn chơi, 
những bệnh tật do con người tự phá hoại thân xác mình.
Cain đã giết em là Abel vì ghen tương và giận dữ. 
Tội ác đó vẫn xuất hiện mãi trên mặt đất cho đến nay. 
Làm thế nào để ta biết trân trọng sự sống của người khác và của mình? 
Làm thế nào để Thiên Chúa được nhìn nhận như Chủ Tể của sự sống? 
Kitô hữu được mời gọi tôn trọng nhân vị của từng người, 
trong trái tim, trong lời nói cũng như hành động. 
Vì mỗi người mang hình ảnh của chính Thiên Chúa.
Cầu nguyn:
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J
Suy niệm Mt 5,20- 26
"Anh hãy mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan tòa, quan tòa lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục" (Mt 5, 25).                                                  
Có một người hành khất đến nhà ông nhà giàu nọ, xin chút cơm thừa để sống qua ngày. Nhưng ông nhà giàu chẳng những không thương xót mà còn lấy đá ném người hành khất đuổi đi cho khuất mắt. Người hành khất cúi xuống lượm hết các viên đá mà ông nhà giàu đã ném, bỏ vào bao, trong lòng hậm hực, miệng lẩm bẩm: thế nào tên nhà giàu này cũng có ngày gặp cơ cực, sẽ lang thang như mình, biết đâu lúc đó mình đã giàu hắn cũng sẽ đến xin mình miếng cơm, mình sẽ trả lại cho hắn những viên đá này như hắn đã đối xử với mình hôm nay. Thế là người hành khất cứ mang mấy viên đá đó theo mình suốt mấy chục năm. Tình cờ gặp lại ông nhà giàu xưa, cũng lang thang đi xin, người hành khất ngày xưa, bây giờ đã là ông chủ giàu có, định trả thù bằng cách ném lại mấy viên đá mà ông đã mang theo mình tự bấy lâu. Nhưng ông lại không nỡ, bèn lấy mấy viên đá đã giữ từ lâu, bỏ xuống đất. Bây giờ ông cảm thấy lòng mình nhẹ nhàng và ông tự nhủ: phải chi ngày xưa mình bỏ qua thì đâu mang nặng suốt mấy mươi năm.
Nếu trong lòng mang hận thù, chúng ta sẽ luôn cảm thấy bị xúc phạm, cảm thấy nặng nề. Nhưng nếu tha thứ thì tâm hồn sẽ thấy nhẹ nhàng và nhận được sự bình an. Hơn thế nữa, việc dâng lễ vật cho Chúa chỉ có ý nghĩa trọn vẹn khi sống hòa thuận và yêu thương tha nhân.
Lạy Chúa, qua bài Phúc âm hôm nay Chúa dạy con hãy mau mắn làm hòa với đối phương. Xin Chúa giúp con biết nhận ra sự thiếu xót và bất toàn của con để con sẵn sàng tha thứ cho tha nhân. Có được như thế con sẽ nên giống Chúa hơn và cuộc sống của con đẹp lòng Chúa hơn. Amen.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Sáu

13 THÁNG SÁU

Hơn Hết Mọi Loài Thụ Tạo

Chúng ta vừa nới mô tả khuôn mặt độc đáo của con người trong tư cách là kẻ có thể hiểu biết và suy lý để đạt đến sự thật trong tận bản chất mọi sự. Con người có thể tự do chọn lựa làm điều đúng và tốt. Như vậy, con người được mời gọi nhận định những nhu cầu đích thực của đồng loại mình và thiết lập công lý. Và, thông thường, con người được mời gọi đảm nhận đời sống hôn nhân, trong đó người này tự nguyện trao hiến chính mình cho người kia và xây dựng một cộng đồng hiệp thông nhân vị. Chính mối hiệp nhất này là nền móng của gia đình và xã hội.

Nhưng tất cả không chỉ có vậy. con người còn được mời gọi đi vào trong một giao ước với Thiên Chúa. Quả thật, con người không chỉ là một tạo vật của Đấng Tạo Hóa mà còn là hình ảnh của Thiên Chúa. Mối quan hệ đặc biệt này giữa Thiên Chúa và con người làm cho việc thiết lập giao ước trở thành có thể. Chúng ta nhận ra giao ước này trong trình thuật về cuộc sáng tạo ở ba chương đầu Sách Sáng Thế. Chính sáng kiến đi trước của Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo, lập nên giao ước này. Và giao ước này vẫn không thay đổi xuyên qua lịch sử cứu độ cho đến khi Thiên Chúa thiết lập giao ước vĩnh cửu với con người trong Đức Giêsu Kitô.

- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 13-6

Thánh Antôn Pađôva, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh
2Cr 3,15-4,1.3-6; Mt 5, 20-26

LỜI SUY NIỆM: “Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5,20)

Chúa Giêsu đang mời gọi chúng ta về những gì chúng ta đã nghe, thì phải biết theo cách Ngài dạy. Ngài muốn chúng ta đón nhận Lời Kinh Thánh với một cái tâm đầy thiện chí và tuân phục; để thanh luyện bản thân và tâm hồn của mình: từ trong ngôn từ đến hành động và cả trong tư tưởng. Tất cả mọi sự trong đời sống của chúng ta luôn phải hướng về Thiên Chúa và vì Thiên Chúa. Khi đó chúng ta mới thấy được những tiêu chuẩn đạo đức của thế gian này  thật bất toàn. Ước gì nhờ ơn Chúa giúp; mỗi ngày, chúng ta đều cố gắng thanh luyện con người của mình được trở nên tốt hơn.


Mạnh Phương

Gương Thánh nhân

Ngày 13-06

Thánh ANTÔN PADUA
Linh mục và tiến sĩ Hội Thánh (1195 - 1231)


Lòng tôn sùng rộng rãi và mạnh mẽ đối với thánh Antôn Padua thật lạ lùng so với những sự kiện đời Ngài. Ngài sinh năm 1195 có lẽ gần Lisbonne, với tên gọi là Fernandô. Cha Ngài là hiệp sĩ và viên chức tại triều đình hoàng đế Alphongsô thứ II, vua nước Bồ Đào Nha. Fernadô được gởi đi học trường nhà thờ chánh tòa tại Lisbonne. Nhưng vào tuổi 15, Ngài gia nhập dòng thánh Augustinô.
Sau hai năm tại nhà dòng, Ngài xin được chuyển về Coimbra vì bạn bè đến thăm quá đông. Tu viện Coimbra có một trường dạy Thánh kinh rất danh tiếng. Tám năm trời Fernadô nỗ lực học hỏi và đã trở thành học giả sâu sắc về thần học và kinh thánh.

1. Biến cố thay đổi

Ngày kia với nhiệm vụ tiếp khách, Ngài săn sóc cho 5 tu sĩ Phanxicô đang trên đường tới Morocco. Về sau họ bị tàn sát dã man và thi hài họ được đưa về Coimbra để tổ chức quốc táng. Fernadô mong ước hiến đời mình cho cánh đồng truyền giáo xa xăm.

Nôn nóng với ước vọng mới, Fernadô phải tiến một bước bất thường đầy đau khổ là rời bỏ dòng Augustinô để nhập dòng Phanxicô. Nhà dòng đặt tên Ngài là Antôn và chấp thuận cho Ngài tới Moroccô. Nhưng vinh dự tử đạo không được dành riêng cho Ngài. Ngài ngã bệnh và phải trở về nhà, Trên đường về, con tàu bị bão thổi bạt tới Messina ở Sicyly. Thế là An tôn nhập đoàn với anh em Phanxicô nước Ý. Có lẽ thánh nhân có mặt trong cuộc họp ở Assisi. Năm 1221, và gặp thánh Phanxicô ở đây. Ít lâu sau Ngài được gởi tới viện tế bần ở Forli gần Emilia để làm những công việc hèn hạ.

2. Biến cố hai.

Dầu vậy một biến cố bất ngờ khiến người ta khám phá ra khả năng đặc biệt của thánh nhân. Trong một lễ nghi phong chức ở Forli nhà giảng thuyết đặc biệt vắng mặt. Không ai dám thay thế. Cha giám tỉnh truyền cho An tôn lên tòa giảng. Antôn làm cho khán giả kinh ngạc. Người ta thấy ngay trước được rằng: Ngài là một nhà giảng thuyết bậc nhất. Hậu quả tức thời không Ngài được chỉ định làm nhà giảng thuyết trong cả Italia. Đây là một thời mà Giáo hội cần đến những nhà giảng thuyết hơn bao giờ hết để chống lại các lạc thuyết.

Kể từ đó nhà tế bần Forli không còn gặp lại Antôn nữa. Ngài du hành không ngừng bước từ miền nam nước Ý tới miên Bắc nước Pháp, hiến trọn thời gian và năng cực cho việc giảng dạy. Sự đáp ứng của dân chúng đã khích lệ Ngài nhiều, các nhà thờ không đủ chỗ cho người đến nghe. Người ta phải làm bục cho Ngài đứng ngòai cửa. Nhưng rồi đường phố và quảng trường đã lại chật hẹp quá và người ta lại phải mang bục ra khỏi thành phố tới những cánh đồng hay sườn đồi, nơi có thể dung nạp những 20, 30, 40 ngàn người đến nghe Ngài. Nghe tin Ngài đến đâu, thì nơi đó tiệm buôn đóng cửa, chợ hoãn phiên họp, tòa ngưng xử án. Suốt đêm dân chúng từ khắp hướng đốt đuốc tụ về. Dường như bất cứ ai một lần chịu ảnh hưởng của thánh Antôn thì không có gì chống lại được sự lôi cuốn bởi các bài giảng của Ngài.

3. Chủ trương.

Ngài thường mạnh mẽ chống lại sự yếu đuối của hàng tu sĩ qua những tội nổi bật trong xã hội đường thời như: tính tham lam, nếp sống xa hoa, sự độc đoán của họ. Đây là một giai thoại điển hình: khi Ngài được mời để giảng ở hội đồng họp tại Bourges, dưới sự chủ tọa của tổng giám mục Simon de Sully. Với những lời mở đầu "Tibi loquor cornute" (Tôi xin thưa cùng Ngài đang mang mũ giám mục trên đầu), thánh nhân tố giác vị giám mục mới Ngài tới, làm mọi thính giả phải kinh ngạc.

Cũng tại Bourges, nên ghi lại một phép lạ lừng danh về một con lừa thờ lạy bí tích cực trọng. Với một người Do thái không tin phép Bí tích Mình Thánh.

Thánh nhân nói : - Nếu con lừa ông cưỡi mà quỳ xuống và thờ lạy Chúa ẩn mình dưới hình bánh thì ông có tin không ?

Người Do thái nhận lời thách thức. Hai ngày ông ta không cho lừa ăn rồi dẫn tới chỗ họp chợ, giữa một bên là lúa mạch và bên kia thánh Antôn kiệu Mình Thánh Chúa đi qua, con vật quên đói quay sang thờ lạy Chúa.

Mùa chay cuối cùng thánh Antôn giảng ở Padua. Và người ta còn nhớ mãi về sau nhiệt tình mà thánh nhân đã khơi dậy. Dân địa phương đã không thể nào tìm ra thức ăn lẫn chỗ ở cho đoàn người đông đảo kéo tới. Nhưng sau mùa chay này, thánh nhân đã kiệt sức. Ngài xin các bạn đồng hành đưa về nhà thờ Đức Maria ở Padua để khỏi làm phiền cho chủ nhà trọ. Không nói được nữa. Ngài dừng chân ở nhà dòng Đức Mẹ người nghèo ở Arcella.

Tại đây, người ta đặt Ngài ngồi dậy và giúp Ngài thở. Ngài bắt đầu hát thánh thi Tạ ơn và qua đời giữa tiếng ca ngày 13 tháng 6 năm 1231.

(daminhvn.net)


13 Tháng Sáu

Hãy Mai Táng Chính Mình

Một vị linh mục nọ đã có một sáng kiến rất ngộ nghĩnh để đánh động giáo dân trong giáo xứ. Một buổi sáng Chúa Nhật nọ, dân chúng bỗng nghe một lời rao báo như sau: "Một nhân vật trong giáo xứ vừa qua đời. Tang lễ sẽ được cử hành vào sáng thứ Tư tới". Nghe lời loan báo ấy, cả giáo xứ nhốn nháo lên. Người nào cũng muốn biết con người quan trọng ấy là ai.
Ðúng ngày tang lễ, mọi người trong giáo xứ nườm nượp kéo nhau đến nhà thờ. Từ cung thánh cho đến cuối nhà thờ, không còn một chỗ trống. Người ta đến không phải để cầu nguyện cho người quá cố cho bằng để nhìn mặt lần cuối cùng con người mà ai cũng muốn biết.
Sau thánh lễ, vị linh mục đến mở nắp quan tài để cho mọi người đến chào từ biệt lần cuối cùng người quá cố. Ai ai cũng sắp hàng để nhìn cho kỳ được người chết. Nhưng ai cũng đều ngạc nhiên, bởi vì thay cho thi hài của người chết, mỗi người chỉ nhìn thấy trong quan tài một tấm gương và dĩ nhiên, khi cúi nhìn vào quan tài, mỗi người chỉ nhìn thấy dung nhan của mình mà thôi.
Chờ cho mọi người làm xong nghi thức từ biệt ấy, vị linh mục mới giải thích: "Như anh chị em đã có thể nhận thấy, tôi đã cho đặt vào trong quan tài một tấm kính. Con người mà anh chị em nhìn thấy trong quan tài không ai khác hơn là chính mỗi người trong chúng ta. Vâng, đúng thế, thưa anh chị em, mỗi người chúng ta cần phải mai táng chính mình... Thánh lễ vừa rồi đã được cử hành cho tất cả chúng ta".

Bắt đầu sứ mệnh công khai của Ngài bằng cử chỉ dìm mình xuống dòng nước sông Giodan, Chúa Giêsu muốn loan báo cho mọi người thấy rằng Ngài đã vâng phục Ý Chúa Cha để đi vào Cái Chết và nhờ đó cứu rỗi nhân loại. Một cách nào đó, mầu nhiệm của Sự Chết và Sống lại đã được diễn tả qua việc Chúa Giêsu dìm mình trong dòng nước.

Thiết lập Phép Rửa như cửa ngõ để đưa chúng ta vào cuộc sống trường sinh, Chúa Giêsu cung muốn chúng ta tham dự vào mầu nhiệm chết và sống lại của Ngài. Dìm mình trong nước của Phép Rửa, chúng ta khởi đầu cuộc sống Kitô hữu bằng chính cái chết. Sống đối với chung ta có nghĩa là chết: chết cho những khuynh hướng xấu, chết cho những đam mê xấu, chết cho tội lỗi, chết cho ích kỷ, chết cho hận thù. Cuộc sống do đó đối với chúng ta cũng là một cuộc mai táng liên lỉ. Cũng như hạt lúa rơi xuống đất phải thối đi, cũng thế chúng ta phải chấp nhận chôn vùi con người cũ tội lỗi của chúng ta.


(Lẽ Sống)

13-6

Thánh Antôn ở Padua

(1195-1231)

Quy tắc đời sống của Thánh Antôn là "từ bỏ mọi sự và theo Ðức Kitô," đúng như lời ghi trong Phúc Âm. Nhiều lần Thiên Chúa đã gọi thánh nhân đến các hoạch định mới và ngài đã đáp ứng một cách nhiệt thành và tận tụy hy sinh để phục vụ Ðức Giêsu Kitô cách trọn vẹn hơn.
Vị thánh rất nổi tiếng này sinh ở Bồ Ðào Nha, và tên rửa tội là "Ferdinand." Ngài được sự giáo dục kỹ lưỡng của các tu sĩ dòng Augustine và sau đó đã gia nhập Dòng. Khi hai mươi lăm tuổi, cuộc đời ngài chuyển hướng. Lúc bấy giờ, ngài nghe tin một số tu sĩ dòng Phanxicô bị bách hại bởi người Moor và được tử đạo ở Morocco -- đó là Thánh Bernard và các bạn. Ferdinand khao khát được chết vì Ðức Kitô nên ngài gia nhập dòng Phanxicô. Lúc bấy giờ, dòng này mới thành lập và Thánh Phanxicô vẫn còn sống. Ferdinand lấy tên là "Antôn" và đến Phi Châu để rao giảng cho người Moor. Nhưng ngay sau đó, ngài lâm bệnh nặng phải trở về Ý và sống trong một nơi hiu quạnh, chấp nhận công việc rửa chén trong nhà bếp và dành thời giờ để cầu nguyện, đọc Kinh Thánh.
Thầy Antôn không bao giờ nói về mình, nên không ai trong nhà dòng biết được sự thông minh và tài giỏi thực sự của ngài. Mãi cho đến khi có buổi lễ tấn phong, và vì không ai trong dòng kịp chuẩn bị nên Thầy Antôn đã được chọn để diễn giảng. Những năm tìm kiếm Ðức Kitô trong sự cầu nguyện, trong Kinh Thánh và phục vụ Chúa trong sự nghèo hèn, khiêm hạ đã chuẩn bị Thầy Antôn được sẵn sàng để Thần Khí dùng đến khả năng của thầy. Bài giảng của thầy đã làm mọi người kinh ngạc và từ đó trở đi, cho đến khi ngài từ trần vào chín năm sau đó, Thầy Antôn đã đi rao giảng khắp nước Ý. Ngài nổi tiếng đến nỗi dân chúng phải đóng cửa tiệm để đến nghe ngài giảng.
Ðược công nhận là một người siêng năng cầu nguyện, hiểu biết Kinh Thánh và thần học, Thầy Antôn là thầy dòng đầu tiên được dạy thần học cho các thầy khác. Kiến thức uyên thâm của thầy lại được Thiên Chúa dùng để rao giảng cho những người lạc giáo và hoán cải những kẻ lầm lạc.
Người thời ấy thường tìm đến Thầy Antôn để xin chữa lành hồn xác. Nhiều phép lạ đã xảy ra qua lời cầu bầu của thánh nhân ngay khi còn sống.
Thầy Antôn từ trần ở Arcella, gần Padua, nước Ý khi ngài ba mươi sáu tuổi. Chỉ một năm sau, ngài đã được Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô IX phong thánh.
Người ta thường vẽ Thánh Antôn bế Hài Nhi Giêsu vì Ðức Giêsu đã hiện ra với ngài. Thánh Antôn là người hiểu biết thâm sâu, nhất là về Kinh Thánh, do đó Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã tuyên xưng ngài là "Tiến Sĩ Tin Mừng," hoặc Tiến Sĩ Kinh Thánh.

Lời Bàn

Nhiều khi chúng ta muốn được người đời để ý đến những công việc tốt lành của chúng ta, nhưng ít ai muốn chú ý. Ðó là lúc chúng ta cầu xin Thánh Antôn giúp chúng ta vui lòng chấp nhận, và chú tâm đến những gì chúng ta có thể đem lại cho đời, hơn là nhận được từ người đời.

Lời Trích

Trong một bài giảng, Thánh Antôn nói: "Các thánh giống như các vì sao. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài đã giấu họ nơi kín đáo để đừng chiếu tỏa trước mặt người khác dù đôi khi họ muốn như vậy. Tuy nhiên, họ phải sẵn sàng hy sinh đời sống chiêm niệm âm thầm để đổi lấy việc bác ái, một khi tâm hồn họ nhận ra đó là lời mời của Ðức Kitô."


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét