Trang

Thứ Bảy, 15 tháng 6, 2013

16-06-2013 : (phần 2) CHÚA NHẬT XI MÙA THƯỜNG NIÊN năm C

Chúa Nhật Ngày 16/06/2013
Chúa Nhật Tuần XI Thường Niên – Năm C
(Phần II)



Giáo Lý Phúc Âm Chúa Nhật XI Quanh Năm, 16.6 2013 
CHÚA NHẬT XI QUANH NĂM, NĂM C
Sách Samuel quyễn II, 12.7-10.13; Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Galata 2.16.19-21
và Phúc Âm Thánh Luca 7.36-8.3

I.                   Giáo Huấn P.Â.:   
Thiên Chúa, Đấng cực thánh và vô tội. Chỉ Ngài mới có quyền tha tội. Khi nói “Tội của chị đã được tha rồi!” Chúa Giêsu muốn nói “Ta là Thiên Chúa!”

Muốn không phạm tội hay muốn được tha tội, tội nhân phải có tình yêu Chúa. Yêu Chúa là yêu sự thánh thiện. Càng yêu sự thánh thiện càng muốn xa tránh phạm tội. Đó là ý nghĩa của câu nói: Ai yêu mến nhiều, sẽ được tha thứ nhiều.

Chúa  Giêsu, Đấng cứu thế hay nói cách khác: Đấng đến mang tình thương và sự tha thứ.

II.        Vấn nạn P.Â.    
Nhóm Biệt Phái là ai?

Trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu có ba nhóm tôn giáo được nhiều người biết đến là: Biệt Phái, Sadducêô và Essenô. Không có tài liệu chắc chắn cho biết nhóm Biệt Phái phát xuất từ thời nào trong lịch sử Do Thái. Chỉ biết là có một nhóm người gọi là Biệt Phái xuất hiện khoảng năm 165 trước Công Nguyên thời anh em nhà Maccabêô nổi lên chống ngoại bang. 
Biệt Phái có nghĩa là tự tách mình ra khỏi đám đông quần chúng và cho mình là người trung thành với Chúa và với luật Môsê nhất cũng như được Chúa yêu. Họ tự hào về sự thánh thiện và trong sạch của mình qua việc tuân giữ thật nhiệm nhặt những chi tiết luật lệ. Tất cả mọi người là tội lỗi nhất là bọn thu thuế và đĩ điếm. Nên họ rất lấy làm khó chịu khi thấy Chúa đến dùng bữa nhà Ông Giakêu, tên trùm thuế vụ hay để cho người phụ nữ mang tai tiếng chạm vào người mình như trong bài Phúc Âm hôm nay.
Biệt Phái không chấp nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa không thể nào bần hàn như con Bác thợ mộc Giuse và bà Maria trong làng Nazareth. Con Thiên Chúa phải là dòng tộc David, người đến đễ làm vua, để giải phóng người Do Thái khỏi ách đô hộ La Mã, chứ ai đời “chim có tổ, nhưng con người không có chỗ gối đầu!”  Trong phiên toà tôn giáo vào đêm Thứ Năm, Thượng Tế Caipha đã xé toạt áo mình ra làm chứng rằng: Nó nói phạm thượng! Nó dám tự nhận mình là Con thiên chúa. Bao nhiêu đó là đủ chết rồi không cần chứng cớ nào khác.
Chúa Giêsu chỉ trích Biệt Phái nhiều điều, nhất là thói giả hình:
"Luật sĩ và Biệt Phái ngồi trên toà Môsê để chỉ dạy dân chúng, thực hành những gì họ bảo, nhưng đừng làm theo những gì họ làm. Họ chất những gánh nặng trên vai người khác, còn bản thân họ không bao giờ đưa ngón tay lay thử. Họ thích làm mọi chuyện cho người ta thấy như may dài tua áo, thích ngồi chỗ danh dự nơi hội đường và thích được chào hỏi nơi phố chợ” (Matt. 23, 2-9)
"Khốn cho các ngươi luật sĩ và Biệt Phái, vì các ngươi đóng cửa nước Trời! các ngươi đã không vào thì chớ mà cũng không cho người khác vào! (Matt. 23, 13)
Còn nhiều đoạn Phúc Âm khác có thể trưng dẫn về những chỉ trích Chúa dành cho người Biệt Phái, nhất là trong Phúc Âm Matthêô và Matcô. Vỉ đây là hai phúc Âm được viết cho người Do Thái chính gốc, những người được sinh ra và lớn lên với ảnh hưởng sâu đậm của truyền thống Cựu Ước. Riêng Phúc Âm Thánh Luca viết cho những tân tòng và trình bày đặc biệt về lòng thương xót của Chúa. Nên Luca thỉnh thoảng nói về những người Biệt Phái cởi mở, mời Chúa Giêsun đến nhà dùng cơm như Ông Biệt Phái Simon hôm nay.  Trong Tông Đồ Công Vụ Luca cũng tường thuật chi tiết về việc trở lại của Phaolô thành Tarsê tức Thánh Phaolô, nguyên là một Biệt Phái nỗi danh.
Tại sao người đàn bà tội lỗi có thể lọt vào nhà Biệt Phái Simon và làm chuyện: xức dầu thơm cho Chúa, khóc lóc sướt mướt làm ướt cả chân Chúa và lấy tóc mà lau chân Chúa?
Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng tin mừng, làm phép lạ chữa bệnh tật. … Nên nhiều người theo Ngài. Người ta tin Ngài là tiên tri hay là Đấng cứu thế đến từ trời cao. Nên Chúa Giêsu trở thành tụ điểm, lôi cuống và qui tụ dân chúng đến nỗi có lần người ta đứng đầy từ bên ngoài nhà và người bất toại đã phải đưa lên mái nhả, dỡ ngói, thòng dây đưa xuống trước Chúa Giêsu. Nên người phụ nữ tội lỗi nầy có thể trà trộn với đám đông lọt được vào nhà Ông Biệt Phái Simon.
Tuy nhiên vẫn còn thắc mắc: sao chị lại có thể vào phòng tiệc của nhà Ông Simon để xức dầu thơm, rồi khóc lóc và lấy tóc lau chân Chúa? Những nhà chú giải Kinh Thánh cắt nghĩa rằng:  Chúa đã biết chị ta từ trước và Ông Simon đã tưởng là Chúa Giêsu mời chị ta chăng? Ông Simon nể Chúa Giêsu như khách danh dự thì cũng phải để người quen biết Chúa Giêsu dù có tai tiếng nầy trong phòng tiệc.
Tại sao Ông Simon đã không lấy nước lã rửa chân cho Chúa, hay hôn Chúa hay xức dầu thơm cho Chúa theo thói tục người Do Thái, nhất là Biệt Phái? Ông Simon quí mến Chúa và mời Chúa dùng cơm tối. Nhưng ông vẫn là người Biệt Phái kiêu căng. Ông không đủ can đảm phớt lờ dư luận, nhất là sự chỉ trích từ nhóm Biệt Phái rằng:  Ông đã tiếp đón một người không là Biệt Phái vào nhà và còn dành mọi nghĩa cử kính trọng hay thân tình cho người không là Biệt Phái nầy.
Tại sao trong bài Phúc Âm hôm nay, người đàn bà tội lỗi phải xức thuốc thơm, khóc lóc và lấy tóc lau chân Chúa để xin ơn tha tội?
Xức thuốc thơm: Không như nghi thức sát tế chiên bò để chuộc tội. Nhưng thuốc thơm quí giá và đắt tiền. Nó tượng trưng cho một hy sinh lớn trong cuộc sống của con người. Nước mắt khóc vì hối lỗi và lau chân bằng chính tóc mình là cử chỉ hạ mình tuyệt đối. Người sám hối coi mình như một nô lệ chỉ đáng chạm tới chân ông chủ. Người đàn bà tội lỗi trong Phúc Âm Luca hôm nay đã bày tỏ lòng ăn năn sám hối đến tột cùng. Đồng thời chị nhìn nhận, Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng có quyền tha tội.

Chính vì thế chị đã nhận được ơn tha tội và ơn đức tin: Tin người mình khóc lóc dưới chân và lấy tóc lau là Thiên chúa.

Những Phúc Âm khác có tường trình người phụ nữ tội lỗi nầy không?

Mỗi Phúc Âm đều có tường thuật việc Chúa được một người đàn bà rửa chân. Nhưng không ai có thể xác quyết đây là một câu chuyện.
Phúc Âm Matthêô 26, 6-13 tường thuật rằng: Khi Chúa Giêsu ở Bêtania trong nhà Ông Simon tật phung thì xuất hiện một người đàn bà với bình dầu thơm quí giá đổ trên đầu Chúa Giêsu. Các tông đồ Chúa tiếc sót cho sự phí phạm liền nói: Tại sao phí phạm thế, có thể đem  bán bình đầu thơm nầy và lấy tiền cho người nghèo. Chúa Giêsu đối lại: Tại sao anh em quấy rầy người phụ nữ nầy làm gì? Chị ta đã làm một nghĩa cử rất đẹp cho Ta. Anh em luôn có người nghèo, còn Ta, anh em không có luôn đâu. Chị ta đã đổ dầu thơm ra để táng xác Ta. Nên Ta nói thật với anh em: Nơi đâu Tin Mừng được rao giảng, việc làm của chị ta hôm nay sẽ được truyền tụng.
Phúc Âm thánh Matcô 14,3-9 cũng có tường thuật khá giống với Matthêô: Chuyện xảy ra ở Betania, trong nhà Ông Simon tật phung. Người đàn bà xuất hiện, đập bể bình dầu thơm và xức trên đầu Chúa Giêsu………..
Phúc Âm Gioan 12, 1-8 tường thuật: Sáu ngày trước lễ Vượt Qua, ở Bêtania, trong nhà chị em Ladarô. Chị Marta phục vụ bàn ăn. Maria lấy bình đầu thơm quí giá, đổ ra trên chân Chúa và lấy tóc mình mà lau. Cả nhà sực mùi thơm. Giuđa Iscariót phát biểu: Bình dầu thơm đáng giá một năm tiền công, sao không đem bán mà bố thí cho người nghèo. Phúc Âm Gioan còn nói thêm: Giuđa chẳng có lòng gì với người nghèo, nhưng Ông ta giữ túi tiền và có lòng tham. Chúa Giêsu bảo: Để mặc chị ta. Chị ta có ý dành thuốc thơm để liệm xác Ta. Người nghèo, anh em có luộn. Còn Ta, không phải anh em luôn có.
Nhiều người không nghĩ đây là một câu chuyện với những tường thuật khác nhau.  Vì trong Phúc Âm của Luca, câu chuyện xảy ra năm đầu sứ vụ của Chúa Giêsu. Còn ba phúc Âm khác thì chuyện xảy ra gần cuối đời Chúa Giêsu, trước khi Chúa bị bắt và bị giết chết. Thêm vào đó, Phúc Âm Luca nói “tại nhà người Biệt Phái tên Simon” Còn Phúc Âm Mathhêô và Marcô thì nói “Simon tật phung”. Phúc Âm Thánh Gioan thì đề cập tới gia đình Ladarô, người đã được Chúa cho sống lại. Marta phục vụ còn Maria thì xức thuốc thơm trên chân Chúa. Phúc Âm Luca và Gioan thì nói “xức dầu thơm trên đầu” Còn Matthêô và Luca thì trên chân.
Nhưng cũng không ai cho rằng đây là bốn cầu chuyện khác nhau được tường thuật trong bốn Phúc Âm. Người ta đồng ý có ít là hai câu chuyện xức dầu. Câu chuyện của Luca tường thuật ở nhà Biệt Phái Simon hoàn toàn khác với câu chuyện xảy ra ở Bêtania nhà Simon tật phung.

Tiền tệ lưu hành thời Chúa Giêsu và giá trị tương xứng như thế nào?
Có ba loại tiền tệ lưu hành trên đất Do Thái thời Chúa Giêsu:
Đồng tiền Rôma, cũng gọi là Roman Denarius, làm bằng bạc, một mặt có hình hoàng đế Cêsar, được lưu hành khắp Đế Quốc Roma, nó tương đương với lương công nhật của một người lao động. Trong dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu trong Phúc Âm Luca 10.25-37, chủ quán được trả hai đồng Denarius để chăm sóc nạn nhân trong đôi ngày. Trong Phúc Âm Matthêô 22.19 Chúa Giêsu bị gài bẩy xem có nên nộp thuế cho Hoàng Đế Roma không? Chúa Giêsu yêu cầu đưa đồng tiền lưu hành. Họ đã đưa đồng bạc La Mã, tức đồng Denarius có hình hoàng đế.

Đồng tiền làm bằng đồng, cũng gọi là Đồng tiền Do Thái. Đế Quốc La Mã cho phép người Do Thái làm tiền riêng, chỉ bằng đồng thôi, xử dụng trong khu vực đền thờ Giêrusalem. Đồng bạc Do Thái nầy có giá trị bằng 1/16 đồng tiền Roma. Đồng tiền Do Thái nầy được nói đến trong Matthêô 10.29 và Luca 12.6 về 2 con chim sẻ bán được một đồng Do Thái. Hay Bà góa nghèo trong Matcô 12.41 và Luca 21.1-4 chỉ bỏ hai đồng bạc Do Thái vào thùng tiền dâng cúng, chỉ xứng đáng vài xu so với Denarius của La Mã.

Đồng tiền Hy Lạp, cũng gọi là tiền tỉnh bang, thường lưu hành trong các tỉnh như Antioch hay Tyre, tức vùng có giao thương mãi với lâng bang. Đồng tiền nầy có giá trị ngang với  tiền La Mã. Người ta cho rằng, thuế đền thờ tính bằng tiền Hy Lạp như trong Matthêô 17.27 và Biệt Phái cũng trả cho Giuđa tiền bán Chúa 30 đồng tiền Hy Lạp như trong Matthêô 28.12.

Chúng ta cũng nghe nói đến nén bạc, như trong dụ ngôn người chủ giao số lượng nén bạc khác nhau cho gia nhân trước khi đi xa như trong Matthêô 25.14-30.  Đây là số lượng tiền rất lớn, bằng lương 15 năm của một công nhân thời bấy giờ.

III.            Thực hành P.Â.:

1)     Tình thương và sự tha thứ qua bí tích giải tội.

Nhiều người cảm thấy ngại đi xưng tội, vì:
Nếu chúng ta có tội, chúng ta xúc phạm đến Chúa, chỉ cần xin lỗi Chúa là đủ.
Thật ngại nói tội mình ra với người khác. Hơn nữa linh mục cũng có tội. làm sao một tội nhân lại có thể tha tội cho một tội nhân khác.

Phạm tội là xúc phạm đến Chúa nhưng cũng làm thương tổn đến Hội Thánh. Tội nhân là những vết thương của thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô, tức Giáo Hội. Nếu ai đó có tính chơi bời dâm đảng, người khác sẽ chê cười rằng: “người Công Giáo mà làm như vậy!” Nên phạm tội là xúc phạm và làm tổn thương Giáo Hội.

Chúa dựng nên chúng ta có hồn, có xác, tức phải có những gì cụ thể trông thấy được. Khi chúng ta có lỗi với người khác, chúng ta không thể nói rằng: tôi thật lòng xin lỗi là được và đủ. Chúng ta phải đi tìm gặp người mình xúc phạm, nói lời xin lỗi và nhận sự tha lỗi. Chúa đòi chúng ta phải đến gặp linh mục. Qua vị đại diện Chúa, chúng ta xưng thú tội, chúng ta xin lỗi và nhận ơn tha tội.

Dù linh mục là tội nhân như bao người khác, nhưng linh mục nhận quyền tha tội qua bí tích truyền chức thánh. Quan toà hay chánh án cũng là những người lỗi luật đi đường hay phạm tội hình sự. Nhưng khi làm chánh án hay quan toà, người đó đại diện cho pháp luật để xét xử tội phạm. Linh mục nhân danh chúa và Giáo Hội để tha tội và ra việc đền tội cho chúng ta.

Chúng ta cứ thử nghĩ xem nếu không có bí tích giải tội, chúng ta sẽ như thế nào. Chúng ta sẽ chết trong tội. Nếu chúng ta chết trong tội thì hoá ra chúng ta phí phạm công trình cứu chuộc của Chúa? Nên vì thương, Chúa xuống trần gian. Vì thương Chúa đã lập bí tích hoà giải, để chúng ta, những con người yếu đuối có dịp để nhận sự tha thứ và được cứu độ. Bí tích giải tội như hành trang cần thiết: như tiền bạc hay thuốc uồng  mà cha mẹ chuẩn bị cho con cái sắp đi hành trình xa. Thường con cái không thấy cần. Nhưng Cha Mẹ là người có kinh nghiệm, biết là con mình có lúc cần đến số tiền hộ thân hay thuốc uống trên đường đi.

Chúa biết chúng ta yếu đuối hay sa phạm tội. Nên ngoài bí tích rửa tội để tha tội tổ tông. Chúng ta sau đó còn cần bí tích giải tội để cứu sống chúng ta sau mỗi lần sa ngã phạn tội trên đường đời. Bí tích giải tội rất rõ nghĩa của tình thương và sự tha thứ,

2)                 Giải tội tập thể! Thật giản tiện và thực tế sao không thấy áp dụng thường xuyên trong Giáo Hội?

Không thấy áp dụng việc xưng tội tập thể thường xuyên vì không được phép.

Giáo Luật số 961 qui định như sau:

§1.       Không thể ban ơn xá giải chung cho nhiều hối nhân cùng một lúc, nếu mỗi cá nhân không thú tội trước, trừ:
1°  trường hợp nguy tử sắp xảy ra và không đủ giờ để cho một hay nhiều tư tế nghe từng hối nhân xưng tội. Thí dụ lính sắp ra trận hay thiên tai bão lụt đang sắp xảy ra.

2°  trường hợp có nhu cầu nghiêm trọng, nghĩa là khi có đông hối nhân mà không có đủ Cha giải tội để nghe từng người xưng tội đúng cách trong một thời gian thích hợp, đến nỗi các hối nhân không được lãnh ơn của bí tích hoặc không được rước lễ trong thời gian lâu dài mà không do lỗi của họ, tuy nhiên không được coi là có nhu cầu đủ, khi không có sẵn Cha giải tội vì có đông hối nhân như có thể xảy ra trong một ngày lễ lớn hoặc trong một cuộc hành hương lớn nào đó.
           
§2        Việc nhận định xem những điều kiện cần thiết chiếu theo quy tắc của §1,  2° có hay không là thuộc về Giám Mục Giáo phận; Ngài có thể xác định những trường hợp có nhu cầu như thế, dựa vào những tiêu chuẩn đã được thoả thuận chung với các thành viên khác của Hội Đồng Giám Mục.

            Như vậy chỉ có thể lãnh nhận bí tích hoà giải tập thể trong trường hợp thật sự nguy tử nghiêm trọng và trong trường hợp mà Đức Giám Mục địa phận (không là Giám Mục phụ tá hay Giám Mục phó) nhận định và cho phép ban bí tích giải tội tập thể.

            Tuy nhiên sau đó hối nhân càng sớm càng tốt phải xưng tội cá nhân, nhất là những tội trọng. Giáo Hội không chấp nhận việc lãnh bí tích giải tội tập thể hai lần liên tiếp mà không có xưng tội cá nhân ở giữa. (Giáo Luật điều 962)
Lm. Phêrô Trần thế Tuyên 

16/06/13 CHÚA NHẬT TUẦN 11 TN – C
Lc 7,36-8,3

XIN CHO CON YÊU CHÚA NHIỀU
“Dầu Ô-liu ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị này thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. Vì thế, tôi nói cho ông hay, tội chị rất nhiều nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều.” (Lc 7,46-47)
Suy niệm: Vừa qua, một nhiếp ảnh gia Mỹ đã gây sửng sốt khi công bố bộ ảnh chụp cảnh dùng máy cưa nát chiếc túi Birkin trị giá 100.000 đô la. Giải thích lý do tiêu hủy đồ vật đắt tiền đó, người bạn thân của nhà nhiếp ảnh cho biết: họ muốn chống lại thói lệ thuộc của con người vào những giá trị vật chất. Người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay có một hành động tương tự, đổ cả chai dầu thơm hảo hạng để xức chân Chúa. Chị không chỉ bày tỏ quyết định chấm dứt lệ thuộc vật chất, những thứ mà suốt những năm dài qua chị đã bán mình để kiếm lấy và dùng nó để bôi thơm cho con người tội lỗi của chị, mà còn bày tỏ sự dứt khoát đối với tội lỗi. Chính Chúa là động lực để chị đi đến quyết định gây sửng sốt đó. Sự thay đổi như thế xuất phát từ lòng yêu mến Chúa.
Mời Bạn: Có những thứ vật chất nào đang lôi kéo bạn xa Chúa? Những quyến luyến bất chính nào đang ràng buộc bạn? Bạn có dám rời khỏi những dan díu ấy để bày tỏ đức tin và lòng yêu mến của bạn vào Chúa Giêsu không?
Chia sẻ với nhau một kinh nghiệm bày tỏ lòng yêu mến Chúa có ấn tượng với bạn nhất.
Sống Lời Chúa: Từ bỏ một tính xấu hay tật xấu để bày tỏ lòng yêu mến Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã không chê ghét người phụ nữ tội lỗi, xin cũng đừng bỏ rơi chúng con, nhưng xin cho chúng con biết sẵn sàng bày tỏ lòng yêu mến Chúa trong những hành động của chúng con. Amen.

TỘI BÀ RẤT NHIỀU MÀ ĐÃ ĐƯỢC THA, VÌ BÀ ĐÃ YÊU MẾN NHIỀU!
(CHÚA NHẬT XI/C)

SUY NIỆM

Tội con đã được tha rồi. Đức Tin của con đã cứu con. Con hãy về bằng an!

Ôi, phán quyết chung cục thật nhân hậu biết bao! Có lời tha thứ nào êm ái dịu ngọt hơn? Rồi thêm lời khẳng định được nêu cao. Và lời cầu chúc rộng mở cho một cuộc sống mới được khởi đầu với bình an của THIÊN CHÚA. Đúng như lời thánh vịnh 32(31) ca lên rằng: ”Hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung. Hạnh phúc thay, người Chúa không hạch tội, và lòng trí chẳng chút gian tà” (1-2).

Trình thuật Tin Mừng mô tả một khung cảnh tuyệt đẹp về hành động thống hối vô cùng khiêm hạ và thật công khai của người đàn bà tội lỗi nổi tiếng trong thành. Chắc chắn mọi người có mặt đều biết rõ bà này là ai. Bà đã công khai phạm tội. Bà từng sống bất cần các phán đoán xét xử của loài người. Bà khinh thường danh thơm tiếng tốt. Bà chà đạp nhân phẩm của mình và danh dự của gia đình. Và nhất là bà dám công khai xúc phạm đến chính THIÊN CHÚA, Đấng là chủ tể vận mệnh con người.

Người nữ được dựng lên để phụ giúp người nam, để hoàn thành một công trình còn dang dở. Nhưng phụ nữ đầu tiên đã phá đổ công trình ấy cũng như ý hướng ban đầu của THIÊN CHÚA. Từ đó, đã có không biết bao nhiêu người nữ trở thành dụng cụ phá đổ thay vì xây dựng. Và người đàn bà tội lỗi trong trình thuật Tin Mừng trên đây là một trong những kẻ phá đổ đó. Bà phá đổ hạnh phúc của các gia đình khác khi quyến rũ các ông chồng đi theo bà. Bà đã làm cho các bà mẹ và bà vợ phải đổ không biết bao nhiêu giọt nước mắt vì bà.

Nếu trước đây bà công khai lăng loàn, bất chấp và chà đạp tất cả thì giờ đây bà cũng đạp đổ tất cả để công khai ăn năn thống hối. Khi bà bước vào nhà ông Simon, chắc hẳn có những cặp mắt thèm thuồng hoặc khinh bỉ chằm chặp nhìn bà. Mọi người sẵn sàng lên án và kết tội bà. Nhưng bà bất cần. Bà hoàn toàn không nao núng trước các lời xầm xì và nhạo báng. Bà chỉ khiêm tốn đến van xin sự tha thứ và lòng từ bi nhân hậu của Đức Chúa GIÊSU. Bà dùng chính các phương dược thuần túy nữ giới để chuộc lại lỗi lầm. Đó là: Thuốc thơm, bộ tóc và nước mắt.

Và tâm tình thống hối chân thành của bà được Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng Cứu Thế, tiếp nhận với lòng khoan dung. Đức Chúa GIÊSU tuyệt đối không đồng lõa với tội ác cũng không về phe những kẻ có tội. Không. Ngài chỉ tiếp rước, cứu độ và tha thứ cho kẻ có tội. Ngài băng bó và chữa lành các vết thương. Ngài thấu rõ tâm lòng hối nhân. Vòng tay Ngài luôn luôn âu yếm rộng mở và chờ đón. Tình Yêu của Đức Chúa GIÊSU KITÔ vượt lên trên mọi phê phán xét xử bất công và đê tiện của loài người. Tình Yêu Ngài ngút ngàn chất ngất tận Trời Cao! Không ai có thể suy cho cùng, hiểu cho thấu.

Ôi dịu dàng biết bao khi Đức Chúa GIÊSU đưa ra lời phán quyết chung cục cho người đàn bà tội lỗi: ”Tội con đã được tha rồi. Đức Tin của con đã cứu con. Con hãy về bằng an!”

Ước gì mỗi tín hữu Công Giáo cũng được nghe chính lời Đức Chúa GIÊSU phán như thế.

Tuy nhiên, còn điểm lưu ý sau cùng. Đó là bí thuật của người đàn bà để nhận ơn tha thứ. Chính Đức Chúa GIÊSU tiết lộ: ”Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều”. Đúng thế. Chính tình yêu là động lực điều khiển tất cả. Ai yêu nhiều sẽ hiểu nhiều. Ai yêu nhiều sẽ nhận được nhiều. Ai yêu nhiều sẽ làm được những điều kỳ diệu. Kỳ diệu của trái tim chứ không phải của những hào nhoáng phù du chóng qua của thế gian giả dối. Ai yêu nhiều sẽ vượt thắng tất cả và có khả năng chấp nhận cả đến hy sinh mạng sống vì Tình Yêu THIÊN CHÚA. Đó là hành động hy sinh tuyệt đỉnh của các vị thánh tử đạo trải qua hơn hai ngàn năm lịch sử của Giáo Hội Công Giáo, trong đó có 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam. Ngày 19-6-2013 kỷ niệm đúng 25 năm (19-6-1988) Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên phong 117 anh hùng tử đạo Việt Nam lên hàng hiển thánh. Mừng kỷ niệm với lòng chân thành tri ân các đấng bậc đã qua đời cũng như những vị còn sống đã góp phần vào tiến trình tuyên phong hiển thánh cho 117 anh hùng tử đạo Việt Nam. Xin THIÊN CHÚA Nhân Lành trả công bội hậu cho tất cả các vị. Xin THIÊN CHÚA Ba Ngôi chúc lành cho tổ quốc và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam thân yêu.

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
Radio Vatican

Lectio: Chúa Nht XI Thường Niên (C)

Chúa Nht, 16 Tháng 6, 2013
Chúa Giêsu tiếp đón và bênh vc người đàn bà vi bình thuc thơm
Nim tin tưởng ca người nghèo khó vào Đc Giêsu
Lc 7:36 – 8:3


1.  Li nguyn m đu

Ly Chúa Giêsu, xin hãy sai Thn Khí Chúa đến giúp chúng con đc Kinh Thánh vi tâm tình mà Chúa đã đc cho các môn đ trên đường Emmau.   Trong ánh sáng ca Li Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đ khám phá ra được s hin din ca Thiên Chúa trong ni đau bun v bn án và cái chết ca Chúa.  Vì thế, cây thp giá tưởng như là s kết thúc ca mi nim hy vng, đã tr nên ngun gc ca s sng và s sng li.
Xin hãy to s thinh lng trong chúng con đ chúng con có th lng nghe tiếng Chúa trong s Tác To và trong Kinh Thánh, trong các s kin ca đi sng hng ngày và trong nhng người chung quanh, nht là nhng người nghèo khó và đau kh.  Nguyn xin Li Chúa hướng dn chúng con đ, ging như hai môn đ t Emmau, chúng con cũng s được hưởng sc mnh s phc sinh ca Chúa và làm chng cho nhng người khác rng Chúa đang sng hin hu gia chúng con như ngun gc ca tình anh em, công lý và hòa bình.  Chúng con cu xin vì danh Chúa Giêsu, con ca Đc Maria, Đng đã mc khi cho chúng con v Chúa Cha và đã gi Chúa Thánh Thn đến vi chúng con.  Amen.

2.  Bài Đc

a)  Chìa khóa dn đến bài đc:

Bài Phúc Âm ca Chúa Nht tun này đt trước chúng ta hai phân cnh liên quan vi nhau.  Phân cnh th nht thì khá cm đng.  Mt người ph n được cho là người ti li trong thành, đã có đ can đm đ đi vào nhà ông Simon, mt người Bit Phái, đang trong ba ăn, đ gp Chúa Giêsu, người đàn bà này đã ra chân cho Chúa,  hôn chân Chúa và xc thuc thơm.   Phân cnh th hai mô t cng đoàn ca Chúa Giêsu gm nhng người đàn ông và ph n.

Khi đc đon Phúc Âm này, bn hãy tưởng tượng mình đang trong nhà ca người Bit Phái, ngi ti bàn và quan sát cn thn các thái đ, hành đng và li nói ca nhng người đang hin din đó, người ph n, Chúa Giêsu và người Bit Phái.  Bn hãy đc li đon tài liu ngn mà Luca đã đưa ra liên quan đến cng đoàn đang tp hp xung quanh Chúa Giêsu và hãy c gng xem xét k lưỡng nhng li đã được dùng đ thy rng cng đoàn được bao gm nhng người đàn ông và ph n đi theo Chúa Giêsu.

c)  Phn phân đon văn bn đ tr giúp cho bài đc:

Lc 7:36-38:  Người ph n ra chân Chúa Giêsu trong nhà mt người Bit Phái
Lc 7:39-40:  Phn ng ca người Bit Phái và câu tr li ca Đc Giêsu
Lc 7:41-43:  D ngôn v hai người mc n và câu tr li ca người Bit Phái
Lc 7:44-47:  Chúa Giêsu dùng d ngôn đ bin h cho người ph n
Lc 7:48-50:  Tình yêu ny sinh ra s tha th và s tha th phát sinh ra tình yêu
Lc 8:1-3:  Nhng người đàn ông và ph n môn đ trong cng đoàn ca Chúa Giêsu

d)  Phúc âm:

36 Khi y, có mt người Bit Phái kia mi Chúa Giêsu đến dùng ba vi mình.  Khi Người vào nhà người Bit Phái và vào bàn ăn, 37 cht có mt người đàn bà ti li trong thành, nghe biết Người đang dùng ba trong nhà người Bit Phái lin mang đến mt bình bch ngc đng thuc thơm. 38 By gi bà đng phía chân Người, khóc nc n, và nước mt ướt đm chân người, bà ly tóc lau, ri hôn chân và xc thuc thơm.
39 Thy thế, người Bit Phái đã mi Người t nghĩ rng:  “Nếu ông này là tiên tri thì phi biết người đàn bà đang đng đến mình là ai và thuc hng người nào: là mt người ti li.”  40 Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bo ông rng:  “Hi Simon, Tôi có điu mun nói vi ông.”  Simon thưa:  “Xin Thy c nói.”  41 “Mt người ch n có hai con n; mt người n năm trăm đng, người kia n năm mươi. 42 Vì c hai không có gì tr, nên ch n tha cho c hai.  Vy trong hai người đó, người nào s yêu ch n nhiu hơn?” 43 Simon đáp:  “Tôi nghĩ là k đã được tha nhiu hơn.”  Chúa Giêsu bo ông:  “Ông đã xét đoán đúng.” 44 Và quay li phía người đàn bà, Người bo Simon:  “Ông thy người đàn bà này ch?  Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đ nước ra chân Tôi, còn bà này đã ly nước mt ra chân Tôi, ri ly tóc mình mà lau.  45 Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này t lúc vào không ngt hôn chân Tôi.  46 Ông đã không xc du trên đu Tôi, còn bà này đã ly thuc thơm xc chân Tôi.  47 Vì vy, Tôi bo ông, ti bà này rt nhiu mà đã được tha ri, vì bà đã yêu mến nhiu.  K được tha ít là k yêu mến ít.”  48 Ri Người bo người đàn bà:  “Ti con đã được tha ri.”  49 Nhng người đng bàn lin nghĩ trong lòng rng:  “Ông này là ai mà li tha ti được?”  50Và Người nói vi người đàn bà:  “Đc tin con đã cu con; con hãy v bình an.
8:1 Sau đó Người ro qua các thành th và xóm làng, ging dy và loan báo nước Thiên Chúa.  Có nhóm Mười Hai cùng đi vi Người, 2 cũng có c my người ph n đã được cha khi tà thn và bnh tt: Maria gi là Mađalêna đã được cha khi by qu ám,  3 Gioanna v ca Cusa, viên qun lý ca Hêrôđê, Susanna, và nhiu bà khác:  h đã ly ca ci mình mà giúp Người.

3.  Giây phút thinh lng cu nguyn

Đ Li Chúa có th thm nhp và soi sáng đi sng ca chúng ta.

4. Mt vài câu hi gi ý

Đ giúp chúng ta trong phn suy gm cá nhân.

a)  Điu gì trong đon Kinh Thánh này đã làm bn cm đng nht?  Ti sao?
b)  Người ph n đã làm gì và bà y đã làm như thế nào?
c)  Người Bit Phái t thái đ gì vi Chúa Giêsu và vi người đàn bà:  ông ta đã làm gì và nói gì?
d)  Chúa Giêsu đã có thái đ gì vi người ph n:  Người đã làm gì và nói gì?
e)  Người đàn bà có s không làm nhng gì cô ta đã làm nếu cô ta không hoàn toàn tin chc rng Chúa Giêsu s tiếp đón cô ta.  Ngày nay, nhng người b thit thòi trong xã hi có cùng mt s tin tưởng vng vàng như thế đi vi nhng người Kitô hu chúng ta hay không?
f)  Tình yêu thương và s tha th.  Nhng người ph n đi theo Chúa Giêsu là ai?  Điu gì đã khiến h gn bó vi nhau?
g)  Cng đoàn ca Chúa Giêsu:  Nhng người ph n đi theo Chúa Giêsu là nhng người nào?   H đã làm nhng gì?

5.  Dành cho nhng người mun đào sâu hơn vào ch đ

a)  Bi cnh văn hc và lch s ca đon Phúc Âm:  

Trong chương 7 ca sách Phúc Âm ca mình, thánh Luca đã t li nhng điu mi m và đáng ngc nhiên xy ra trong dân chúng t lúc Chúa Giêsu công b v nước Thiên Chúa.  Ti Caphánaum, Chúa ca ngi đc tin ca dân ngoi:  “Amen, Tôi nói cho các ông hay:  ngay c trong dân Israel, Tôi cũng chưa thy mt người nào có lòng tin mnh như thế! (Lc 7:1-10)   Người đã cho con trai ca bà góa ti thành Na-im được sng li (Lc 7:11-17).  Phương cách Chúa Giêsu công b v Nước Tri làm ngc nhiên nhng người anh em Do Thái đến ni mà ngay c ông Gioan Ty Gi đã phi ngc nhiên và sai người đến hi:  "Thy có tht là Đng phi đến không, hay là chúng tôi còn phi đi ai khác?” (Lc 7:18-30).  Chúa Giêsu đã phê phán s ngp ngng lưỡng l ca nhng k chng đi Chúa:  “H ging như nhng đa tr không biết mình mun gì!” (xem Lc 7:31-35).   đây, vào đon cui ca chương này, đó là phn văn bn ca chúng ta (Lc 7:36 – 8:3), có điu gì khác l đã bt đu xut hin và to ngc nhiên trong Tin Mng v Nước Tri:  thái đ ca Chúa Giêsu đi vi ph n.
Vào lúc Tân Ước được viết ti đt Paléstine, ph n là thành phn b thit thòi.  H không được tham gia các công vic trong hi đường hoc các vic trong xã hi.  T thi ông Êz-ra (thế k IV trước Chúa Giáng Sinh), vic kỳ th ph n đã tiếp tc gia tăng như chúng ta nhn thy trong các câu chuyn v các bà Giuđitha, Esther, Rúth, Naomi, Susanna, nhng người ph n Sulamite và nhiu người khác.  Vic kỳ th này đi vi gii ph n đã không thy mt phn nh nào trong vic Chúa Giêsu tiếp đón h.  Trong câu chuyn người ph n vi bình thuc thơm (Lc 7:36-50), chúng ta thy vic chng ch nghĩa tuân th trong vic Chúa Giêsu đón tiếp người ph n y.  Trong đon mô t v cng đoàn đang được gây dng chung quanh Chúa Giêsu (Lc 8:1-3), chúng ta thy đàn ông và ph n t tu chung quanh Chúa Giêsu, bình đng trong v thế như các môn đ.

b)  Li bình gii v đon Phúc Âm:


Lc 7:36-38:  Mt người ph n ra chân Chúa Giêsu trong nhà mt người Bit Phái 
Có tt c ba người khác nhau cùng gp g:  Chúa Giêsu, người Bit Phái và người ph n có tiếng là người ti li.  Chúa Giêsu đang trong nhà ông Simon, mt người Bit Phái đã mi Chúa đến dùng ba ti nhà mình.  Mt người ph n bước vào, quỳ dưới chân Chúa Giêsu, khóc lóc, ra chân Chúa bng nước mt ca mình, ri x tóc đ lau khô chân Chúa Giêsu, ri hôn chân và xc thuc thơm lên chân Người.  C ch x tóc ca người ph n trước công chúng là mt du hiu ca s đc lp.  Cnh này đã to nên mt cuc tranh lun tiếp theo sau đó.

Lc 7:39-40:  Li đi đáp gia người Bit Phái và Chúa Giêsu
Chúa Giêsu đã không ngn ngi, không qu trách người ph n mà li còn đ cho bà ta t do làm nhng điu y.  Người ph n là người mà theo nhng người nghiêm th Do Thái thi y thì không đáng được tiếp đón.  Trông thy nhng gì đang xy ra, người Bit Phái ch trích Chúa Giêsu và lên án người ph n: “Nếu ông này là tiên tri thì phi biết người đàn bà đang đng đến mình là ai và thuc hng người nào:  là mt người ti li!”  Đ đáp li li khiêu khích ca người Bit Phái, Chúa Giêsu đã k mt d ngôn; mt d ngôn mà s giúp người Bit Phái và tt c chúng ta thy được li mi gi vô hình ca tình yêu Thiên Chúa, Đng đã t t l mình trong cnh y.

Lc 7:41-43:  D ngôn v hai người mc n và câu tr li ca người Bit Phái
D ngôn k li vic sau đây:  Mt ch n có hai con n.  Mt người n năm trăm đng tin bc và người kia n năm chc.  Mt đng tin bc tương đương vi mt ngày lương.  Do đó, nó tương đương vi tin lương ca năm mươi ngày làm vic!  C hai không có gì đ tr nên ch n tha cho c hai.  Trong hai người đó, người nào s yêu ch n nhiu hơn?  Người Bit Phái đáp:  “Tôi nghĩ là người đã được tha nhiu hơn!” Bài d ngôn ví d rng trước đó, c người Bit Phái ln người ph n đu đã nhn được mt s ân sng t Chúa Giêsu.  Bây gi, trong thái đ ca hai người đi vi Chúa Giêsu cho chúng ta thy lòng biết ơn ca h v nhng ân sng đã nhn được.  Người Bit Phái đã t lòng yêu mến, lòng biết ơn bng cách mi Chúa Giêsu đến nhà mình.  Người ph n bày t tình yêu mến và lòng biết ơn ca mình vi nhng git nước mt, nhng n hôn và thuc thơm.  Gia hai hành đng này, hành đng nào cho ta thy mt tình yêu ln hơn: vic ăn ung hay là nhng n hôn và thuc thơm?  Liu s đo lường tình yêu ca mt người có th nào tùy thuc vào kích thước ca món quà tng không?

Lc 7:44-47:  Chúa Giêsu dùng d ngôn đ bin h cho người ph n
Khi Người nhn được câu tr li đúng t người Bit Phái, Chúa Giêsu lin áp dng nó vào vic xut hin ca người ph n trong ba ăn.  Người bin h cho người ph n ti li trước s phán xét theo lut l Do Thái.  Điu mà Chúa Giêsu mun nói vi người Bit Phái ca mi thi đi là thế này:  “K được tha ít, thì yêu mến ít!”  Vic bo v cá nhân mà tôi, người Bit Phái, đã to nên cho chính mình bi vì vic tuân gi theo l lut Thiên Chúa và Giáo Hi ca tôi, thường xuyên ngăn tr tôi không t bày mt tình yêu biết ơn đi vi mt Thiên Chúa luôn tha th.  Điu quan trng không phi là vic tuân gi các l lut như thế, mà là tôi tuân gi l lut vì tình yêu vi Chúa.  Áp dng các du hiu tình yêu ca người ph n ti li, Chúa Giêsu đáp li người Bit Phái, k t coi mình là công chính:  “Ông thy người đàn bà này ch?  Tôi đã vào nhà ông, và ông đã không đ nước ra chân Tôi, nhưng bà này đã ly nước mt ra chân Tôi, ri ly tóc mình mà lau.  Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này t lúc vào không ngt hôn chân Tôi.  Ông đã không xc du trên đu Tôi, còn bà này đã ly thuc thơm xc chân Tôi.  Vì vy, Tôi bo ông, ti bà này rt nhiu mà đã được tha ri, vì bà đã yêu mến nhiu.  K được tha ít, thì yêu mến ít.”  Điu này chng khác gì Người đã nói:  “Hi ông Simon, mc dù ông m yến tic thết đãi tôi, nhưng ông yêu mến rt ít!”  Ti sao? Tiên tri Giêrêmia đã tng nói rng trong tương lai, trong giao ước mi, “h s không còn phi dy cho các bn hu và thân thích ca h làm thế nào đ biết Đc Chúa.  Chúa phán, tt c t k bé nht đến người ln nht, s biết Ta, bi vì Ta s tha th ti ác cho h và không còn nh đến li lm ca h na”. (Gr 31:34)  Nhn thc được tha th làm cho người ta cm nghim được tình yêu ca Thiên Chúa.  Khi người Bit Phái gi người ph n là “mt người ti li”, ông ta đã t coi mình là mt người công chính tuân gi và thc thi l lut.  Ông ta ging như người Bit Phái trong mt d ngôn khác đã nói:  “Ly Thiên Chúa, xin t ơn Chúa, vì con không như bao k khác: tham lam, bt chính, ngoi tình, hoc như tên thu thuế kia” (Lc 18:11).  Simon có th đã nghĩ:  “Ly Thiên Chúa, con cm t Chúa vì con không ging như người đàn bà ti li này!”  Nhưng người v nhà được tr nên công chính không phi là người Bit Phái mà là người thu thuế vì đã thưa rng:  “Ly Chúa, xin thương xót con vì con là k có ti!” (Lc 18:14).   T khi thy, nhng người Bit Phái luôn t coi mình là vô ti, bi vì h gi đúng mi l lut ca Thiên Chúa, h đến hi đường, cu nguyn, b thí và đóng thuế đy đ.  H đt s an toàn ca h vào nhng gì h làm cho Thiên Chúa, mà không phi vào tình yêu và s tha th ca Thiên Chúa đi vi h.  Đó là lý do ti sao Simon, người Bit Phái, không th có được cm nghim tình yêu cho không ca Thiên Chúa.

Lc 7:48-50:  Tình yêu ny sinh ra s tha th và s tha th phát sinh ra tình yêu
Chúa Giêsu bo người ph n:  “Ti con đã được tha ri.”  Ri nhng người đng bàn lin nghĩ trong lòng rng:  “Ông này là ai mà li tha ti được?”  Nhưng Chúa Giêsu nói vi người đàn bà:  “Đc tin con đã cu con.  Hãy đi và đng phm ti na!”   đây, chúng ta thy thái đ mi ca Chúa Giêsu.  Người không lên án nhưng li tiếp đón.  Đc tin đã khiến cho người ph n biết v chính mình, chp nhn bn thân và chp nhn Thiên Chúa.  Trong cuc gp g vi Đc Giêsu, mt sc lc mi đã v òa ra đ giúp bà ta tr nên mt con người mi.  Mt câu hi quan trng đến trong trí chúng ta.  Liu người đàn bà ti li trong thành ph y có làm nhng vic bà ta đã làm nếu bà y không hoàn toàn chc chn rng Đc Giêsu s tiếp nhn mình hay không?  Điu này có nghĩa là đi vi nhng người nghèo khó trong vùng Galilê thi y, Chúa Giêsu là người đáng được tin cy tuyt đi!  “Chúng ta có th tin tưởng nơi Người.  Người s đón tiếp chúng ta!”  Liu nhng người thp c bé ming thi nay có cùng mt s tin tưởng như thế đi vi nhng Kitô hu chúng ta không?

Lc 8:1-3:  Cng đoàn nhng người môn đ ca Chúa Giêsu
Chúa Giêsu ro qua các thành th và xóm làng ca đt Galilê, ging dy và loan báo Tin Mng v Nước Thiên Chúa và có Nhóm Mười Hai cùng đi vi Người.  Khái nim “đi theo Chúa Giêsu” cho thy tình trng ca mt môn đ đi theo Thy mình tìm cách noi theo gương Chúa và cùng san s vi s phn ca Người. Điu đáng ngc nhiên là ngoài nhng người đàn ông còn có nhng người ph n “đã đi theo Chúa Giêsu”. Thánh Luca đt đ nhng môn đ nam cũng như n trên mt phương din bình đng.  Ông cũng nói đến nhng người ph n đã ly ca ci mình mà giúp Đc Giêsu.  Luca cũng nhc đến tên ca mt s các n môn đ này:  bà Maria Mađalêna, sinh quán ti thành ph Magđala.  Bà ta đã được cha khi by qu ám. Bà Gioanna, v ca Cusa, viên qun lý ca vua Hêrôđê, th hiến Galilê.  Bà Susanna và nhiu bà khác.

c)  Phn ph chú:

i)   Phúc Âm viết bi Luca luôn được xem là Phúc Âm ca ph n.  Tht thế, Luca là mt trong nhng tác gi ghi li các mi quan h ca Chúa Giêsu vi các ph n nht.  Tuy nhiên, chuyn l là Tin Mng liên quan đến các ph n, không ch mt cách đơn gin bi vì có nhiu các điu ghi chép v s hin din ca h chung quanh Chúa Giêsu, mà trong thái đ ca Chúa Giêsu đi vi h.  Chúa Giêsu đng chm đến h, cho phép h đng chm vào Chúa, mà không s b ô uế (Lc 7:39; 8:44-45, 54).  S khác bit gia Chúa Giêsu và các bc thy thi y là Chúa Giêsu chp nhn ph n là các tín đ và môn đ (Lc 8:2-3; 10:39).  S gii phóng ca Thiên Chúa, qua các vic làm ca Chúa Giêsu, nâng cao v trí ph n đm nhn đúng nhân phm ca h (Lc 13:13).  Chúa Giêsu cm thông được s đau kh ca bà góa và chia s ni bun ca bà (Lc 7:13). Công vic ca người ph n là nu nướng, được Chúa Giêsu xem như là mt du hiu ca Nước Tri (Lc 13:20-21).  Người góa ph kiên trì tranh đu cho quyn li ca mình được trình bày như là mt mô thc cu nguyn (Lc 18:1-8), và bà góa nghèo đã chia s nhng đng xu ít i ca mình vi nhng người khác được xem như là mt kiu mu cho quà tng và s cng hiến (Lc 21:1-4).  Vào thi đim khi mà nhân chng là các ph n chưa được xem là có giá tr, thì Chúa Giêsu li chn các bà là nhng người làm chng cho cuc t nn ca Chúa trên thp giá (Lc 23:49), vic mai táng (Lc 23:55-56) và s phc sinh ca Người (Lc 24:1-11, 22-24).

ii)  Phúc Âm ghi li nhng danh sách khác nhau tên ca mười hai môn đ đã đi theo Chúa Giêsu Tên ca nhng người này không luôn ging nhau, nhưng luôn có mười hai tên, tượng trưng cho mười hai chi tc dân riêng mi ca Thiên Chúa.  Cũng có nhng người ph n đã đi theo Chúa Giêsu, t đt Galilê đến Giêrusalem. Phúc Âm ca thánh Máccô xác đnh thái đ ca các bà trong ba đng t:  theo sau, phc v, tiến v Giêrusalem (Mc 15:41).  Các Thánh S đã không ghi ra hn mt danh sách các người n môn đ đi theo Chúa Giêsu, nhưng tên ca h được biết cho đến ngày hôm nay qua các trang Tin Mng, đc bit là ca thánh Luca, và h là:  Maria Mađalêna (Lc 8:3; 24:10); Gioanna v ca Cusa (Lc 8:3); Suzanna (Lc 8:3); Salômê (Mc 15:45); Maria m ca Giacôbê (Lc 24:10); Maria, v ca Kêpha (Ga 19:25); Đc Maria, M ca Chúa Giêsu (Ga 19:25).

6.  Li nguyn:  Bài thánh ca Tình Yêu (1Cr 13:1-13)

Đc Mến thì cao trng hơn hết!

1 Gi như tôi có nói được các th tiếng ca loài người và ca các thiên thn đi na -- mà không có đc mến, thì tôi cũng chng khác gì thanh la phèng phèng, chũm cho xoang xong. 
2 Gi như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mi điu bí nhim, mi l cao siêu, hay có được tt c đc tin đến chuyn núi di non -- mà không có đc mến, thì tôi cũng chng là gì. 
3 Gi như tôi có đem hết gia tài cơ nghip mà b thí, hay np c thân xác tôi đ chu thiêu đt -- mà không có đc mến, thì cũng chng ích gì cho tôi. 
4 Đc mến thì nhn nhc, hin hu, không ghen tương, không vênh vang, không t đc,  5 không làm điu bt chính, không tìm tư li, không nóng gin, không nuôi hn thù,  6 không mng khi thy s gian ác, nhưng vui khi thy điu chân tht.  7 Đc mến tha th tt c, tin tưởng tt c, hy vng tt c, chu đng tt c . 8 Đc mến không bao gi mt được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng ch nht thi. Nói các tiếng l chăng? Có ngày s hết. Ơn hiu biết ư? Ri cũng chng còn.  9 Vì chưng s hiu biết thì có ngn, ơn nói tiên tri cũng có hn.  10 Khi cái hoàn ho ti, thì cái có ngn có hn s biến đi. 
11 Cũng như khi tôi còn là tr con, tôi nói năng như tr con, hiu biết như tr con, suy nghĩ như tr con; nhưng khi tôi đã thành người ln, thì tôi b tt c nhng gì là tr con.  12 Bây gi chúng ta thy l m như trong mt tm gương, mai sau s được mt giáp mt. Bây gi tôi biết ch có ngn có hn, mai sau tôi s được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi. 
13 Hin nay đc tin, đc cy, đc mến, c ba đu tn ti, nhưng cao trng hơn c là đc mến. 

7. Li Nguyn Kết

Ly Chúa Giêsu, chúng con xin cm t Chúa v Li Chúa đã giúp chúng con hiu rõ hơn ý mun ca Chúa Cha. Nguyn xin Thn Khí Chúa soi sáng các vic làm ca chúng con và ban cho chúng con sc mnh đ thc thi Li Chúa đã mc khi cho chúng con.  Nguyn xin cho chúng con, được tr nên ging như Đc Maria, thân mu Chúa, không nhng ch lng nghe mà còn thc hành Li Chúa.  Chúa là Đng hng sng hng tr cùng vi Đc Chúa Cha trong s hip nht vi Chúa Thánh Thn đến muôn thu muôn đi.  Amen.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét