Trang

Thứ Hai, 10 tháng 6, 2013

11-06-2013 : THỨ BA TUẦN X MÙA THƯỜNG NIÊN

Thứ Ba Ngày 11/06/2013
Tuần X Thường Niên – Năm C
THÁNH BARNABA, TÔNG ĐỒ


BÀI ĐỌC I:  Cv 11, 21b-26; 13, 1-3
"Họ cũng rao giảng Chúa Giêsu cho người Hy-lạp".

 Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, có đông người tin trở về với Chúa. Tin đó thấu tai Hội Thánh Giêrusalem, nên người ta sai Barnaba đến Antiôkia. Khi đến nơi và thấy việc ơn Chúa thực hiện, ông vui mừng và khuyên bảo mọi người hãy vững lòng tin nơi Chúa; Barnaba vốn là người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng tin. Và có đoàn người đông đảo tin theo Chúa. Vậy Barnaba đi Tarxê tìm Saolô. Gặp được rồi, liền đưa Saolô về Antiôkia. Cả hai ở lại tại Hội Thánh đó trọn một năm, giảng dạy cho quần chúng đông đảo; chính tại Antiôkia mà các môn đệ lần đầu tiên nhận tên là "Kitô hữu".
Bấy giờ trong hội thánh Antiôkia có những tiên tri và tiến sĩ, trong số đó có Barnaba, Simon cũng gọi là Nigê, Luxiô người thành Xyrênê, Manahê bạn của vua Hêrôđê lúc còn thư ấu, và Saolô.
Đang khi các ông làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo các ông rằng: "Hãy để riêng Saolô và Barnaba cho Ta, để làm công việc mà Ta đã chỉ định". Vậy sau khi ăn chay cầu nguyện, họ đặt tay trên hai ông và tiễn đưa hai ông lên đường. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 97, 1. 2-3a. 3cd-4. 5-6
Đáp: Chúa đã công bố ơn cứu độ trước mặt chư dân (c. 2a).

1) Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện những việc lạ lùng. Tay mặt Người đã đem lại toàn thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người.  - Đáp.
2) Chúa đã công bố ơn cứu độ, đã tỏ sự công chính Người trước mặt chư dân. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành đối nhà Israel- Đáp.
3) Mọi dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng tôi. Toàn thể địa cầu hãy hân hoan mừng Chúa, hãy vui mừng hoan lạc và đàn ca.  - Đáp.
4) Hãy ca mừng Chúa với đàn cầm thụ, với đàn cầm thụ, với nhạc cụ râm ran: Hãy thổi sáo và rúc tù và, hân hoan trước thánh nhan Chúa là Vua.  - Đáp.

ALLELUIA:

Alleluia, alleluia! - Chúng con ca ngợi Thiên Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa; lạy Chúa, ca đoàn vinh quang của các Tông đồ ca ngợi Chúa. - Alleluia.

PHÚC ÂM: Mt 5, 33-37
"Thầy bảo các con: đừng thề chi cả".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con lại còn nghe dạy người xưa rằng: 'Đừng bội thề, nhưng hãy giữ lời ngươi đã thề với Chúa'. Phần Thầy, Thầy bảo các con: Đừng thề chi cả, đừng lấy trời mà thề, vì là ngai của Thiên Chúa; đừng lấy đất mà thề, vì là bệ đặt chân của Người; đừng lấy Giêrusalem mà thề, vì là thành của Vua cao cả; cũng đừng chỉ đầu mà thề, vì con không thể làm cho một sợi tóc ra trắng hoặc ra đen được. Nhưng lời các con phải: có thì nói có, không thì nói không; nói thêm thắt là do sự dữ mà ra". Đó là lời Chúa.


SUY NIỆM : Người con có biệt tài khuyên nhủ hay an ủi

Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Barnaba tông đồ. Là một người Do Thái sinh trưởng tại đảo Sýp vào khởi đầu của đạo Kitô, Barnaba có tên là Giuse, thuộc dòng tộc Lêvi. Có lẽ thánh nhân từng sống tại Giêrusalem trước khi Chúa Giêsu chịu tử nạn. Vì nhiệt tình và sự thành công trong công tác rao giảng, cho nên thánh nhân được các thánh tông đồ tặng cho biệt hiệu là Barnaba, nghĩa là "người con có biệt tài khuyên nhủ hay an ủi". Sau khi trở lại, thánh Phaolô đến Giêrusalem, nhưng cộng đoàn tín hữu tại đây vẫn còn ngờ vực thiện chí của ngài.
Chính thánh Barnaba là người đứng ra bảo đảm và giới thiệu thánh Phaolô với các tông đồ, nhưng sau đó thánh Phaolô lui về ẩn dật trong nhà ngài tại Tácxô trong nhiều năm và Barnaba vẫn ở lại Giêrusalem. Sau này các thánh tông đồ sai Barnaba đến Antiokia để điều tra về sự thành công của thánh Phaolô trong công tác rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, Barnaba đã nhận ra ngay ơn Chúa trong công việc của thánh Phaolô. Ðây là lý do để nối kết hai người lại với nhau trong cánh đồng truyền giáo của dân ngoại. Cả hai sát cánh bên nhau tại Antiokia trong vòng một năm. Một trận đói lớn đã tàn phá Giêrusalem, Barnaba và Phaolô đã quyên góp để mang về Giêrusalem cứu trợ. Sau công tác này, cả hai trở về Antiokia và mang theo một người bà con họ hàng với Barnaba là Marcô, vị thánh sử tương lai.
Từ Antiokia, cùng với Marcô, Barnaba và Phaolô lên đường đi đến đảo Sýp, quê hương của Barnaba và từ đó sang Tiểu Á. Tại một trạm đầu tiên ở Tiểu Á, Marcô đã chia tay với Barnaba và Phaolô. Barnaba và Phaolô bắt đầu những trạm truyền giáo cam go nhất. Mỗi một bước đi là mỗi một lần bị chống đối và bách hại từ phía những người Do Thái. Những người này cũng xúi giục dân ngoại chống lại các vị tông đồ.
Tại Líttra, sau khi thánh Phaolô chữa lành một người tàn tật, dân thành xem các ngài như những vị thần. Họ định giết bò để tế cho các ngài nhưng liền sau đó bị người Do Thái xúi giục họ lại quay ra tấn công hai ngài. Riêng thánh Phaolô bị gây thương tích. Dù bị chống đối và bách hại, hai vị tông đồ vẫn hoán cải được nhiều người cũng như tổ chức được giáo đoàn. Bị người Do Thái và dân ngoại chống đối và bách hại, Barnaba và Phaolô còn gặp khó khăn ngay cả từ phía cộng đoàn Giêrusalem. Vấn đề xoay quanh việc có nên cắt bì cho dân ngoại không. Hai vị thánh này đã tranh đấu và cuối cùng đã tìm được giải pháp trong cộng đoàn Giêrusalem.
Về sau, trong chuyến đi trở lại để viếng thăm các cộng đoàn, Barnaba và Phaolô đã chia tay nhau mỗi người một ngả. Barnaba đi với Marcô đến Sýp; Thánh Phaolô cùng với một người môn đệ tên là Xila trở lại Tiểu Á. Những năm tháng còn lại của Barnaba không còn được nhắc đến nữa. Nhưng cũng như thánh Phaolô, thánh Barnaba vừa rao giảng Tin Mừng vừa tự lực cánh sinh. Khi thánh Phaolô bị giam tại Rôma, Marcô đã trở thành môn đệ của ngài. Ðiều này cho thấy rằng Barnaba không còn nữa.
Theo truyền thuyết, thánh Barnaba là vị giám mục đầu tiên của thành Milanô. Dù thế nào đi nữa, tất cả mọi truyền thuyết đều gặp nhau trong cùng một điểm là xem Barnaba như con người được mến chuộng nhất trong thế hệ Kitô đầu tiên. Trong sách Tông Ðồ Công Vụ, thánh sử Luca gọi ngài là một con người tốt, đầy tràn Chúa Thánh Thần. Thái độ của ngài đối với thánh Marcô chứng tỏ một trái tim nhân hậu và đại lượng.
(Veritas Asia)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Lễ Thánh Barnabas, Tông Đồ.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Cộng tác với nhau trong việc loan báo Tin Mừng.

Có rất nhiều lý do làm cản trở việc rao giảng Tin Mừng: quyền lợi, danh vọng, tiền của, chức vụ, tình cảm, ngại ngùng, lo sợ, phe đảng ... Những lý do này bóp nghẹt Tin Mừng làm cho Nước Chúa không trị đến, gây cản trở cho Giáo Hội trong việc sắp xếp nhân sự, làm gương xấu cho các tín hữu, và đánh đổ lý tưởng cao đẹp của người môn đệ Đức Kitô.

Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những hiểu biết cần thiết để tránh mọi lý do làm cản trở sứ vụ loan báo Tin Mừng. Trong Bài Đọc I, Sách CVTĐ tường trình sự hình thành của giáo đoàn Antiochia là do: ơn thánh của Thiên Chúa, tổ chức của Hội Thánh, và sự cộng tác của nhiều người. Đang khi thi hành sứ vụ cách thành công, Hội Thánh được sự hướng dẫn của Thánh Thần, lại cắt cử hai ông Barnabas và Phaolô cho sứ vụ mới, sứ vụ loan báo Tin Mừng cho Dân Ngoại. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu sai các Tông đồ ra đi rao giảng và căn dặn các ông một số điều vô cùng cần thiết khi đi đường: Phải tin tưởng vào quyền năng và sự quan phòng của Thiên Chúa; không được dùng Tin Mừng để mưu cầu lợi lộc vật chất: "Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy;" và người môn đệ phải biết sống một cuộc đời đơn giản.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Hãy dành riêng Barnabas và Saolô cho Ta.

1.1/ Sự hình thành của giáo-đoàn Antiochia: Sau biến cố tử đạo của Phó-tế Stephen, Hội Thánh tại Jerusalem bị bắt bớ dữ dội, các môn đệ của Chúa phải tản mác đi khắp nơi, tới đâu các ông loan báo Tin Mừng tại đó: Phêrô xuống Joppa, phó-tế Philip xuống Gaza, một số môn đệ gốc Cyprius và Cyrene tới Antiochia và giảng đạo cho người Hy-lạp cư ngụ tại đó.

(1) Giáo-đoàn Antiochia được thành lập là do công của nhiều người:

- Trước tiên là sự quan phòng của Thiên Chúa: Vì biến cố bắt đạo làm các môn đệ phải tản mác đi, và một số các môn đệ gốc Cyprius và Cyrene đã đến loan báo Tin Mừng tại Antiochia.

- Thứ đến, là ơn thánh của Chúa hoạt động trong tâm hồn con người: Trình thuật hôm nay nêu rõ lý do tại sao có các tín hữu đầu tiên tại Antiochia: ''Vì có bàn tay Chúa ở với họ, nên một số đông đã tin và trở lại cùng Chúa.'' Các môn đệ chỉ là khí cụ Thiên Chúa dùng để rao giảng, việc soi sáng và hoán cải tâm hồn để người ta trở lại là công việc của Thiên Chúa làm từ trong tâm hồn.

- Kế tiếp, là việc tổ chức của Hội Thánh: Khi tin ấy đến tai Hội Thánh tại Jerusalem, nên người ta cử ông Barnabas đi Antiochia.

- Rồi đến, việc làm của Barnabas: ''Khi tới nơi và thấy ơn Thiên Chúa như vậy, ông Barnabas mừng rỡ và khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa, vì ông là người tốt, đầy ơn Thánh Thần và lòng tin. Và đã có thêm một đám rất đông theo Chúa.''

- Sau cùng, việc làm của Phaolô: Ông Barnabas trẩy đi Tarsus tìm ông Saolô. Tìm được rồi, ông đưa ông Saolô đến Antiochia. Hai ông cùng làm việc trong Hội Thánh ấy suốt một năm và giảng dạy cho rất nhiều người. Chính tại Antiochia mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô hữu.

(2) Tranh chấp con người: Nhìn lại lịch sử thành lập của giáo-đòan Antiochia sẽ giúp chúng ta tránh được sự tranh chấp giữa các môn đệ và giữa các giáo dân. Nhiều cha xứ lầm tưởng mình là lý do tại sao giáo dân đạo đức sốt sắng, nên dễ sinh ra kiêu ngạo và khinh thường các vị tiền nhiệm. Nhiều giáo dân nghĩ sở dĩ giáo xứ tiến bộ là do công của cha này, cha kia, nên chia rẽ và lập phe đảng. Trường hợp này đã xảy ra nhiều nơi, ngay từ thời sơ khai trong giáo-đoàn Corintô. Phaolô đã làm sáng tỏ vấn đề như sau: ''Khi người này nói: "Tôi, tôi thuộc về ông Phaolô;" và người khác: "Tôi, tôi thuộc về ông Apollo," anh em chẳng là người phàm tục sao?

Vậy Apollo là gì? Phaolô là gì? Đó là những tôi tớ đã giúp cho anh em có đức tin, mỗi người đã làm theo khả năng Chúa ban." Phaolô nói một câu làm chúng ta phải suy nghĩ: ''Tôi trồng, anh Apollo tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên'' (I Cor 3:4-6).

1.2/ Sứ vụ đặc biệt của Phaolô và Barnabas: Ngoài ra, giáo-đoàn Antiochia còn được sự giúp đỡ của nhiều người, như trình thuật hôm nay đề cập: ''Trong Hội Thánh tại Antiochia, có những ngôn sứ và thầy dạy, đó là các ông Barnabas, Simeon biệt hiệu là Đen, Lucius người Cyrene, Manaen, bạn thời thơ ấu của tiểu vương Herode, và Saolô.''

Dẫu Barnabas và Phaolô đang phục vụ thành công như vậy tại giáo-đoàn Antiochia; một hôm, đang khi họ làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo: "Hãy dành riêng Barnabas và Saolô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm." Bấy giờ họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi.

Người môn đệ của Đức Kitô phải luôn sẵn sàng để được sai đi tới những biên cương mới để rao giảng Tin Mừng. Phaolô và Barnabas không tiếc công mình đã bỏ ra để xây dựng một "giáo đoàn đang trên đà phát triển;" hai ông sẵn sàng lên đường thi hành sứ vụ của Thánh Thần và Hội Thánh đã tin tưởng trao phó.

2/ Phúc Âm: Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.

2.1/ Chúa Giêsu biết hành trang cần thiết của người môn đệ:

- Thấu hiểu Kinh Thánh để rao giảng Tin Mừng: Khi rao giảng là nói về: ''Nước Trời đã đến gần.''

- Sức mạnh của người môn đệ đến từ Thiên Chúa: ''Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ.''

- Không được dùng Tin Mừng để kiếm lợi nhuận vật chất: ''Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.'' Ngài còn nói rõ hơn, ''Đừng kiếm vàng bạc hay tiền giắt lưng.''

- Sống đơn giản và trông cậy nơi sự quan phòng của Thiên Chúa: ''Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn.''


2.2/ Cách cư xử của người môn đệ khi đến nơi rao giảng:

- Tìm người xứng đáng để có chỗ cư ngụ: "Khi anh em vào bất cứ thành nào hay làng nào, thì hãy dò hỏi xem ở đó ai là người xứng đáng, và hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi.'' Chúa không muốn người rao giảng đi từ nhà này qua nhà khác. Lý do có lẽ sợ gây chia rẽ trong cộng đoàn.

- Người rao giảng Tin Mừng mang bình an của Thiên Chúa đến cho người tiếp nhận: ''Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy. Nếu nhà ấy xứng đáng, bình an của anh em sẽ đến với họ; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì bình an của anh em sẽ trở về với anh em.''

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta phải gạt bỏ mọi lý do ngăn cản việc rao truyền Tin Mừng, để có thể cộng tác với mọi thành phần Dân Chúa trong sứ vụ làm cho Nước Chúa mau trị đến.

- Phaolô trồng, Apollo tưới, Thiên Chúa làm cho lớn mạnh lên. Chúng ta đừng đánh cắp ơn thánh của Thiên Chúa và các cố gắng của tha nhân.

- Một cuộc sống đơn giản và tin cậy nơi sự quan phòng của Thiên Chúa sẽ giúp người môn đệ dễ dàng chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng, và sống xứng đáng người môn đệ Đức Kitô.


Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 10 -
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)

Thứ Ba :

Mt 5,13-16

A. Hạt giống...
Sau khi Chúa Giêsu cho biết phải có 8 đức tính để có thể vào làm công dân Nước Trời, Ngài khuyến khích các môn đệ cố gắng sống 8 đức tính ấy : người nào sống 8 đức tính ấy thì cuộc sống của người đó sẽ có ảnh hưởng tốt như muối và ánh sáng vậy. Hai hình ảnh xem ra khác nhau nhưng đều giống ở sức tác động tốt :
- Muối thì thấp hèn, âm thầm và khiêm tốn. Nhưng muối giữ cho môi trường chung quanh nó khỏi hư, lại mặn mà.
- Ánh sáng thì rực rỡ, huy hoàng. Ánh sáng soi cho người ta thấy rõ đường đi, nhận rõ các đồ vật.
- Cả hai đều phải chịu hao mòn hy sinh thì mới gây tác động : muối tan dần đi, ngọn đèn ngàng càng lụn xuống.
- Lý do tồn tại của cả hai là để gây tác động tốt : nếu muối không mặn và đèn không sáng thì không có ích gì nữa và phải bị vất đi.

B.... nẩy mầm.
1. Thân phận và hoàn cảnh của mỗi kitô hữu khác nhau : có người âm thầm hèn mọn như muối, có người rực rỡ huy hoàng như ánh sáng. Nhưng mọi người đều có sứ mạng tác động tốt lên môi trường mình sống. Không tác động tốt thì không còn là kitô hữu nữa.
Là muối đất, là ánh sáng thế gian, hơn ai hết, kitô hữu chúng ta  cần phải thắp sáng lên niềm hy vọng bằng cuộc sống tỏa lan tình người. Dù chỉ là một ngọn đèn mù mờ giữa biển khơi, chứng từ của người kitô hữu vẫn luôn cần thiết cho cuộc sống.
2. Muốn tác động tốt thì phải chấp nhận hy sinh, hao mòn.
3. Muối làm cho thức ăn thêm ngon. Là muối của cuộc đời, kitô hữu phải sống sao cho người ta thấy được "khẩu vị" của cuộc sống, thấy sống mà vui, sống là đáng.
Ánh sáng làm cho khung cảnh thêm huy hoàng rực rỡ. Là ánh sáng thế gian, kitô hữu sống ở đâu thì nơi đó phải thêm hạnh phúc, tươi vui, lạc quan hơn.
4. Có những lời nói và việc làm rất là vô tình nhưng gây một ảnh hưởng rất lớn. Đức Cha Fulton Sheen kể lại 2 câu chuyện như sau :
Tại Nam Tư, trong một lần giúp lễ, một cậu bé đã vô tình đánh rơi lọ nước. Vị Linh mục tức giận tát cậu bé và thét lên : "Cút đi, đừng bao giờ trở lại đây nữa". Cậu bé đó đã không bao giờ trở lại nhà thờ nữa, bởi vì sau này cậu đã trở thành nhà lãnh đạo Nước Nam Tư xã hội chủ nghĩa. Cậu bé ấy tên là Titô.
Tôi còn nhớ tôi cũng là một cậu bé giúp lễ tại nhà thờ chính tòa, lúc đó tôi lên 7 tuổi. Trong một phiên giúp lễ, tôi cũng đánh rơi lọ rượu. Tôi sợ tưởng chết được, vì mấy cậu bé giúp lễ chúng tôi cứ nghĩ Đức Cha là người rất nghiêm khắc. Thế nhưng sau Thánh lễ, Ngài gọi tôi lại và hỏi : "Lớn lên con sẽ học ở trường nào ? Con có bao giờ nghe nói Louvain không ?" Tôi đáp "Thưa Đức Cha, chưa". Ngài nói : "Vậy thì con về nói với mẹ con rằng khi lớn lên con sẽ vào học tại trường Đại học Louvain". Tôi không ngờ rằng hai năm sau khi chịu chức Linh mục, tôi đã ngồi trên chuyến xe lửa trực chỉ Louvain.
Cũng một biến cố, nhưng tôi đã đi về hướng này, còn Titô thì đi về hướng ngược lại. (Chờ đợi Chúa)
5. "Chính anh em là muối cho đời" (Mt 5,13)
Vừa rồi tôi có dịp ra Huế. Khi xe lên đèo Hải Vân, tôi thấy có mấy người công nhân đang đập đá, mặt nhễ nhại mồ hôi, chiếc áo bạc màu bám chặt lấy thân gầy. Và tôi tự hỏi : "Nếu không có những giọt mồ hôi đó, không có những tấm lưng cong oằn, cháy nắng ấy thì đèo Hải vân liệu có rộng hơn, đẹp hơn và an toàn hơn cho khách đi đường trong đó có tôi không ?
Có biết bao người trong xã hội đã và đang "ướp mặn" cho cuộc sống. Phần tôi, xấu hổ vì cảm thấy mình chưa thực sự là muối, là men cho môi trường mình đang sống.
Lạy Chúa, xin cho con trở thành muối cho đời qua công việc yêu thương và phục vụ hàng ngày. (Hosanna)

11/06/13 THỨ BA TUẦN 10 TN
Th. Banaba tông đồ
Mt 10,7-13

TIN MỪNG TỪ TRÁI TIM ĐẾN TRÁI TIM
“Dọc đường hãy rao giảng rằng : Nước Trời đã đến gần. . .Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy. . .” (Mt 10,7.12)
Suy niệm: Để chuẩn bị cho một “sô” diễn, một ca sĩ chuyên nghiệp không chỉ cậy dựa vào giọng ca thiên phú của mình mà còn phải vận dụng cả một đoàn các chuyên gia về mọi lĩnh vực: âm thanh, ánh sáng, trang phục, đạo cụ với những công nghệ hiện đại, ấy là chưa kể đến những người quản lý, quảng cáo, tiếp thị… Chúa Giêsu không coi việc loan báo Tin Mừng như một “sô” diễn ca nhạc như thế. Cho nên Ngài sai các tông đồ lên đường rao giảng mà căn dặn các ông không cần mang theo “vàng bạc hay tiền giắt lưng” thậm chí không cần cả đến những vật dụng thiết yếu nhất cho cuộc lữ hành đường dài như “bao bị, giày dép, gậy đi đường…” Hành trang không thể thiếu cho người tông đồ là Tin Mừng Nước Thiên Chúa mà họ được lệnh phải đem “biếu không” và sự bình an mà họ cầu chúc cho mọi nhà họ đặt chân đến. Tin Mừng phải chan chứa đầy con tim của người tông đồ và phải chạm được đến con tim của người nghe.
Mời Bạn: Bạn tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Kitô, thế nhưng bạn có thao thức vì biết bao anh chị em chung quanh bạn chưa biết, chưa yêu mến và chưa tin Ngài không?
Chia sẻ: Trao đổi trong nhóm về những phương thế để loan báo Tin Mừng cách cụ thể trong môi trường sống của bạn.
Sống Lời Chúa: Trong Năm Đức Tin này, bạn dâng lời cầu nguyện và hy sinh cầu cho một bạn lương dân và bạn sẵn sàng giới thiệu Chúa cho người ấy mỗi khi Chúa thúc đẩy bạn làm điều đó.
Cầu nguyện: Đọc kinh Lạy Cha với ý chỉ như trên.


Nước Trời đã đến gần
Thế giới hôm nay vẫn yếu đau và bị ám như cách đây hai ngàn năm. Thế giới hôm nay vẫn chờ một Tin Vui, một lời chúc Bình an. Chúng ta vẫn được mời gọi để làm điều Ngài và các môn đệ đã làm. 


Suy nim:
Chúng ta không rõ Thầy Giêsu đã sai các môn đệ lên đường
sau thời gian họ sống với Ngài bao lâu.
Nhưng chúng ta biết chắc là Thầy có sai các môn đệ.
Thầy sai họ đi để làm những việc Ngài đã và đang làm (Mt 9, 35),
như rao giảng Tin Mừng về Nước Trời, chữa bệnh, trừ quỷ (c. 8a).
Như thế họ trở nên những cộng sự viên của Ngài trong cùng một sứ vụ.
Thầy Giêsu không độc quyền trong công việc.
Ngài cũng không giữ riêng cho mình quyền trên các thần ô uế (Mt 10,1).
Việc chia sẻ quyền và mời gọi cộng tác đã có từ thời Thầy Giêsu,
và vẫn kéo dài trong Giáo Hội.
Lời dặn dò của Đức Giêsu trước khi sai họ đi đã đánh động nhiều tâm hồn,
đặc biệt những vị sáng lập các dòng tu.
Đặt mình vào bối cảnh vùng Galilê cách đây gần hai mươi thế kỷ,
chúng ta mới hình dung được khuôn mặt của những vị tông đồ đầu tiên.
Trước hết họ được sai đến với chính đồng hương của họ,
“những chiên lạc nhà Israel”, vất vưởng không người chăn dắt (Mt 9, 36).
Loan báo Tin Mừng là lên đường, đường đất đá hay đường núi đồi,
và đi bằng đôi chân của mình, không giày dép.
Những bước chân nhẹ nhàng vì hành trang chẳng có gì.
Thắt lưng chẳng mang tiền vàng, bạc, đồng, để dùng khi hữu sự.
Cả những điều một người lữ hành thường có cũng không:
một bao bị, một cái áo dự phòng, một cái gậy để chống khi đi đường xa.
Người tông đồ được đặt ở trong tình trạng bấp bênh, không chỗ dựa.
Chỗ dựa duy nhất của họ là lòng tốt của Thiên Chúa,
được thể hiện qua lòng tốt của người đón nghe Tin Mừng.
Chuyện ăn, chuyện ở, họ đều phải tin tưởng phó thác (cc. 10b. 11).
Hành trang nhẹ nhàng, tâm hồn nhẹ nhàng,
nên các tông đồ cũng thi hành sứ vụ một cách nhẹ nhàng, thanh thoát.
Họ làm mọi sự mà chẳng đòi hỏi gì (c. 8b).
Vừa rao giảng Tin Mừng rằng Nước Trời đã đến rồi,
vừa minh chứng Tin Mừng ấy bằng bao niềm vui đem đến cho người khác.
Bệnh nhân được khỏi, người chết sống lại, người phong được sạch,
và nhất là ma quỷ không còn chỗ cư ngụ trong lòng con người (c. 8a).
Bình an là lời chúc trên môi dành cho mọi căn nhà họ đến ở (c. 12).
Rõ ràng hành trình truyền giáo là một kinh nghiệm đầy ắp niềm vui hứng khởi,
cho đoàn chiên và cho chính các tông đồ.
Nếu Thầy Giêsu dặn dò các tông đồ hôm nay, Ngài sẽ nói gì?
Ngài sẽ bảo chúng ta đừng mang gì và nên làm gì cho con người hôm nay?
Chắc Ngài cũng sẽ khuyên hãy nhẹ nhàng hơn, phó thác hơn, vô vị lợi hơn.
Thế giới hôm nay vẫn yếu đau và bị ám như cách đây hai ngàn năm.
Thế giới hôm nay vẫn chờ một Tin Vui, một lời chúc Bình an.
Chúng ta vẫn được mời gọi để làm điều Ngài và các môn đệ đã làm.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.

Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.

Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.

Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.

Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.

Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Suy niệm Mt 10,7-13.
Chúa Giêsu sai các tông đồ đi rao giảng và chữa lành cho người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh và khử trừ ma quỷ.
Mệnh lệnh lên đường rao giảng là mệnh lệnh Chúa Giêsu lưu ý hàng đầu và một cách thật khẩn trương. Chúa Giêsu còn đòi buộc các tông đồ phải có thái độ hoàn toàn tin tưởng và phó thác về sự quan phòng của Thiên Chúa. Mặc dù không tiền dắt lưng, không mặc hai áo, và cũng không có vũ khí bảo vệ bản thân; nhưng Chúa sẽ không để các tông đồ phải đói khổ vì thợ đáng được nuôi ăn. Hơn thế nữa, Chúa còn trao cho các môn đệ quyền phép để phục vụ con người.
Những bon chen, danh vọng nơi trần gian nhiều lúc làm cho chúng ta lãng quên bổn phận của mình đối với Chúa và với tha nhân. Nền văn minh vật chất hiện tại làm có thể làm cho chúng ta đánh mất niềm tin và sự phó thác nơi Thiên Chúa. Lời Chúa hôm nay là một lời mời gọi và cũng là lời nhắc nhở cho chúng ta ý thức ơn gọi và sứ mạng của mình đó là người môn đệ của Chúa.
Xin Chúa ban thêm đức tin cho con và cách riêng cho các nhà truyền giáo, nâng đỡ các ngài luôn vững bước trước mọi trở ngại. Xin Chúa ban cho mọi Kitô hữu luôn ý thức rằng việc truyền giáo là bổn phận của mọi người để con luôn sống chứng nhân trong mọi hoàn cảnh, tha thiết cầu nguyện cho công việc truyền giáo đồng thời sẵn sàng góp công góp sức theo khả năng của mình. Amen.

Thánh Barnaba
Dù không phải là một trong số mười hai tông đồ được Đức Chúa Giêsu tuyển chọn, nhưng thánh Barnaba được thánh ký Luca gọi là tông đồ trong sách Tông đồ Công vụ của ngài. Vì như tông đồ Phaolô, Barnaba cũng nhận được từ Thiên Chúa một sứ vụ đặc biệt. Thánh nhân là người gốc Dothái, sinh tại đảo Cyprô. Tên của ngài là Giuse nhưng các tông đồ đổi thành Barnaba. Danh xưng này có nghĩa là “con của sự an ủi.”
Ngay khi trở thành Kitô hữu, thánh Barnaba đã bán tất cả những gì ngài có và đem tiền dâng cho các tông đồ. Thánh nhân là người tốt bụng. Ngài rất nhiệt thành hăng say tin yêu Đức Chúa Giêsu. Barnaba được sai đến thành Antiôkia để rao giảng Tin mừng. Antiôkia là thành phố lớn thứ ba trong đế quốc Rôma thời ấy. Tại đây, những người tin theo Đức Chúa Giêsu lần đầu tiên được gọi là Kitô hữu. Barnaba nhận thấy mình cần sự giúp đỡ nên liền nghĩ tới Phaolô thành Tarsô. Ngài tin rằng Phaolô đã thực sự được ơn trở lại. Chính Barnaba đã đứng ra thuyết phục thánh Phêrô và cộng đoàn Kitô hữu; và đã xin cho Phaolô đến làm việc với mình. Barnaba là người khiêm tốn. Ngài không ngại chia sẻ năng lực và trách nhiệm. Ngài cũng biết Phaolô có một ân sủng rất đặc biệt và ngài muốn thánh nhân có cơ hội để trao ban.
Một thời gian sau, Chúa Thánh Linh đã chọn Phaolô và Barnaba để thực hiện một sứ vụ quan trọng. Sau đó không lâu, hai vị tông đồ đã lên đường thực hiện sứ mệnh anh dũng này. Các ngài đã phải chịu nhiều đau khổ và thường hay gặp nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng giữa những thử thách cam go, việc rao giảng của các ngài đã thuyết phục được nhiều người trở về với Đức Chúa Giêsu và Giáo hội của Người.
Sau đó, thánh Barnaba tiếp tục thực hiện một cuộc truyền giáo khác. Lần này với thánh Marcô, người bà con với ngài. Họ đi về Cyprô, quê hương của Barnaba. Qua việc rao giảng của thánh Barnaba, rất nhiều người đã trở nên Kitô hữu đến nỗi Barnaba được gọi là tông đồ của đảo Cyprô. Theo ý kiến chung, người ta cho rằng vị đại thánh này đã bị ném đá chết vào năm 61.
Thánh Barnaba đã nhận một danh xưng biểu hiệu đúng con người của ngài: một người tốt luôn luôn khuyến khích người khác yêu mến Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu nguyện với vị thánh này và xin ngài làm cho chúng ta cũng được trở nên những “người con của sự an ủi” như thánh nhân.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Sáu

11 THÁNG SÁU

Biết Phân Định Tốt Xấu

Con người được tạo dựng “theo hình ảnh của Thiên Chúa”; mầu nhiệm này còn được trình bày trong các sách khác của Thánh Kinh. Chẳng hạn, ta đọc thấy trong Sách Huấn Ca: “Đức Chúa lấy đất mà tạo ra con người… rồi lại đưa con người trở về đất. Người cho nó quyền thống trị vạn vật trên mặt đất. Người mặc cho nó sức mạnh tương xứng với mình, và theo hình ảnh mình mà làm ra nó. Người phú bẩm cho mọi xác phàm lòng kính sợ Người, để chúng thống trị muôn chim cầm thú. Người ban cho chúng trí khôn, luỡi, mắt, tai, và trái tim để chúng suy nghĩ. Người làm cho chúng đầy kiến thức thông minh, tỏ cho chúng biết điều tốt điều xấu. Người đặt con mắt mình vào tâm hồn chúng, để chúng nhận ra các công trình vĩ đại của Người … Người còn ban kiến thức cho chúng, và cho thừa hưởng luật đem lại sự sống; Người đã lập với chúng một giao ước muôn đời, và tỏ cho thấy những điều Người phán quyết” (Hc 17,1. 2b – 7. 9 – 10).

Cần phải suy niệm thật kỹ bản văn phong phú và sâu sắc trên của Sách Huấn Ca. Hãy ôm ấp những lời ấy trong lòng mình và hãy xích lại gần hơn với Thiên Chúa.

- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình

Thánh Barnaba, tông đồ
Cv 11, 21b-26; Mt 10, 7-13

LỜI SUY NIỆM: “Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người mắc bệnh phong được sạch, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” (Mt 7,8).

Chúa Giêsu sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng, những dấu lạ đều là do bởi Chúa Thánh Thần tác động trên những kẻ nghe lời rao giảng của các Tông đồ. Ngày hôm nay Giáo Hội cũng đang tiếp nối sứ vụ ấy. Mỗi một công tác tông đồ, đều có sự hiện diện của Chúa Giêsu, chúng ta không phải băng khoăn về điều mình truyền đạt có đến với người anh em? và kết quả sẽ ra sao? Điều này chúng ta chỉ biết cầu nguyện, và làm hết của sức mình Còn tất cả đều do Chúa Thánh Thần tác động trên người anh em.


Mạnh Phương

Gương Thánh nhân

Ngày 11-06
Thánh BARNABA TÔNG ĐỒ
(Thế kỷ I)


Thánh Barnaba nắm giữ một chức vụ nổi bật trong những chương đầu của sách công vụ tông đồ, không phải cho mình mà nhằm giới thiệu thánh Phaolô, anh hùng trong cuốn sách. Ngài là một người Do thái được sinh tại Chypre. Và là một phần tử trong Giáo hội sơ khai ở Giêrusalem.

Chính ở địa vị này mà khoảng năm 39 tân tòng Saolê được đón nhận vào cộng đoàn các tông đồ (Cv 9-27). Bốn năm sau, Ngài kêu gọi Saolê tham gia công tác hướng dẫn cộng đoàn Kitô giáo mới được thiết lập ở Antiôkia (Cv 11,19-26). Thành phố này rất quan trọng, chỉ kém Rôma và đã trở nên trung tâm Kitô giáo của lương dân. Một lần nữa, cùng với Saolê, Ngài được trao phó cho nhiệm vụ mang tiền cứu trợ gởi về cho Giáo hội Giêrusalem (Cv 27-30). Nơi đây hai người lại được Gioan Maccô là bà con của Barnaba (Gl 4,10) nhập bọn.

Ba người họp thành đoàn truyền giáo, lên đường khoảng năm 45 (Cv 13 và 14). Từ đây Barnaba dần dần ẩn mặt đi. Dầu Chypre là sinh quán của Ngài, nhưng chính Saolê dưới tên mới là Phaolô dẫn dầu cuộc truyền bá Phúc âm. Phaolô và đoàn tùy tùng lên đường tới lục địa Tiểu Á. Khi cùng Phaolô rao giảng (Cv 14,8-18), Barnaba được coi là thần Jupiter và Phaolô là Hermes.

Đây là chứng cớ hùng hồn về vai trò hỗ tương của hai ông. Ba năm sau Phaolô trở về và được cộng đồng Giêrusalem phê chuẩn về đường lối Ngài theo trong chuyến hành trình (Cv 15,1-35). Nămsau, dự định hành trình truyền giáo thư hai có sự tranh chấp về việc kết nạp Gioan Marcô (Cv 15,35-41). Phaolô chọn các bạn đồng hành khác và Barnaba trở về Chypre. Việc giới thiệu Phaolô đã được hoàn thành và tên Ngài không còn được nhắc đến trong sách Công vụ nữa. Trong việc trao đổi thư từ của Phaolô với Giáo hội Côrintô cho thấy khoảng năm 56 thánh Barnaba vẫn còn sống (1Cr 9,5). Sáu năm sau Phaolô xin Marcô đến gặp mình ở Roma (2Tm4). Sự kiện này cho phép chúng ta nghĩ rằng thánh Barnaba đã qua đời.

Một truyền thống sau này nói tới chuyến hành trình của thánh Barnaba tới Alexandria, Rôma, và Milan. Tại Milan, Ngài là giám mục tiên khởi. Một truyền thống đáng tin hơn cho biết Ngài chết vì ném đá ở Salamis,sinh quán của Ngài. Nay còn nhiều mảnh vụn của cuốn ngụy thư Phúc âm thánh Barnaba và của một tác phẩm thuộc thế kỷ thứ V là công vụ thánh Barnana. Nhưng những tài liệu này không cho biết nhiều hơn những điều đã biết được từ sách Công vụ các tông đồ. Cuốn gọi là thơ thánh Barnaba mà nhiều giáo phụ chép vào thơ mục thánh kinh, nay người ta biết được là tác phẩm của một người Do thái theo Kitô giáo ở Alexandria.

Người ta nói rằng mộ Ngài được tìm thấy năm 448. Trên ngực Ngài còn có một cuốn Phúc âm theo thánh Matthêu mà chính thánh Barnaba đã chép tay.


(daminhvn.net)


11 Tháng Sáu

Kẻ Tháo Ðinh

Một trong những chi tiết trong cuộc tử nạn của Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục gợi hứng cho các họa sĩ: đó là việc hạ xác Ngài xuống khỏi Thập giá. Tin Mừng theo thánh Gioan ghi lại việc ông Nicôđêmô và một người môn đệ kín đáo khác của Chúa Giêsu tên là Giuse Arimahtia đã đến xin phép Philatô được tháo gỡ xác Ngài xuống khỏi Thập giá. Trong hầu hết các bức tranh mô tả biến cố này, người ta đều thấy hình ảnh tiều tụy, không còn hình tượng của Chúa Giêsu mà hai người môn đệ đỡ xuống khỏi thập giá. Một người tháo đinh ra khỏi tay Ngài, còn một người thì tháo đinh ra khỏi chân Ngài.
Một họa sĩ nọ, thay vì vẽ lại chân dung của hai người môn đệ của Chúa Giêsu đã chọn những khuôn mặt của thời đại ông. Và người tháo đinh ra khỏi bàn chân của Chúa Giêsu không ai khác hơn là chính ông. Khi được hỏi lý do tai sao ông lại đồng hóa mình với một trong hai người môn đệ, nhà họa sĩ đã giải thích như sau: "Những người như tôi rất thường đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá. Và những đinh sắt tôi dùng để đóng đinh Chúa chính là tội lỗi của tôi. Ðã đến lúc, tôi cảm thấy cần phải tháo gỡ chiếc đinh của tội lỗi ra khỏi thân xác của Ngài".

Chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: "Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng tôi". Ðiều đó có nghĩa là do tội lỗi của chúng ta, chúng ta góp phần vào việc đóng đinh Ngài vào thập giá.

Thập giá vẫn luôn mãi là một lời tố cáo, một bản án cho tội lỗi. Nhưng đó không chỉ là một biểu tượng, mà là một hiện thực. Nếu Ðức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là Một, nếu Ðức Kitô vẫn tiếp tục sống trong lịch sử con người và nếu tội lỗi là một chối bỏ, thì mỗi lần chúng ta phạm tội, chúng ta cũng chối bỏ chính Ngài, chúng ta đóng đinh Ngài vào thập giá một lần nữa. Nếu Ðức Kitô vẫn tiếp tục sống trong lịch sử con người, nếu Ngài tự đồng hóa với con người, nhất là những kẻ khốn cùng, những kẻ thấp hèn nhất trong xã hội, thì mỗi một lần chúng ta khước từ hay xúc phạm đến người anh em, là mỗi lần chúng ta chối bỏ Ngài và đóng đinh Ngài vào thập giá. Qua mỗi người anh em của chúng ta, Chúa Giêsu vẫn còn tiếp tục bị chối bỏ và chịu đóng đinh.


(Lẽ Sống)

Thứ Ba 11-6

Thánh Barnabas

(thế kỷ thứ nhất)

hánh Barnabas, một trong những nhà truyền giáo tiên khởi của Giáo Hội, đóng vai trò chủ yếu trong việc loan truyền và chuyển dịch Phúc Âm cho dân ngoại. Qua sách Công Vụ Tông Ðồ, chúng ta được biết ngài là người Do Thái ở Cypriot tên thật là Giuse, và các tông đồ đã đặt tên cho ngài là Barnabas sau khi ngài bán của cải và giao cho các tông đồ cai quản.
Mặc dù Barnabas không phải là một người trong nhóm Mười Hai nguyên thủy, Thánh Luca coi ngài như vị tông đồ vì ngài được lãnh nhận nhiệm vụ đặc biệt từ Chúa Thánh Thần. Một trong những đóng góp quan trọng của Barnabas là ngài đã đảm bảo cho Saolô, một người mới tòng giáo mà ai ai cũng sợ hãi vì quá khứ bắt đạo của Saolô. Sau đó, Barnabas được sai đi rao giảng ở Antiôkia. Khi công việc ngày càng có kết quả, Barnabas đã xin Phaolô (tên cũ là Saolô) đến tiếp tay; cả hai đã xây dựng một giáo hội thật phát triển. Theo sách Công Vụ Tông Ðồ, chính ở Antiôkia mà "lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô Hữu."
Chính trong cộng đoàn siêng năng cầu nguyện này mà "Thánh Thần phán bảo, 'Hãy dành riêng cho Ta Barnabas và Phaolô để lo cho công việc mà Ta đã kêu gọi hai người ấy." Sau đó họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi." Do đó, Barnabas và Phaolô khởi hành chuyến đi truyền giáo đầu tiên thực sự ở nước ngoài, trước hết đến Cyprus (là nơi họ hoán cải một quan đầu tỉnh người Rôma) và sau đó đến lục địa Tiểu Á. Lúc đầu các ngài rao giảng cho người Do Thái, nhưng bị chống đối dữ dội nên họ quay sang rao giảng cho dân ngoại và đã thành công lớn. Trong một thành phố, người Hy Lạp quá mến mộ các ngài đến nỗi họ tôn thờ Barnabas và Phaolô như các thần Zeus và Hermes. Vất vả lắm thì các ngài mới ngăn cản được đám đông hiếu khách ấy đừng dâng của lễ mà tế các ngài.
Công cuộc truyền giáo cho dân ngoại nẩy sinh vấn đề là người tòng giáo có phải cắt bì theo luật Do Thái hay không. Phaolô và Barnabas đã chống đối tập tục này và lập trường của các ngài đã làm chủ tình hình trong Công Ðồng Giêrusalem.
Barnabas và Phaolô dự định tiếp tục công cuộc truyền giáo, nhưng ngay tối trước khi khởi hành, một bất đồng xảy ra là có nên đem theo một môn đệ nữa hay không, là ông Gioan Máccô. Vì vấn đề này mà hai tông đồ tách làm đôi. Phaolô đem Silas đi Syria, còn Barnabas đem Máccô đến Cyprus. Sau này, ba người: Phaolô, Barnabas và Máccô đã làm hòa với nhau.
Mặc dù không có những dữ kiện rõ ràng, dường như Barnabas, với sự tháp tùng của Gioan Máccô, đã trở về Cyprus. Ở đây, theo truyền thuyết, ngài đã chịu tử đạo vào năm 61.

Lời Bàn

Thánh Barnabas được đề cập như một người tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Ngài là người "đầy tràn Thánh Thần và đức tin. Do đó đã lôi cuốn một số đông người về với Chúa." Ngay cả khi ngài và Thánh Phaolô bị trục xuất khỏi Antiôkia, họ "tràn ngập niềm vui và Thánh Thần."



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét