Trang

Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

27-06-2013 : THỨ NĂM TUẦN XII MÙA THƯỜNG NIÊN

Thứ Năm Ngày 27/06/2013
Thứ Năm Tuần XII Thường Niên – Năm C
St 16,12


BÀI ĐỌC I: St 16, 1-12. 15-16
"Agar đã sinh cho Abraham một con trai và ông gọi nó là Ismael".

 Trích sách Sáng Thế.
Bà Sarai vợ ông Abram không sinh con, nhưng bà có một nữ tỳ người Ai-cập, tên là Agar, bà đã nói cùng ông rằng: "Này, Chúa không cho tôi sinh con, ông hãy ăn ở với nữ tỳ của tôi, may ra nhờ nó, tôi có con cháu". Và Abram nghe theo lời bà Sarai. Đã mười năm trời, từ ngày ông bà đến ở đất Canaan, bà Sarai chọn Agar, người Ai-cập làm nữ tỳ, rồi trao cho chồng làm nàng hầu: ông đã ăn ở với nàng. Nhưng khi nàng thấy mình thụ thai thì khinh dể bà chủ. Sarai nói cùng Abram rằng: "Ông đối xử bất công với tôi. Tôi đã trao đứa nữ tỳ tôi vào tay ông, từ khi nó thấy mình thụ thai, liền khinh dể tôi. Xin Chúa xét xử giữa tôi và ông". Abram trả lời rằng: "Này, nữ tỳ của bà vẫn ở dưới quyền bà, bà muốn xử với nó thế nào mặc ý". Sarai hành hạ Agar cho đến nỗi nàng trốn đi.
Thiên thần Chúa gặp nàng trong rừng vắng gần suối nước, dọc đường đi về đất Sur trong hoang địa. Thiên thần hỏi nàng rằng: "Agar, nữ tỳ của Sarai, ngươi từ đâu đến và toan đi đâu?" Nàng đáp: "Tôi trốn Sarai, bà chủ tôi". Thiên thần Chúa bảo nàng rằng: "Hãy trở về với bà chủ ngươi, và tùng phục bà". Thiên thần Chúa nói tiếp: "Ta sẽ tăng số con cháu ngươi nhiều không thể đếm được". Và nói thêm rằng: "Này ngươi đã thụ thai và sẽ sinh một con trai, ngươi sẽ đặt tên cho nó là Ismael, vì Chúa đã nghe biết sự khốn khó của ngươi. Trẻ này sẽ là đứa hung dữ: nó đưa tay chống đối mọi người và mọi người sẽ chống lại nó. Nó sẽ cắm lều đối diện với các anh em". Agar đã sinh con trai, Abram đặt tên nó là Ismael. Abram được tám mươi sáu tuổi khi Agar sinh Ismael.  Đó là lời Chúa.

Hoặc bài ngắn này: St 16, 6-12. 15-16

Abram trả lời Sarai rằng: "Này, nữ tỳ của bà vẫn ở dưới quyền bà, bà muốn xử với nó thế nào mặc ý". Sarai hành hạ Agar cho đến nỗi nàng trốn đi. Thiên thần Chúa gặp nàng trong rừng vắng gần suối nước, dọc đường đi về đất Sur trong hoang địa. Thiên thần hỏi nàng rằng: "Agar, nữ tỳ của Sarai, ngươi từ đâu đến và toan đi đâu?" Nàng đáp: "Tôi trốn Sarai, bà chủ tôi". Thiên thần Chúa bảo nàng rằng: "Hãy trở về với bà chủ ngươi, và tùng phục bà". Thiên thần Chúa nói tiếp: "Ta sẽ tăng số con cháu ngươi nhiều không thể đếm được". Và nói thêm rằng: "Này ngươi đã thụ thai và sẽ sinh một con trai, ngươi sẽ đặt tên cho nó là Ismael, vì Chúa đã nghe biết sự khốn khó của ngươi. Trẻ này sẽ là đứa hung dữ: nó đưa tay chống đối mọi người và mọi người sẽ chống lại nó. Nó sẽ cắm lều đối diện với các anh em". Agar đã sinh con trai, Abram đặt tên nó là Ismael. Abram được tám mươi sáu tuổi khi Agar sinh Ismael. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 105, 1-2. 3-4a. 4b-5
Đáp: Hãy ca tụng Chúa, vì Người nhân hậu (c. 1a).
Hoặc đọc:  Alleluia.

1) Hãy ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu, vì đức từ bi Người tồn tại muôn đời. Ai nói hết được những hành động quyền năng của Chúa, ai kể cho xiết mọi lời ngợi khen Người?  - Đáp.
2) Phúc cho những ai tuân giữ những lời huấn lệnh, và luôn luôn thực thi điều công chính. Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài. - Đáp.
3) Xin mang ơn cứu độ đến thăm viếng chúng con, để chúng con hân hoan vì hạnh phúc những người Chúa chọn, được chung vui bởi niềm vui của dân Ngài, và được hãnh diện cùng phần gia nghiệp của Ngài. - Đáp.

ALLELUIA: Ga 1, 14 và 12b

Alleluia, alleluia! - Ngôi lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.

PHÚC ÂM: Mt 7, 21-29
"Nhà xây trên nền đá và nhà xây trên cát".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không phải tất cả những ai nói với Thầy: 'Lạy Chúa, Lạy Chúa', là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời. Trong ngày đó, nhiều người sẽ nói với Thầy rằng: 'Lạy Chúa, Lạy Chúa, nào chúng con đã không nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, và nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó ư?' Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với chúng rằng: 'Ta chẳng hề biết các ngươi, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta'.
"Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá. Và hễ ai nghe những lời Thầy nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn".
Khi Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì Người dạy dỗ họ như Đấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của họ. Đó là lời Chúa.



SUY NIỆM : Thực thi ý Chúa
Mẹ Têrêsa Calcutta đã có lần phát biểu: Tôi muốn các nữ tu của tôi luôn có nụ cười rạng rỡ trên gương mặt của họ. Tôi đã cho về nhà nhiều thiếu nữ dự tu, vì họ chưa vui vẻ đủ, họ không có khả năng để cười. Khi tôi thấy các nữ tu đi làm việc mà mặt mày ủ rũ, nụ cười chưa nở trên môi, tôi liền nói với họ: "Các chị hãy về nhà ngủ một giấc, rồi sau đó mới đi làm việc, các chị quá mệt mỏi rồi".
Mẹ Têrêsa quả đã sống cho đến cùng những đòi hỏi của Tin Mừng. Mẹ đã nhiều lần quả quyết rằng công việc mà Mẹ và các nữ tu của Mẹ đang thực hiện không phải là công tác xã hội, mà thiết yếu là hành động bác ái. Hành động bác ái hay sống bác ái là sống và rao giảng Tin Mừng, mà nói đến Tin Mừng là nói đến vui tươi, hân hoan. Do đó, thật mâu thuẫn khi Tin Mừng được sống với bộ mặt ủ rũ, khi Tin Mừng được loan báo với cung giọng buồn thảm.
Tin Mừng phải được thể hiện trước tiên qua cuộc sống của người rao giảng Tin Mừng, đó là đòi hỏi cơ bản nhất mà Chúa Giêsu không ngừng nhắc nhở cho các môn đệ. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nêu bật những đòi hỏi ấy qua dụ ngôn hai ngôi nhà: ngôi nhà xây trên đá thì vững chắc, dù mưa sa bão táp cũng không thể làm lay chuyển, đó là hình ảnh người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu, họ không chỉ lắng nghe lời Ngài, mà còn đem áp dụng vào cuộc sống. Ngôi nhà xây trên cát, đó là hình ảnh của những người nghe lời Chúa, nhưng không đem ra thực hành.
Tin Mừng vốn không chỉ được lắng nghe cho vui tai, mà là để được thực thi; chân lý không chỉ được hiểu biết suông, mà để được thực thi; bác ái không chỉ trên môi miệng, nhưng phải được thực thi bằng những việc làm cụ thể. Tựu trung đây cũng là sự nối dài và đòi hỏi của mầu nhiệm Nhập Thể trong đời sống đức tin. Thiên Chúa Nhập Thể làm người không chỉ là một chân lý trừu tượng, Ngài đã trở thành con người bằng xương bằng thịt; Ngài không phải là khách bàng quan đứng ngắm nhìn lịch sử nhân loại, Ngài đã nhập cuộc làm một với nhân loại, Ngài không rao giảng Thập giá như một lý thuyết suông. Ngài đã thực sự vác lấy Thập giá và đón nhận mọi khổ đau của con người. Do đó, tuyên xưng Thiên Chúa Nhập Thể làm người không phải chỉ là tuyên xưng một chân lý, mà thiết yếu là đi vào con đường Nhập Thể của Ngài.
Không thể có Kitô giáo và niềm tin Kitô mà không có dấn thân; không thể là môn đệ Chúa Kitô mà không đi lại con đường của Ngài; không thể rao giảng Tin Mừng bằng những lời nói suông; không thể sống niềm tin Kitô mà không mỗi ngày cố gắng nên hoàn thiện như Cha trên trời. Chúng ta vốn thán phục những người làm nhiều, hơn là những kẻ nói nhiều. Nói mà không làm là kẻ dối trá, nói một đàng nhưng làm một nẻo là kẻ lừa gạt. Tất cả rồi cũng qua đi, chân lý chỉ thực sự chiếu tỏ bằng cuộc sống trung thực mà thôi.
Nguyện xin Chúa gia tăng ý thức ấy nơi chúng ta. Xin cho niềm tin chúng ta tuyên xưng trên môi miệng được diễn đạt một cách sống động qua cuộc sống mỗi ngày. Xin cho đức ái luôn chiếu tỏa bằng những hành động cụ thể, để mọi người nhận biết chúng ta là môn đệ đích thực của Chúa.
(Veritas Asia)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 12 TN1, Năm lẻ

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Phải thực hành Lời Chúa.

Con người hay bội hứa, quên thề; Thiên Chúa luôn trung tín. Con người hay thay đổi; Thiên Chúa không bao giờ đổi thay. Con người nghĩ để sống sót, họ cần phải tiêu diệt đối phương. Thiên Chúa chứng minh, Ngài có quyền năng làm cho tất cả hiện hữu chung: Do-thái Giáo, Kitô Giáo, và Hồi Giáo, đều đã được Thiên Chúa chúc lành và có thể sống chung với nhau. Để Lời Chúa có thể sinh ích, con người không chỉ cần lắng nghe, mà còn phải thực hành Lời Chúa dạy. Nếu con người chỉ biết trên lý thuyết mà không chịu thực hành trong đời sống, Lời Chúa có ích chi cho con người đâu!
Các Bài Đọc hôm nay vạch ra cho chúng ta thấy sự khác biệt giữa Thiên Chúa và con người; giữa cách cư xử của Thiên Chúa và cách cư xử của con người. Trong Bài Đọc I, bà Sarai, khi thấy mình không được Đức Chúa cho sinh con, đã hiến người hầu, Hagar, cho Abram để ông có con nối giòng. Khi Hagar có con với Abram, nàng lại coi thường và khinh khi bà chủ. Bà Sarai tức giận và đối xử nhẫn tâm với Hagar đến nỗi nàng phải trốn đi; nhưng sứ thần Thiên Chúa đã hiện ra và loan báo cho nàng biết: Thiên Chúa cũng sẽ chúc lành cho giòng dõi của Ismael, con nàng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố: Nước Trời chỉ dành cho ai nghe và giữ Lời Chúa.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Ta sẽ làm cho giòng dõi ngươi sinh sôi thật nhiều đến mức không thể đếm được.

1.1/ Con người hay thay đổi: Truyền thống Do-thái và hầu hết truyền thống Á-đông đều có thái độ coi thường người phụ nữ có chồng mà không sinh cho chồng được người con để nối dõi tông đường (I Sam 1:5-6). Trong trường hợp như thế, người vợ thường sẽ hy sinh để chồng ăn ở với vợ lẽ hay nàng hầu để có con nối dõi cho chồng.

(1) Phản ứng của bà Sarai: Trình thuật hôm nay liệt kê một trường hợp điển hình: "Bà Sarai, vợ ông Abram, đã không sinh được cho ông một người con nào. Bà có một người nữ tỳ Ai-cập, tên là Hagar. Bà Sarai nói với ông Abram: "Ông coi: Đức Chúa đã không cho phép tôi sinh con. Vậy xin ông đi lại với nữ tỳ của tôi; may ra nhờ nó mà tôi sẽ có con." Ông Abram nghe lời bà Sarai, ông ăn ở với nàng hầu, Hagar, và nàng đã mang thai. Bà Sarai tức giận với nàng hầu có thể vì hai lý do: (1) Khi ông Abram tỏ cử chỉ yêu thương với Hagar. Điều này có thể hiểu được vì không ai muốn san sẻ tình yêu vợ chồng cho người khác; và (2) Nàng Hagar có những cử chỉ khinh thường bà. Dù sao chăng nữa, bà Sarai cũng có lỗi, vì bà phải biết những chuyện này không thể không xảy ra.

(2) Phản ứng của nàng hầu Hagar: Phản ứng này có thể hiểu được, vì là phản ứng của đa số con người: khinh thường những người có chồng mà không có con. Hơn nữa, nàng đang ở địa vị của nữ tỳ, bỗng nhiên trở nên bà chủ và được Abram thương mến, vì làm cho ông có con nối dõi tông đường, nên nàng càng có thái độ khinh thường và xỉ nhục chủ mình. Nàng Hagar khôn nhưng không ngoan; nếu nàng biết nhận ra tình thương của ông Abram và bà chủ Sarai, và khiêm nhường đáp lại, nàng đã không bị Bà đuổi ra khỏi nhà.

(3) Phản ứng của ông Abram: Ông nhận ra sự quan tâm của vợ và thái độ khinh thường vợ mình của Hagar; nhưng ông bị kẹt vào thế ở giữa, bênh bên nào cũng không được. Khi nghe Bà Sarai than thở, ông Abram nói với bà Sarai: "Nữ tỳ của bà ở trong tay bà đấy; đối với nó, cái gì tốt cho bà thì bà cứ làm!" Thế là Bà Sarai hành hạ Hagar đến nỗi nàng phải trốn khỏi Bà.

1.2/ Lời hứa của Thiên Chúa luôn vững bền: Cách đối xử của Thiên Chúa hoàn toàn khác với cách đối xử của con người. Ngài có thể chúc lành cho cả bà Sarai lẫn nàng hầu Sarai, cho giòng dõi của Sarai và của Hagar. Vì thế, Thiên Chúa sai sứ thần của Ngài đến gặp Hagar, và khuyên nàng: "Cứ về với bà chủ ngươi, và chịu luỵ bà ấy... Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi ra thật nhiều đến mức không thể đếm được vì quá đông."

Lời hứa về giòng dõi của Hagar: Sứ thần của Đức Chúa nói với nàng: "Này đây ngươi đang có thai, sắp sinh hạ con trai và sẽ đặt tên là Ismael, vì Đức Chúa đã nghe thấu nỗi khổ của ngươi. Con người đó đúng là một con lừa hoang, nó giơ tay chống mọi người, mọi người giơ tay chống nó, nó sẽ luôn đối đầu với tất cả anh em nó." Lời hứa này cho chúng ta thấy cả Hồi Giáo và Do-thái Giáo đều nằm trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa: Ismael là tổ phụ của những người Hồi Giáo và cũng được Thiên Chúa chúc lành. Isaac, đứa con Thiên Chúa ban cho Abram sau này, là tổ phụ của những người Do-thái và được Thiên Chúa chúc lành qua tổ phụ Abram. Lời sấm của sứ thần vẫn đang ứng nghiệm: giòng dõi của tổ phụ Abraham (Do-thái, Hồi Giáo, và Kitô Giáo) chiếm quá nửa dân số trên địa cầu; và mối thù truyền kiếp giữa Do-thái và Hồi Giáo vẫn đang xảy ra.

2/ Phúc Âm: Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.

2.1/ Nước Trời không dành cho những ai chỉ biết nói yêu mến Thiên Chúa: Chúa Giêsu tuyên bố rõ ràng tình yêu phải được biểu tỏ bằng việc làm: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! Lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.'' Một người ngây thơ có thể tin vào những lời đường mật của người dẻo miệng lưỡi ca tụng; nhưng không ai có thể đánh lừa Thiên Chúa bằng những lời tán tụng ngoài miệng, vì Ngài thấu suốt mọi ý hướng của con người.

2.2/ Nước Trời chỉ dành cho những ai thực hành Lời Chúa dạy: Để dẫn chứng tầm quan trọng của việc thi hành Lời Chúa, Chúa Giêsu đưa ra một ví dụ mà mọi người đều hiểu.

(1) Xây nhà trên đá: "Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá.'' Nhà xây trên nền đá, tuy khó làm lúc đầu, nhưng sẽ chịu đựng được mọi thay đổi của thời tiết sau này.

(2) Xây nhà trên cát: ''Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp đổ tan tành." Nhà xây trên cát rất dễ làm lúc đầu, nhưng không chịu đựng nổi những đe dọa của thời tiết; chỉ cần một cơn sóng gió nhỏ cũng đủ cuốn trôi nhà ấy.

Cuộc đời con người cũng thế: Nếu họ chịu xây dựng cuộc đời của họ trên nền tảng của Lời Chúa, tuy khó khăn lúc đầu, nhưng sẽ giúp họ đứng vững trước bất kỳ cơn phong ba bão táp nào của cuộc đời. Nhưng nếu họ không chịu xây dựng cuộc đời trên nền tảng Lời Chúa, họ sẽ bị cuốn hút, và không thể nào thắng vượt được những cơn lốc của thế gian, và bẫy giăng của ma quỉ.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta phải luôn biết lấy tình thương Thiên Chúa để đối xử với nhau trong mọi hoàn cảnh: khi thịnh vượng cũng như lúc nghèo khổ, khi khỏe mạnh cũng như lúc yếu đau, khi vinh quang cũng như lúc đau khổ; vì đó là lệnh truyền của Thiên Chúa.

- Tri hành đồng nhất. Lời nói phải đi đôi với việc làm. Nếu chúng ta không thực hành những gì Thiên Chúa dạy, lời khôn ngoan cách mấy cũng chẳng giúp được gì cho chúng ta; nhưng nếu chúng ta kiên nhẫn mang Lời Chúa ra áp dụng vào cuộc sống, Lời Chúa sẽ sinh rất nhiều lợi ích cho cuộc đời chúng ta.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP


HẠT GIỐNG NẨY MẦM
- MÙA QUANH NĂM –
- TUẦN 12 -
"Có những hạt rơi vào đất tốt.
Chúng mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả :
hạt thì được ba mươi, hạt thì được sáu mươi,
hạt thì được một trăm" (Mc 4,8)

Thứ Năm :

Mt 7,21-29

A. Hạt giống...
Từ Thứ Hai tuần 9 đến hôm nay, chúng ta lần lượt đọc Bài giảng trên núi trong đó Chúa Giêsu công bố hiến chương Nước Trời, rồi dạy cho những người muốn làm công dân Nước Trời biết cần phải có những đức tính và những điều kiện nào. Bài Tin Mừng hôm nay là phần kết của Bài giảng trên núi ấy. Trong đoạn nay, Chúa Giêsu nhắc lại một điều quan trọng cơ bản : phải đem ra thực hành những điều đã nghe :
- "Không phải những người nói ‘Lạy Chúa lạy Chúa’ là được vào Nước Trời, nhưng chỉ có những người thực hiện ý Cha Thầy trên trời mới được vào Nước Trời".
- Kẻ nghe và thực hành thì giống như người xây nhà trên nền đá vững chắc, kẻ chỉ nghe nhưng không thực hành giống như người xây nhà trên cát.

B.... nẩy mầm.
1. "Lạy Chúa, lạy Chúa", đó là công thức cầu nguyện, đọc kinh. Chúa Giêsu khẳng định rằng ngay cả việc đọc kinh cầu nguyện cũng chưa đủ để đưa tôi vào Nước Trời ; có một việc quan trọng hơn, thậm chí quan trọng nhất, đó là thực hành ý Chúa Cha.
- Hằng ngày tôi lấy làm thoả mãn khi đã tham dự đầy đủ các giờ đọc kinh cầu nguyện.
- Ngay trong lúc đọc kinh cầu nguyện, tôi cũng không quan tâm tìm hiểu xem ý Chúa muốn tôi làm gì.
2. Một tu sĩ nọ sáng nào cũng thức dậy sớm để đọc kinh cầu nguyện. Nhưng một hôm ông ngủ quên. Satan đã đánh thức ông dậy và nhắc ông đọc kinh cầu nguyện. Ông ngạc nhiên hỏi lý do, Satan chỉ cười cười không đáp. Sau cùng ông nhân danh Chúa bảo Satan phải nói thật. Và Satan đã nói thật như sau :
- Những ngày ông có đọc kinh cầu nguyện buổi sáng, ông cảm thấy tự mãn và do đó không đề phòng, nên tôi dễ cám dỗ ông hơn. Còn nếu ngày nào ông quên đọc kinh cầu nguyện buổi sáng, ông sẽ thấy ông còn thiếu sót nên trong ngày ông cố gắng sống tốt theo ý Chúa, tôi khó mà cám dỗ ông được (Góp nhặt).
3. Người đã đọc kinh cầu nguyện nhiều nhưng không quen làm theo ý Chúa thì cũng như xây nhà trên cát. Khi gặp hoàn cảnh thử thách khó khăn, tòa nhà đạo đức của người đó sẽ sụp đổ tan tành.
4. "Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như  người khôn xây nhà trên đá" (Mt 7,24)
Bầu khí ồn ào của nhà  bên cạnh làm tôi chú ý.
"Mẹ nói hoài sao con không nghe, bây giờ phải ráng chịu. Thật đúng là  "cá  không ăn muối cá ươn".
Lát sau, tôi mới hiểu cô bé nhà bên mới thi rớt. vì ham chơi, đua đòi với chúng bạn nên cô đã không nghe lời cha mẹ khuyên bảo, hoặc có nghe nhưng rồi đâu cũng vào đấy, chừng nào tật ấy
Cũng như cô bé này, tôi nghe lời Chúa mỗi ngày nhưng tôi chẳng có để tâm thi hành.  
Xin Thánh Thần Chúa xuống trên con, dạy con biết lắng nghe lời Chúa, nhận ra Thánh ý Ngài và cố gắng thi hành trong đời con. (Hosanna)

Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI – Gp.Cần Thơ

27/06/13 THỨ NĂM TUẦN 12 TN
Th. Syrilô, giám mục Alêxanri, tiến sĩ Hội Thánh             
Mt 7,21-29

LÀM ĐIỀU TỐT CHÚA MUỐN
“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7,21)
Suy niệm: Một nhà tu đức vạch ra một trong âm mưu của ma quỷ không phải là cám dỗ ta làm điều xấu mà là cám dỗ ta làm điều tốt, nhưng không phải là điều tốt Chúa muốn. Lời Chúa hôm nay cảnh báo cho ta điều đó. Nếu chỉ siêng năng “đọc kinh, xem lễ”, tham dự những lễ nghi long trọng mà thiếu việc “thi hành ý của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” thì chưa đủ để vào Nước Trời, mà trái lại còn đáng bị Chúa gọi là“phường gian ác” và bị đuổi đi “khuất mắt Chúa.” Thi hành ý Chúa Cha không phải là cứ làm bất kỳ điều gì mình cho là tốt mà là làm điều tốt Chúa Cha muốn. Chúa Giêsu nêu gương cho chúng ta khi Ngài từ khước ý riêng mình để chọn con đường cứu độ bằng thập giá như ý Chúa Cha muốn: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,40).
Mời Bạn: Chúng ta phải luôn cảnh giác trước những cám dỗ êm dịu là pha mình vào nhiều hoạt động xét khách quan không xấu, thậm chí còn rất tốt nữa. Thế nhưng đó có thể là những điều tốt giả bởi vì không phải là điều tốt Chúa muốn. Trong tình huống có nhiều chọn lựa mà chọn lựa nào xem ra cũng tốt, thì điều gì giúp chúng ta giống với Chúa Kitô vác thập giá nhất đó chính là điều tốt mà Chúa muốn chúng ta thực hiện.
Sống Lời Chúa: Kiểm điểm mỗi ngày: Hôm nay tôi có làm điều tốt giả nào không? Động lực nào khiến tôi làm thế?
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin cho con được bắt chước Chúa luôn tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa Cha. Amen.

Xây trên nền đá
Dù Nước Trời là một quà tặng nhưng không của Thiên Chúa Cha, nhưng người Kitô hữu vẫn phải đưa tay ra cung kính đón nhận bằng cách sống trọn vẹn Ý Cha như một người con thảo hiền. 


Suy nim:
Nếu ai trong cộng đoàn các Kitô hữu chúng ta
có khả năng nhân danh Đức Giêsu, nghĩa là dùng quyền năng của Ngài,
để nói tiên tri, để trừ quỷ hay làm nhiều phép lạ (c. 22),
chắc chúng ta sẽ tin ngay người đó là môn đệ đích thực của Đức Giêsu.
Người đó dĩ nhiên phải là người tốt lành, thánh thiện, đáng tin,
vì chỉ ai là người của Chúa mới làm được những điều lạ lùng đó.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc chúng ta đừng vội kết luận.
Làm được những điều Chúa đã làm như trừ quỷ hay chữa bệnh
chưa chắc chắn đã là người môn đệ chân chính.
Những kết quả hoành tráng trên vẫn chưa đủ để biết cây (Mt 7, 16).
Cả những ai thưa với Thầy Giêsu: Lạy Chúa! lạy Chúa!
cũng không hẳn sẽ được vào Nước Trời (c. 21).
Đức Giêsu cho chúng ta một tiêu chuẩn quan trọng khác để nhận định.
Đó là chính cuộc sống của người môn đệ đó.
“Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời…” (c. 21).
Ý muốn ấy được giải thích và diễn tả qua “những lời Thầy nói đây” (c. 24).
Vậy tiêu chuẩn chắc chắn để nhận ra người môn đệ thật
đó là xem người đó có sống đúng tinh thần của Đức Giêsu không,
có làm điều Ngài dạy qua Bài Giảng trên núi không.
“Những kẻ làm điều gian ác” ở đây là những người đã nghe và không làm.
Ngay cả những kẻ ấy cũng có thể làm được những điều kỳ diệu,
khiến chúng ta bị ngây ngất, say mê và ngộ nhận.
Nhưng vào ngày phán xét, mọi sự sẽ bị phanh phui.
Chúa sẽ nói với họ: “Ta không biết các ngươi. Xéo đi khỏi Ta” (c. 23).
Nước Trời không dành cho những ai bất tuân phục Ý Chúa.
Dù Nước Trời là một quà tặng nhưng không của Thiên Chúa Cha,
nhưng người Kitô hữu vẫn phải đưa tay ra cung kính đón nhận
bằng cách sống trọn vẹn Ý Cha như một người con thảo hiền.
Không có thái độ này, thì quà có đó mà vẫn không đến tay.
Chúng ta đã nghe lời Chúa Giêsu quá nhiều, nhưng thực hành lại chưa đủ.
Chính vì thế khi mưa đổ xuống, gió giật, nước dâng,
ngôi nhà đời chúng ta sụp đổ dễ dàng.
Vấn đề không phải do cuồng phong và lũ lụt,
mà do nền móng của ngôi nhà, nền đá hay nền cát.
Sau một cơn bão, có những tòa nhà cổ vẫn đứng vững hiên ngang,
trong khi những ngôi nhà mới xây lại sụp đổ.
Cơn bão nói cho ta về chất lượng thật của ngôi nhà.
Có bao nhiêu cơn bão mà ngôi nhà mỗi người vẫn phải gánh chịu mỗi năm?
Có lẽ ta nên chọn một câu Tin Mừng làm nền đá cho ngôi nhà đời mình.
Và xây cả đời mình trên việc sống câu Tin Mừng ấy.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.

Chúng con thường xây nhà trên cát,
vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,
nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế
Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.

Xin cho chúng con
đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,
đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.

Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,
để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng.

Ước gì ngôi nhà đời chúng con
được xây trên nền tảng vững chắc,
đó là Lời Chúa,
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Suy niệm

Lạy Chúa, Lời Chúa hôm nay cho con biết Chúa là Đấng “thấu suốt mọi bí ẩn”, Ngài cần nội dung bên trong chứ không phải những hình thức bên ngoài; là dịp để con xem lại những hành động của con có xuất phát từ lòng yêu mến Chúa hay chỉ là những việc làm vô hồn, hay thậm chí là việc phô trương công đức nữa.
Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lại đó sao”(Mt 7,22). Nhưng Chúa lại cho đó là những “điều gian ác”. Tại sao việc nói tiên tri, việc trừ quỷ, việc làm phép lạ lại là “điều gian ác”? Thưa gian ác không phải bởi những việc đó, nhưng bởi những con người làm việc đó một cách gian ác.
Có những hành động xem ra là đạo đức, nhưng lại xuất phát bởi ý đồ xấu xa. Ví dụ như Chúa đã từng lên án những kinh sư và những người Pharisêu giả hình: “Các ngươi nuốt hết tài sản của các bà góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ” (Mt 23,14). Việc đọc kinh cầu nguyện là tốt, nhưng những biệt phái và Pharisêu đã sử dụng để “nuốt hết tài sản của các bà góa” khiến Chúa phải kinh tởm. Việc tham gia vào các hội đoàn trong họ đạo là tốt, nhưng có người tham gia để được lợi lộc riêng cho mình, hoặc có người nói thẳng: tôi vào đó để phá cho tan tành. Việc học giáo lý để vào đạo là tốt, nhưng có người học đạo để được cưới vợ lấy chồng, để rồi sau đó tuyên bố thẳng thừng: “Con tin có Chúa Ba Ngôi, con cưới được vợ con thôi nhà thờ”… Vì vậy điều chính yếu không phải là những việc con làm, mà là động lực, là cách thức con làm.
Trong một cuộc lễ, có người nằm trong ban tổ chức, có người ban tiếp tân, có người ban phụng vụ… nhưng cũng có người âm thầm đi dọn dẹp vệ sinh ở những Toilet. Có người đứng ở nơi công cộng để chỉ cho người khác biết nhà vệ sinh ở đâu, phòng y tế chỗ nào… Những việc đó xem ra tầm thường đấy chứ, nhưng nếu họ làm với tất cả tình yêu thì cũng có giá trị ngang hàng với những việc lớn lao khác; thậm chí giá trị hơn vì đó là những việc không ai để y tới. Điều đẹp lòng Chúa là trong tất cả mọi việc con làm như thể thánh ý Chúa.
Khi con làm mọi việc trong tình yêu thì giống như con đang xây nhà trên đá. Còn nếu con làm vì bất cứ động lực nào khác mà không bởi tình yêu Chúa thì cũng như con xây nhà trên cát, có hoành tráng, có đẹp đẽ đến mức nào thì cũng sẽ sụp đổ khi phong ba bão táp ập vào.
Lạy Chúa, một ngày sống với biết bao công việc. Có những việc bổn phần con phải làm. Có những việc đột xuất con phải giải quyết . Có những tình huống xảy ra con can thiệp cũng được, con đứng nhìn cũng chẳng sao. Tất cả những việc đó sẽ chẳng có giá trị gì thậm chí còn là hình phạt cho con nếu con làm theo những thúc đẩy tầm thường của trần gian, hoặc như dịp để con khoe khoang công trạng, thậm chí tìm lợi ích cho riêng mình. Nhưng nếu con làm với một động lực hết sức đơn giản là vì Chúa muốn tôi làm vậy thì sẽ là những việc phi thường và đem đến ơn cứu độ cho con. Phi thường không phải vì công việc, nhưng vì động lực và cách con làm.
Xin cho con được lòng mến yêu chân thành. Amen.
Lm. Thiện Duy


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Sáu

27 THÁNG SÁU

Trong Sự Chăm Sóc Ân Cần Của Cha

Ngay từ thuở ban đầu, sự quan phòng của Thiên Chúa được xem như một chân lý nền tảng của đức tin. Huấn quyền của Giáo Hội luôn luôn khẳng định điều ấy, tuy rằng mãi đến Công Đồng Vatican I chân lý này mới được tuyên bố chính thức về mặt tín lý. Công Đồng nói về sự quan phòng của Thiên Chúa nơi tạo vật: “Mọi sự mà Thiên Chúa đã sáng tạo, Ngài gìn giữ và dẫn dắt bằng sự quan phòng của Ngài – sự quan phòng ấy bao trùm từ chân trời này tới chân trời kia và cai quản tất cả một cách tốt đẹp” (Kn 8,1), “Tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mắt Ngài (Dt 4,13), kể cả những gì sẽ xảy ra do sáng kiến tự do của các thụ tạo” (DS 3003).

Bản văn của Vatican I nhằm đáp ứng cho những nhu cầu cụ thể của các tín hữu Công Giáo sống trong thế kỷ 19. Trước hết, Công Đồng muốn xác nhận giáo huấn vốn sẵn có của Giáo Hội về sự quan phòng, một giáo huấn bất biến có liên kết chặt chẽ với toàn bộ sứ điệp Thánh Kinh. Chúng ta nhận ra điều này trong những bản văn Cựu Ước và Tân Ước đã được trích dẫn trong bản văn của Công Đồng.

Qua việc xác nhận giáo thuyết này, Công Đồng chống lại những sai lạc của thuyết duy vật và thuyết tự nhiên thần giáo (deism) của thế kỷ 19. Thuyết duy vật phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa. Thuyết tự nhiên thần giáo tuy nhìn nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự sáng tạo thế giới song lại chủ trương rằng Thiên Chúa không hoạt động trong thế giới mà Ngài đã sáng tạo. Vì thế, có thể nói rằng thuyết này (deism) trực tiếp chống lại chân lý về sự quan phòng của Thiên Chúa.

- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 27-6
Thánh Cyrillô Alexandris, tiến sĩ Hội Thánh
St 16,1-12.15-16; Mt 7, 21-29


LỜI SUY NIỆM: “Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá” (Mt7,24)

Trong cuộc sống của mỗi con người, đều đã gặp nhiều chủ thuyết, nhiều giáo thuyết muốn hướng dẫn, muốn lôi kéo con người theo. Nhưng tất cả đó chỉ là do con người nghĩ ra, hay là do óc suy diễn của con người mà có. Còn Giáo Huấn của Chúa Giêsu phát xuất từ Thiên Chúa, từ tình yêu cứu độ của Ngài. Nên Chúa Giêsu mời gọi chúng ta khi nghe lời của Ngài, thì phải đem ra thực hành. Cuộc đời của người Ki-Tô hữu phải xây dựng trên một nền tảng đó là Lời Chúa. Muốn xây dựng trên nền tảng này, chúng ta phải luôn học hỏi Lời Chúa với một lòng chân thành, tin, vâng phục và cầu nguyện. Nếu chúng ta không xây dựng trên nền tảng học hỏi, tin và vâng phục Lời Chúa. Thì khi biến cố đến, đời sống của chúng ta sẽ bị sụp đổ, và sụp đổ tan tành.

Mạnh Phương


Gương Thánh nhân

Ngày 27-06

Thánh CYRILLÔ ALEXANDRINÔ
Giám Mục, Tiến Sĩ Hội Thánh (+444)


Năm 412 thánh Cyrillô kế vị cậu Ngài là Theophilô làm giám mục Alexandria. Khi ấy Ngài đã vào khoảng trung tuần. Người ta không biết gì về cuộc sống Ngài trước đó, trừ trường hợp, Ngài có mặt trong vụ kết án thánh Gioan Kim Khẩu năm 408. Hiển nhiên là Ngài đã có thời sống như một ẩn sĩ trong sa mạc và đã được giáo dục kỹ lưỡng về văn chương Hy Lạp.
Vào thế kỷ V, các giáo phụ Alexandria đã trở thành những giám mục giàu có và uy quyền nhất trong đế quốc. Trở thành Kitô, người Ai cập vẫn còn mang những gì còn lại trong tâm tình dân tộc của mình. Các giám mục tự mô tả như là những Đấng kế vị thánh Marcô, nhưng cũng kế nhiệm các thượng tế Amen Ra và có phong cách nào đó của Pharao.
Suốt 15 năm đầu làm giám mục, thánh Cyrillo đã đập tan thế hệ cầm quyền và những nhà đổi tiền Do thái ở Alexandria. Việc thực thi đức ái của Ngài đối với người nghèo khó, bệnh hoạn cũng như lòng thương cảm sâu xa của Ngài với mọi tội nhân hối cải, luôn kèm theo một chút cứng rắn. Chắc chắn là các kẻ thù của Ngài cũng là kẻ thù của Thiên Chúa. Nhiệt tâm với các linh hồn và say mê bảo vệ đức tin Kitô giáo, Ngài sẵn sàng dùng đến mọi phương tiện trong tay như là của cải, tài khích lệ quần chúng và lực lượng các thầy dòng.
Điều này giúp chúng ta hiểu được tại sao cuộc tranh luận về Kitô học mà Ngài giữ một vai trò lớn lao đã có màu sắc pha trộn chính trị lâu dài như vậy.
Năm 438, thày dòng Nestôriô trở thành thượng phụ Constantinople. Dường như ông ta đã làm giám mục tại triều đình có tham vọng mãnh liệt, tin vào hiệu quả lớn mạnh do đời sống cầu nguyện của mình và có ý tiêu diệt mọi lạc thuyết. Đàng khác, không chắc rằng ông đã muốn trở thành lạc giáo. Vào đầu thế kỷ V, các thần học gia đền nhận rằng: đức Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Dầu vậy chưa có định tín về mối tương quan giữa Thiên tính và nhân tính của Người như thế nào. Thánh Cyrillo chủ trương rằng: cả hai bản tính kết hợp mật thiết với nhau, đến độ Mẹ Chúa Kitô cũng được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Nestôriô thì phân biệt rằng Mẹ Con Trẻ Giêsu chỉ được gọi là Mẹ Chúa Kitô mà thôi. Mỗi bên đều tố cáo bên kia là lạc giáo.
Thánh Cyrillo liên kết với các tu sĩ Đông phương Ngài còn được Đức giáo hoàng nâng đỡ và cử làm Vị đại diện ở Đông phương. Với mệnh lệnh này, năm 430 Ngài kết án Nestôriô là lạc giáo tại một hội nghị ở Alexandria. Mùa hè năm 431, Ngài triệu tập và chủ tọa cộng đồng chung ở Ephesô. Nestôriô không những bị kết án mà còn bị truất phế nữa. Đức trinh Nữ được tuyên xưng là Mẹ Thiên Chúa.
Công đồng Ephêsô được Đức giáo hoàng chuẩn nhận. Nhưng hoàng đế lại không công nhận vì thánh Cyrillo đã không đợi 43 giám mục có thiện cảm với Nestôriô tới họp. Thánh Cyrillo bị bắt ở Tiểu Á và bị giam tù trong hai tháng. Thánh phụ Antiôkia và các người dưới quyền cắt đứt hiệp thông với Ngài. Thánh nhân trốn về Ai cập và năm 433 kết hợp lại được với Antiôkia. Từ đó Ngài lại thúc đẩy hoàng đế chấp nhận các sắc lệnh của công đồng Ephêsô. Hoàng đế vẫn nghi ngờ Ngài cho đến khi Ngài qua đời vào năm 444. Thánh Cyrillo vẫn còn dấn thân vào cuộc tranh luận Kitô học này cho đến chết.
Không có nhà thần học Hy Lạp nào lớn hơn thánh Cyrillo. Ngài có khả năng tổng hợp và nhận định có thể so sánh được với thánh Augustinô. Không có thánh nhân nào bị phê bình tàn khốc như thánh nhân, nhưng ít có thánh nhân nào đã hăng hái như Ngài. Cả những người ghen ghét cũng không thề chất vấn về sự cao cả của Ngài. Bên dưới sự hăng hái của Ngài là cả một tình yêu mạnh mẽ đối với đức Kitô với niềm tin mãnh liệt vào lòng thương xót của Người. Đức giáo hoàng Celestinô xưng tụng Ngài là đấng bảo vệ Giáo hội và Đức tin".


(daminhvn.net)


27 Tháng Sáu

Con Chim Trong Bàn Tay

Người Ba Tư có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Ngày xưa, tại quảng trường của một thành phố nọ, có một nhà hiền triết xuất hiện và tuyên bố giải đáp được tất cả mọi thắc mắc của bất cứ ai đến vấn kế.
Một hôm, giữa đám người đang say mê lắng nghe nhà hiền triết, có một mục tử từ trên núi cao đến. Nghe tiếng đồn về sự thông thái và khôn ngoan của nhà hiền triết, anh muốn chứng kiến tận mắt, nghe tận tai và nhất là để hạ nhục nhà hiền triết giữa đám đông. Anh tiến đến gần nhà hiền triết, trong tay bóp chặt một con chim nhỏ. anh đặt câu hỏi như sau: 'Thưa ngài, trong tay tôi có cầm một con chim. Ngài là bậc thông thái biết được mọi sự. Xin ngài nói cho tôi biết con chim tôi đang cầm trong tay sống hay chết?".
Nhà hiền triết biết đây là một cái bẫy mà người mục tử tinh ranh đang giăng ra. Nếu ông bảo rằng con chim đang còn sống, thì tức khắc người mục tử sẽ bóp cho nó chết trước khi mở bàn tay ra. Còn nếu ông bảo rằng con chim đã chết thì lập tức con người khôn manh ấy sẽ mở bàn tay ra và con chim sẽ bay đi.
Sau một hồi thinh lặng, trước sự chờ đợi hồi hộp của đám đông, nhà hiền triết mới trả lời như sau: "Con chim mà ngươi đang cầm trong tay ấy sống hay chết là tùy ở ngươi. Nếu ngươi muốn cho nó sống thì nó sống, nếu ngươi muốn cho nó chết thì nó chết".

Ai trong chúng ta cũng khao khát hạnh phúc. Ai trong chúng ta cũng mong ước được cuộc sống an bình, vui tươi. Nhưng lắm khi chúng ta chạy theo chiếc bóng mờ ảo của hạnh phúc hơn là hưởng nếm chính hạnh phúc đang cầm trong tầm tay của chúng ta. Hạnh phúc đích thực chính là con chim mà mỗi người chúng ta đang có ở trong lòng tay. Con chim ấy sống hay chết là tùy ở mỗi người chúng ta. Chúng ta được hạnh phúc, chúng ta được an bình hay không là do chính chúng ta.
Hạnh phúc đích thực của chúng ta, niềm vui đích thực của chúng ta chính là Thiên Chúa. Nếu chúng ta để cho Thiên Chúa chiếm ngự, nếu chúng ta để cho Thiên Chúa lấp đầy, thì cho dẫu ngoại cảnh có làbầu trời đen tối đi nữa, chúng ta vẫn cảm thấy an bình, hạnh phúc.
Ý thức được sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn, để cho Chúa chiếm trọn tâm tư, lấy Chúa làm tất cả trong cuộc sống, chúng ta sẽ có được niềm vui đích thực.

(Lẽ Sống)

Thứ Năm 27-6

Thánh Cyril ở Alexandria

(376?-444)

T
hánh Cyril sinh ở Alexandria, Ai Cập. Ngài là cháu của Ðức Theophilus, thượng phụ của Alexandria. Sau khi học xong kinh điển và thần học, ngài được chính bác của mình tấn phong linh mục và tháp tùng Ðức Theophilus đến Constantinople để tham dự Thượng Hội Ðồng Oak nhằm truất phế Ðức Gioan Kim Khẩu (sau này mới biết là bị kết tội oan).
Khi Ðức Theophilus từ trần vào năm 412, ngài lên kế vị bác của mình sau cuộc tranh đấu với phe ủng hộ người đối thủ là Timotheus. Ngay sau khi lên ngôi, Ðức Cyril bắt đầu tấn công lạc thuyết Novatianô với việc đóng cửa các nhà thờ; đuổi những người Do Thái ra khỏi thành phố; và phản bác một số hành động của quan đầu tỉnh Orestes là người theo phe Novatianô.
Vào năm 430, Ðức Cyril lại xung đột với Nestorius, thượng phụ của Constantinople, là người cho rằng Ðức Maria không phải là Mẹ Thiên Chúa vì Ðức Kitô là Thiên Chúa chứ không phải con người, hậu quả là không thể dùng chữ theotokos (người-mang-Thiên-Chúa) áp dụng cho Ðức Maria. Ðức Cyril thuyết phục được Ðức Giáo Hoàng Celestine I triệu tập một công đồng ở Rôma nhằm lên án Nestorius, và chính ngài cũng hành động tương tự trong công đồng Alexandria.
Vào năm 431, Ðức Giáo Hoàng Celestine ra lệnh cho Ðức Cyril truất phế Nestorius. Trong Ðại Công Ðồng Ephêsô lần thứ ba, với sự tham dự của hai trăm giám mục và dưới sự chủ tọa của Ðức Cyril, công đồng đã lên án mọi giáo thuyết của Nestorius là sai lầm trước khi Ðức Tổng Giám Mục Gioan ở Antiôkia và bốn mươi hai môn đệ ủng hộ giáo thuyết của Nestorius kịp đến tham dự. Khi thấy mọi sự đã lỡ, họ tổ chức một công đồng riêng để truất phế Ðức Cyril. Hoàng Ðế Theodosius II bắt giữ cả hai người, Ðức Cyril và Nestorius nhưng sau đó đã trả tự do cho Ðức Cyril khi các đại diện của đức giáo hoàng xác nhận các quyết định của công đồng.
Hai năm sau, Ðức Tổng Giám Mục Gioan, đại diện cho các giám mục ôn hòa ở Antiôkia, đã ký kết một thỏa ước với Ðức Cyril và cùng lên án Nestorius. Trong quãng đời còn lại, Ðức Cyril đã viết nhiều luận án làm sáng tỏ học thuyết về Thiên Chúa Ba Ngôi và mầu nhiệm Nhập Thể nhằm ngăn chặn lạc thuyết Nestorius và Pelagian khỏi ăn sâu vào cộng đồng Kitô Hữu. 
Ngài là thần học gia sáng chói nhất của truyền thống Alexandria. Văn bút của ngài có đặc tính chính xác về tư tưởng, lập trường rõ ràng, và lý luận sắc bén. Các văn bản của ngài gồm các nhận định về Thánh Gioan, Thánh Luca, và ngày lễ Ngũ Tuần, các luận thuyết về thần học tín lý, cũng như các thư từ và bài giảng. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII tuyên xưng là tiến sĩ Giáo Hội vào năm 1882.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét