23/07/2018
Thứ hai tuần 16 thường niên
Bài Ðọc I: (Năm
II) Mk 6, 1-4. 6-8
"Người hỡi, Ta
sẽ chỉ cho ngươi việc phải làm, và việc nào Chúa đòi hỏi nơi ngươi".
Trích sách Tiên tri
Mikha.
Các ngươi hãy nghe
Chúa phán: "Ngươi hãy đứng lên, hãy trình bày lời tố cáo của ngươi trước
núi non, và các đồi hãy nghe tiếng của ngươi. Hỡi các núi và nền tảng kiên cố của
địa cầu, hãy nghe Chúa tố cáo dân Người và biện luận với Israel.
"Hỡi dân Ta, Ta
đã làm gì cho ngươi? Hay là Ta đã làm khổ ngươi điều gì? Hãy trả lời cho Ta biết.
Chính Ta dẫn ngươi ra khỏi đất Ai-cập, đã giải thoát ngươi khỏi nhà nô lệ, và
sai Môsê, Aaron và Maria đi trước mặt ngươi?"
Tôi sẽ hiến dâng vật
gì lên Thiên Chúa cho xứng đáng? Hay là tôi sấp mình trước Thiên Chúa Tối Cao?
Tôi sẽ dâng lên Người của lễ toàn thiêu và con bê một tuổi chăng? Chúa có hài
lòng với hằng ngàn chiên đực, hoặc hằng muôn vàn dê đực béo tốt chăng? Tôi sẽ
dâng con đầu lòng để đền tội ác của tôi, và dâng con cái tôi để đền chính tội
tôi chăng?
Người hỡi, Ta sẽ chỉ
cho ngươi việc phải làm, và việc nào Chúa đòi hỏi nơi ngươi: tức là ngươi hãy
thực hiện công bình, quý mến lòng nhân lành, và khiêm tốn bước theo Thiên Chúa
ngươi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 49, 5-6.
8-9. 16bc-17. 21 và 23
Ðáp: Ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên
Chúa cứu độ (c. 23b).
Xướng: 1) "Hãy tập
họp cho Ta các tín đồ đã ký lời giao ước của Ta cùng hy sinh lễ". Và trời
cao sẽ loan truyền sự công chính của Ngài, vì chính Ðức Thiên Chúa, Ngài là thẩm
phán. - Ðáp.
2) Ta không khiển
trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở trước mặt
Ta luôn. Ta không nhận từ nhà ngươi một con bò con, cũng không nhận từ đoàn
chiên ngươi những con dê đực. - Ðáp.
3) Tại sao ngươi ưa kể
ra những điều huấn lệnh, và miệng ngươi thường nói về minh ước của Ta? Ngươi là
kẻ không ưa lời giáo huấn, và ném bỏ lời Ta lại sau lưng. - Ðáp.
4) Ngươi làm thế, mà
Ta đành yên lặng? Ngươi đã tưởng rằng Ta cũng giống như ngươi? Ta sẽ bắt lỗi, sẽ
phơi bày trước mặt ngươi tất cả. Ai hiến dâng lời khen ngợi, người đó trọng
kính Ta; ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ. - Ðáp.
Alleluia: Ga 10, 27
Alleluia, alleluia! -
Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo
Ta". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 12, 38-42
"Nữ hoàng
phương nam sẽ chỗi dậy lên án thế hệ này".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, có mấy luật sĩ
và biệt phái thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy
làm một dấu lạ". Người trả lời: "Thế hệ hung ác gian dâm đòi một dấu
lạ! Nhưng sẽ không cho dấu lạ nào, trừ dấu lạ tiên tri Giona. Cũng như xưa tiên
tri Giona ở trong bụng cá ba đêm ngày thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong
lòng đất ba đêm ngày như vậy. Tới ngày phán xét, dân thành Ninivê sẽ chỗi dậy
cùng với thế hệ này và lên án nó, vì họ đã nghe lời tiên tri Giona mà sám hối tội
lỗi, nhưng đây có Ðấng cao trọng hơn Giona. Ðến ngày phán xét, nữ hoàng phương
nam sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và lên án nó: vì bà từ biên thuỳ trái đất
đã đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon, nhưng đây có Ðấng cao trọng hơn
Salomon".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Dấu Chỉ Yêu
Thương
Trong quyển tự thuật
"Vì Danh Ta", một Mục sư người Hungari đã kể lại kinh nghiệm của ông.
Bị bắt và bị chuyển từ trại này sang trại khác, vị Mục sư vẫn âm thầm rao giảng
Lời Chúa cho các bạn tù. Trong 13 năm tù, ông đã giúp cho rất nhiều bạn tù được
gặp gỡ Chúa. Ông đã kết thúc quyển tự thuật cũng là bài ca tuyên xưng đức tin của
ông như sau:
"Trong suốt thời
gian bị tù đày, tôi đã hiểu được rằng Lời Chúa đi vào tâm hồn con người dễ dàng
hơn giữa những đau khổ và bách hại. Ðó là lý do cho thấy mùa gặt thiêng liêng
trong các ngục tù luôn luôn dồi dào. Tôi không tự cho mình là người anh hùng, lại
càng không phải là vị tử đạo. Nhưng vào lúc sống tự do, nhìn lại đằng sau, tôi
có thể nói với tất cả thành thật rằng 13 năm bị tra tấn đánh đập, đói khát, 13
năm đau khổ và xa gia đình để làm mục sư cho hàng ngàn tù nhân trong các trại
giam, 13 năm như thế quả thật đáng giá".
Những dòng trên đây quả
là một phấn khởi cho tất cả những ai đang vì niềm tin của mình mà phải chịu
bách hại và đau khổ. Những đau khổ thử thách mà các Kitô hữu phải trải qua thường
là dấu chỉ cao đẹp nhất, qua đó Thiên Chúa tỏ mình cho con người.
Chúa Giêsu như muốn
nói đến điều đó, khi Ngài mượn hình ảnh tiên tri Yôna để loan báo về chính cái
chết của Ngài. Cũng như Yôna đã vâng phục Thiên Chúa đến rao giảng sự sám hối
cho dân thành Ninivê, thì Chúa Giêsu cũng vâng phục Chúa Cha để sống kiếp con
người và trở thành dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa cho con người. Qua hình ảnh
Yôna để loan báo sự vâng phục cho đến chết của Ngài, Chúa Giêsu muốn nói đến
con đường mạc khải của Thiên Chúa, đó là con đường tình yêu. Ngài đã tạo dựng
con người theo hình ảnh Ngài, nghĩa là có tự do và biết yêu thương, cho nên Thiên
Chúa đã chọn con đường yêu thương để đến với con người. Ngài đã hóa thân làm
người, sống trọn vẹn kiếp người, và cuối cùng chịu chết treo trên Thập giá, tất
cả để trở thành lời mời gọi đối thoại yêu thương.
Mãi mãi Thiên Chúa chỉ
đến với con người qua dấu chỉ của tình yêu. Người Kitô hữu luôn được mời gọi để
nhận ra những dấu chỉ yêu thương ấy trong cuộc sống của mình, không những qua
những chúc lành và may mắn, mà còn qua những mất mát, khổ đau thua thiệt nữa.
Nhận ra những dấu chỉ yêu thương của Thiên Chúa trong cuộc sống, người Kitô hữu
cũng được mời gọi để trở thành những dấu chỉ yêu thương của Ngài cho mọi người
chung quanh. Trở thành dấu chỉ yêu thương có nghĩa là chấp nhận sống vâng phục
và vâng phục cho đến chết như Chúa Giêsu. Trở thành dấu chỉ yêu thương giữa tăm
tối của cuộc sống, giữa đọa đày bách hại, người Kitô hữu vẫn tiếp tục chiếu
sáng trong tín thác, yêu thương, phục vụ, tha thứ.
Xin cho lý tưởng chứng
nhân luôn bừng sáng trong chúng ta, để dù sống trong đau khổ, thử thách, chúng
ta vẫn trung thành với tình yêu Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 16 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: Mic
6:1-4, 6-8; Mt 12:38-42
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Bụt nhà không
thiêng; gần nhà gọi bụt bằng anh!
Trong Cựu Ước, ngoài
Sách tiên tri Jonah, ông cũng được đề cập đến trong 2 Kings 14:25: ông là con của
Amittai, người Gathhepher. Ông hoạt động dưới triều Vua Jeroboam II, đồng thời
hay sớm hơn Hosea và Amos; vì thế ông được kể là tiên tri sớm nhất trong các
tiên tri. Trong Tân Ước, tiên tri Jonah được đề cập đến trong Matthew 12:38-41 và Luke 11:29-32.
Một số học giả chủ trương chú giải sách của Jonah như một dụ ngôn hay so sánh
và loại ra ngoài tính lịch sử của sách vì 2 lý do: (1) phép lạ quá lớn không thể
xảy ra; và (2) thể loại của sách là tường thuật, không phải là tiên tri. Trong
phụng vụ của Do Thái, Sách Jonah được đọc trong ngày Yom Kippur (Ngày Xá Tội),
vào giờ nguyện ban trưa.
Một trong những điều
quan trọng nhất của thần học Do Thái là (Teshuva): họ có khả năng ăn năn
trở lại và được Thiên Chúa tha thứ. Và đây là điều chính yếu trong sách của
Jonah. Ông không muốn Thiên Chúa tha thứ cho kẻ thù, và vì thế ông đã từ chối
không kêu gọi dân thành Nineveh ăn năn trở lại; nhưng Thiên Chúa lại muốn ngược
lại: Ngài không muốn kẻ có tội phải chết, nhưng muốn nó ăn năn thống hối và được
sống.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Liên hệ giữa Chúa và Israel
1.1/ Thiên Chúa kiện
Israel: Thiên Chúa truyền cho Micah đi
nhắc lại cho Dân Chúa biết tình yêu chung thủy của Ngài dành cho họ với sự chứng
kiến của núi đồi. Tại sao cần núi đồi làm chứng? Vì con người dễ thay đổi mau
quên; nhưng núi đồi không thay đổi theo thời gian; chúng đã chứng kiến từ đầu
Chúa đã yêu và làm cho dân Chúa những gì: Ngài đã mang dân từ đất nô lệ của Ai
Cập vào vùng đất tự do đầy sữa và mật; Ngài đã gởi đến cho dân những nhà lãnh đạo
và tiên tri để điều hành và giáo dục dân chúng như Moses, Aaron và Miram.
Thiên Chúa chưa một lần
bội hứa hay làm phiền lòng Israel, thế mà họ đã quay lưng lại với Ngài. Họ đã
đúc tượng con bê bằng vàng để thờ và nói với nó: Đây là đấng đã cứu ngươi ra khỏi
cảnh nô lệ của người Ai-cập!
1.2/ Israel đáp trả tình
yêu Thiên Chúa thế nào? Họ chỉ chú trọng
tới hình thức và các lễ nghi bên ngoài. Họ nghĩ sẽ làm vui lòng Chúa bằng việc
giữ các ngày lễ và dâng những của lễ toàn thiêu như: con đầu lòng, trâu bò một
tuổi, không tì vết … Họ nghĩ sẽ làm vui lòng Chúa bằng ngàn chiên cừu hay vạn
những con sông đầy dầu ôliu để Thiên Chúa tha thứ cho những xúc phạm và tội lỗi
của họ. Thiên Chúa không muốn những điều này. Ngài không đòi Israel điều gì
khác ngoài việc có lòng yêu mến nhân từ, thực thi công chính, và ăn ở khiêm nhường.
2/ Phúc Âm: Một số biệt phái và ký lục đòi Chúa làm một phép lạ để họ
có thể tin vào Ngài.
2.1/ Dấu lạ Jonah: Những người này có thể đã chứng kiến hay ít nhất đã được
nghe những lời Chúa dạy và về các phép lạ Chúa đã làm trong Israel. Đất Israel
không lớn lắm; chỉ cần những tiếng đồn loan đi là mọi người đều biết. Hôm nay họ
muốn thử thách Chúa để họ thấy tận mắt dấu lạ thì họ mới tin. Chúa từ chối
không thỏa mãn lời yêu cầu của họ; nhưng Ngài hứa sẽ cho thấy một dấu lạ cả thể
sau này.
Dấu lạ Jonah: Ông đã từ
chối không đi giảng dạy tại Nineveh. Thay vì đó, đáp tàu đi Tarsus; và sau đó
đã bị ném xuống biển và bị nuốt bởi một con cá voi. Ông ở trong bụng cá 3 ngày
đêm và sau đó cá đã nhả ông ra trên bờ biển. Phép lạ nữa Chúa sẽ làm là họ sẽ
chứng kiến Chúa cũng sẽ ở trong mồ 3 ngày 3 đêm và sau đó sẽ sống lại và ra khỏi
mồ: một phép lạ chưa từng xảy ra bao giờ. Đó là cái chết, an táng, sống lại và
lên trời của chính Ngài.
2.2/ Bụt nhà không
thiêng: Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã
thân hành đến và sống giữa dân để mặc khải, dạy dỗ những lời khôn ngoan chưa từng
nghe của Thiên Chúa; đồng thời làm những phép lạ chưa từng thấy xảy ra từ tạo
thiên lập địa đến giờ. Thế mà họ vẫn coi thường và thử thách Ngài như trong bài
Phúc Âm hôm nay. Vì thế, Chúa cảnh cáo họ:
– Dân thành Nineveh sẽ
tố cáo những người này cứng lòng vì họ đă ăn năn trở lại khi nghe Jonah giảng
chỉ một lần; trong khi những người này đã được nghe và chứng kiến bao nhiêu
phép lạ Người đã làm và vẫn không tin!
– Nữ Hoàng Phương Nam
đã lặn lội từ xa và mang biết bao lễ vật đến triều công để được nghe sự khôn
ngoan của Vua Solomon; trong khi thế hệ này đã không phải lặn lội đi xa; đã
không phải trả một đồng, mà vẫn từ chối nghe lời khôn ngoan của Con Thiên Chúa!
Tại sao bụt nhà không
thiêng? Có nhiều lý do; sau đây là một vài lý do chính:
(1) Đã quá quen nên
không cảm thấy quí nữa và nghĩ đó là chuyện tự nhiên phải đến. Nghe Chúa giảng
hay làm phép lạ lần đầu tiên, họ có thể sửng sốt và tin; nhưng nếu nghe và chứng
kiến nhiều lần, họ sẽ nhàm chán và mất đi niềm tin ban đầu.
(2) Kiêu căng và vọng
ngoại: Cái gì của người ngoài mới hay mới tốt; còn cái gì ở trong gia đình,
làng mạc, quốc gia thì xem thường (Nathanael nói: ở Nazareth thì có gì hay? Những
người Biệt phái tuy nhận ra sự khác thường nơi Chúa Giêsu; nhưng vẫn gạt đi và
nói: người này không phải con ông thợ mộc Giuse và bà Maria; và anh em của ông
không phải là người đồng hương với chúng ta sao? Và họ vấp phạm vì Ngài).
(3) Dạy và bắt thực
hành những gì họ không thích; nhất là bắt phải từ bỏ những gì họ đã quá quen
thuộc; nhất là lại tố cáo những bất công tội lỗi của họ. Con người có khuynh hướng
chiều theo những gì dễ thực hành và lối sống dễ dãi hưởng thụ hơn.
Đức tin nhờ phép lạ là
đức tin nhất thời. Chúa Giêsu nói với Thánh Thomas: “Phúc cho những ai đã không
thấy mà tin.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải sống mối
liên hệ mật thiết với Thiên Chúa, biểu tỏ qua cuộc sống công chính và bác ái với
tha nhân. Mọi lễ nghi bên ngoài sẽ vô ích nếu chúng ta không sống những mối
liên hệ này.
– Trong cuộc đời, chỉ
một mình Thiên Chúa là Người yêu chúng ta đích thực và các vô vị lợi. Chúng ta
đừng bao giờ phản bội tình yêu trung thành của Ngài.
– Chúng ta cần phải
luôn biết kính sợ Thiên Chúa. Ngài không phải như một con người để rồi khi đã
chán ngán chúng ta có thể gạt qua một bên. Ngài là Thiên Chúa duy nhất của cuộc
đời.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
23/07/18 – THỨ HAI TUẦN 16 TN
Th. Bi-ghít-ta, nữ tu
Mt 12,38-42
DẤU CHỈ YÊU THƯƠNG
“Quả thật, ông Giô-na đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba
đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm như vậy.”
(Mt 12,40)
Suy niệm: Chúa Giê-su mượn hình ảnh
tiên tri Giô-na để loan báo về chính cái chết của Ngài. Cũng như Giô-na đã vâng
phục Thiên Chúa đến rao giảng sự sám hối cho dân thành Ni-ni-vê, thì Chúa
Giê-su cũng vâng phục Chúa Cha: sống kiếp con người. Quả thật, Thiên Chúa đã chọn
con đường yêu thương để đến với con người. Ngài đã hóa thân làm người, sống trọn
vẹn kiếp người, rao giảng, chữa lành bệnh tật, chịu nạn, chết, sống lại để cứu
chuộc loài người. Vì thế, Chúa Giê-su là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa dành
cho con người qua muôn thế hệ đồng thời Ngài trở thành lời mời gọi chúng ta hãy
yêu thương nhau đó là dấu chỉ của môn đệ Chúa Ki-tô.
Mời Bạn: Người Ki-tô hữu luôn được
mời gọi để nhận ra những dấu chỉ yêu thương ấy trong cuộc sống của mình, không
những qua những hạnh phúc và may mắn, mà còn qua những mất mát, khổ đau thua
thiệt nữa. Nhận ra những dấu chỉ yêu thương của Thiên Chúa trong cuộc sống, bạn
được mời gọi để trở thành những dấu chỉ yêu thương của Ngài cho mọi người chung
quanh qua việc chấp nhận sống và vâng phục Thánh ý của Chúa giữa lúc hạnh phúc,
thành công hay tăm tối của cuộc sống, giữa đọa đày bách hại, ngõ hầu tiếp tục
chiếu sáng đức tin trong tín thác, yêu thương, phục vụ, tha thứ.
Sống Lời Chúa: Hãy yêu thương mọi người để
cứ dấu ấy mà người ta nhận biết chúng ta là môn đệ Chúa Giê-su.
Cầu nguyện: Đọc Kinh Thương
Người có 14 mối.
(5 Phút Lời Chúa)
Đòi dấu lạ (23.7.2018 – Thứ hai, tuần 16 Thường niên)
Suy niệm
Sinh trong một gia đình người Pháp giàu có, quý phái và đạo đức,
Anh Charles de Foucauld mất đức tin từ năm 16 tuổi.
Hai năm sau Anh học ở trường sĩ quan Saint-Cyr nổi tiếng của Pháp,
đã đi thám hiểm nước Ma-rốc ở châu Phi và được huy chương vàng.
Sau thời gian đó anh đã muốn suy nghĩ về đời mình.
Đời sống đạo đức của người chị em họ đánh động Anh nhiều.
Anh đi nhà thờ dù chẳng tin gì, chỉ thích lặp đi lặp lại lời nguyện này :
“Lạy Chúa, nếu Chúa hiện hữu, thì xin làm cho con nhận biết Chúa.”
Anh Charles de Foucauld mất đức tin từ năm 16 tuổi.
Hai năm sau Anh học ở trường sĩ quan Saint-Cyr nổi tiếng của Pháp,
đã đi thám hiểm nước Ma-rốc ở châu Phi và được huy chương vàng.
Sau thời gian đó anh đã muốn suy nghĩ về đời mình.
Đời sống đạo đức của người chị em họ đánh động Anh nhiều.
Anh đi nhà thờ dù chẳng tin gì, chỉ thích lặp đi lặp lại lời nguyện này :
“Lạy Chúa, nếu Chúa hiện hữu, thì xin làm cho con nhận biết Chúa.”
Chúa đã làm cho Anh nhận biết Ngài vào một ngày cuối tháng 10-1886.
Khi được chị họ giới thiệu với cha sở Huvelin ở Paris, anh đã xin học đạo.
Nhưng cha lại bảo anh vào tòa giải tội và xưng tội.
Anh ngần ngại, nhưng đã chấp nhận quỳ xuống,
và bất ngờ nếm được niềm vui khôn tả của người con lưu lạc trở về.
Đời Anh đã bắt đầu sang trang từ giây phút ấy.
Chúa đưa Anh trở lại không bằng những dấu lạ lùng,
nhưng qua bà chị họ đạo đức, qua cha sở Huvelin nhiều kinh nghiệm.
Ơn hoán cải của Anh không dựa trên những dấu lạ làm Anh ngất ngây,
nhưng đến từ khiêm nhường tìm kiếm và quỳ xuống đón nhận.
Chỉ ai biết quỳ xuống mới nhận ra dấu bình thường là dấu lạ.
Khi được chị họ giới thiệu với cha sở Huvelin ở Paris, anh đã xin học đạo.
Nhưng cha lại bảo anh vào tòa giải tội và xưng tội.
Anh ngần ngại, nhưng đã chấp nhận quỳ xuống,
và bất ngờ nếm được niềm vui khôn tả của người con lưu lạc trở về.
Đời Anh đã bắt đầu sang trang từ giây phút ấy.
Chúa đưa Anh trở lại không bằng những dấu lạ lùng,
nhưng qua bà chị họ đạo đức, qua cha sở Huvelin nhiều kinh nghiệm.
Ơn hoán cải của Anh không dựa trên những dấu lạ làm Anh ngất ngây,
nhưng đến từ khiêm nhường tìm kiếm và quỳ xuống đón nhận.
Chỉ ai biết quỳ xuống mới nhận ra dấu bình thường là dấu lạ.
Đức Giêsu không vui khi người Pharisêu và những người đương thời
muốn thấy dấu lạ và tìm kiếm dấu lạ (cc. 38-39).
Họ chờ mong một dấu lạ làm họ lóa mắt, gây ấn tượng mạnh,
khiến họ không thể chối cãi và buộc họ phải tin.
Tiếc rằng Đức Giêsu không bao giờ có ý muốn làm thứ dấu lạ như vậy.
Ngài không làm dấu lạ để biểu diễn quyền năng của mình trước con người.
Ngài chỉ làm dấu lạ để phục vụ nhu cầu con người và loan báo Nước Chúa.
Dấu lạ là dấu chỉ mời gọi chứ không cưỡng bức người xem phải tin.
Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ, nhưng họ vẫn không tin, vẫn đòi dấu lạ mới,
và còn bảo dấu lạ của Ngài là nhờ dựa vào tướng quỷ (Mt 12, 24).
Khăng khăng đòi dấu lạ cho thấy lòng họ dứt khoát từ chối Đức Giêsu.
Chẳng có dấu lạ nào làm họ thay đổi được cái nhìn về Ngài.
muốn thấy dấu lạ và tìm kiếm dấu lạ (cc. 38-39).
Họ chờ mong một dấu lạ làm họ lóa mắt, gây ấn tượng mạnh,
khiến họ không thể chối cãi và buộc họ phải tin.
Tiếc rằng Đức Giêsu không bao giờ có ý muốn làm thứ dấu lạ như vậy.
Ngài không làm dấu lạ để biểu diễn quyền năng của mình trước con người.
Ngài chỉ làm dấu lạ để phục vụ nhu cầu con người và loan báo Nước Chúa.
Dấu lạ là dấu chỉ mời gọi chứ không cưỡng bức người xem phải tin.
Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ, nhưng họ vẫn không tin, vẫn đòi dấu lạ mới,
và còn bảo dấu lạ của Ngài là nhờ dựa vào tướng quỷ (Mt 12, 24).
Khăng khăng đòi dấu lạ cho thấy lòng họ dứt khoát từ chối Đức Giêsu.
Chẳng có dấu lạ nào làm họ thay đổi được cái nhìn về Ngài.
Đức Giêsu đã từng trách các thành vùng Galilê vì họ không sám hối (Mt
11,20).
Nay Ngài cũng quở trách một số người Pharisêu như vậy.
Vào ngày phán xét, chính dân Ninivê và Nữ Hoàng Phương Nam sẽ kết án họ,
vì họ đã cứng lòng không tin Đức Giêsu (cc. 41-42).
Nay Ngài cũng quở trách một số người Pharisêu như vậy.
Vào ngày phán xét, chính dân Ninivê và Nữ Hoàng Phương Nam sẽ kết án họ,
vì họ đã cứng lòng không tin Đức Giêsu (cc. 41-42).
Làm thế nào chúng ta nhận ra những dấu lạ Chúa vẫn làm cho đời ta,
để ta không đòi hỏi thêm dấu lạ nữa,
nhưng mãn nguyện với những gì mình nhận được?
Làm thế nào để chúng ta hạnh phúc
vì vẫn được nghe giảng bởi chính Đấng còn hơn Giôna nữa,
vẫn được tiếp xúc với Đấng còn khôn ngoan hơn vua Salômôn nữa?
Lời nguyện
để ta không đòi hỏi thêm dấu lạ nữa,
nhưng mãn nguyện với những gì mình nhận được?
Làm thế nào để chúng ta hạnh phúc
vì vẫn được nghe giảng bởi chính Đấng còn hơn Giôna nữa,
vẫn được tiếp xúc với Đấng còn khôn ngoan hơn vua Salômôn nữa?
Lời nguyện
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
Cha cương quyết không ban
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
22 THÁNG BẢY
Chính Thiên Chúa Chọn
Chúng Ta Trước
Sự tiền định đi trước
cả sự tạo thành vũ trụ. Bằng việc áp dụng những loại suy của ngôn ngữ con người
vào sự sống thần linh, chúng ta có thể nói rằng trước hết Thiên Chúa muốn thông
truyền chính Ngài – trong thần tính của Ngài – cho con người, bởi vì con người
được mời gọi trở thành hình ảnh của Ngài và giống như Ngài trong thế giới thụ tạo.
Tiên vàn, trong người Con Vĩnh Cửu của Ngài, Thiên Chúa chọn con người để con
người tham dự vào chức phận làm con ấy nhờ ân sủng. Rồi, Thiên Chúa muốn thu họp
tất cả thế giới thụ tạo về với chính Ngài trong Đức Kitô.
Như vậy, mầu nhiệm tiền
định hoàn toàn hòa hợp với toàn bộ kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa. Mạc khải
về kế hoạch vĩ đại này vén mở trước mắt chúng ta viễn tượng về Vương Quốc của
Thiên Chúa. Nó dẫn chúng ta đến chính trung tâm của Vương Quốc này – ở đó chúng
ta khám phá ra mục đích tối hậu của công cuộc tạo dựng. Chúng ta hiểu Thiên
Chúa muốn gì.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 23/7
Thánh Birgitta, nữ
tu
Mk 6,1-4.6-8; Mt
12, 38-42.
LỜI SUY NIỆM: “Bấy giờ có mấy
kinh sư và mấy người Pharisêu nói với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi muốn
thấy Thầy làm một dấu lạ.”
Chúa Giêsu đã không đưa ra một dấu lạ nào khi các kinh sư và người Pharisêu đòi
hỏi, nhưng Người đã lên án họ là những con người đã bất trung với Thiên Chúa.
Và người đưa ra câu chuyện ngôn sứ Giona với dân thành Ninivê, để khẳng định với
họ, Người là một dấu lạ của Thiên Chúa, và lời Người là sứ điệp của Thiên Chúa,
chính Người mang đến cho họ. Mọi người cần phải đón nhận và phải sám hối, hoán
cai để khỏi phải bị kết án.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là dấu lạ của Thiên Chúa, trong Chúa chúng con được đối diện
với Chúa Cha. Xin cho mỗi người chúng con luôn học và khám phá ra Chúa hiện diện
trong đời sống chúng con, và nơi mỗi người anh em chúng quanh chúng con, để
chúng con yêu thương và phục vụ lẫn nhau với sự khiêm nhường và tha thứ cho
nhau, vì tình yêu kính tôn thờ Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 23-7: Thánh
HENRI
(973 – 1024)
Thánh Henri sinh năm
972. Cha Ngài là Henri bá tước xứ Bavière. Mẹ Ngài là Gisèle, con gái của
Conrad, vua miền Bourgogne. Để bảo đảm cho việc giáo dục con cái, Ngài được mẹ
giao phó cho các thầy dòng ở Mildeshim, miền Saxe, rồi sau đó cho thánh
Wolfgang, giám mục Ratisbonne.
Nhưng thật rủi ro,
trong một năm, Henri đã chịu hai cái tang cha và thầy.
Thánh Wolfgang từ trần
ngày 30 tháng 10 năm 994 và vua Henri từ trần ngày 28 tháng 12 năm 994. Tuy
nhiên ở bên kia thế giới các Ngài dường như không ngừng săn sóc Henri. Một truyền
thuyết kể rằng: Henri đã mơ thấy thánh Wolfgang hiện ra viết trên tường nhà thờ
hai chữ “còn sáu”. Tỉnh dậy, Henri nghĩ rằng mình chỉ còn sống được sáu ngày nữa.
Ngài vội vã bố thí rộng rãi để chuẩn bị ra trước tòa Chúa. Nhưng rồi hạn định
đã qua Henri vẫn sống. Vị bá tước nghĩ rằng Ngài còn sáu tháng để làm việc
lành. Sáu tháng trôi qua Ngài vẫn sống. Lần này Ngài nghĩ thời hạn kéo dài 6
năm và cố gắng sống hoàn hảo hơn nữa. Sau 6 năm trong trường nhân đức ấy, Henri
bỗng được chọn làm hoàng đế nước Đức -Roma.
Trước khi lên ngai
hoàng đế, Henri đã kế vị người cha từ trần, lên làm bá tước miền Bavière. Các
lãnh Chúa thân thiết với Ngài. Dân chúng cũng cảm mến Ngài sâu xa. Họ ao ước bá
tước trẻ của mình lập gia đình. Nhưng Ngài đã hứa với Chúa sẽ sống độc thân. Vì
vâng lời mẹ và dưới áp lực của các lãnh Chúa. Ngài nhận cưới Cunégonda, một thiếu
nữ trong số 11 người con của công tước miền Luxembourg.
Nàng có sắc đẹp mặn mà
và nhiều đức tính làm cho mọi người mến phục. Sau các lễ nghi cưới hỏi, lúc về
chốn riêng tư, Henri mở lời với người bạn đời: – Em yêu, anh không muốn em
không hay biết rằng anh đã thề với Chúa sẽ hiến dâng hồn xác phụng sự Ngài, và
vì tình yêu Chúa Giêsu Kitô, anh muốn tiếp tục hoàn toàn.
Và Cunégonde vui sướng
trả lời: – Chúa công của em, lời khấn hứa, em cũng đã hứa rồi. Thật hạnh phúc,
chúng ta có thể trung thành với những ước nguyện của chúng ta.
Đó là đám cưới tinh
tuyền của Henri và Cunégonde. Hoàng đế Henri lên ngôi và được Đức Giám mục
thành Mayence xức dầu phong vương năm 1002. Mấy hôm sau hoàng hậu Cunégonde
cũng được truy phong và đội triều thiên ở giáo đường Paderbonne. Với tính tình
vui vẻ, bình dân và đầy lòng bác ái, hoàng đế rất được dân chúng mến chuộng.
Nhưng đế quốc Đức – Roma lúc ấy đang thời suy vong và tình hình rất phức tạp.
Vì thế việc đầu tiên của hoàng đế là lo giải hoà các cuộc tranh chấp. Trước hết,
Ngài nhường quyền bá tước miền Bavière chi Henri, người Luxembourg.
Tuy nhiên có thể nói rằng:
suốt đời hoàng đế, Ngài luôn phải lo vãn hồi trật tự trong đế quốc. Ngay khi
lên ngôi hoàng đế, Ngài mang quân sang chinh phục đất Ý, là nơi Arduin tự phong
làm vua, tách rời khỏi đế quốc. Dẹp tan đối phương ở biên giới, gần núi Alpes,
Ngài đã được dân chúng tưng bừng đón rước. Đức Tổng Giám mục Milanô phong vương
cho Ngài tại Pavie. Trở về nước Ngài lại phải đối phó với Boleslaw, xứ Balan. Mấy
năm sau, Boleslaw bị quân nhà vua đánh tan và Jarômia lên quản trị xứ Balan.
Bất đắc dĩ, vua Henri
mới phải dùng đến binh lực, nhưng Ngài luôn tỏ ra nhân từ. Chẳng hạn Hermann vì
muốn tiếm ngôi, đã đốt phá thành Strabourg. Trước lời khuyên nên trả thù thành
phố dung dưỡng Hermann, hoàng đế trả lời: – Thiên Chúa trao quyền tối thượng
cho ta, không phải là mang đến quanh ta những sát nhân và cướp bóc, nhất là
không phải để cho ta phải thiệt mất linh hồn.
Lời này đến tai
Hermann và ông ta hối cải.
Hoàng đế Henri bảo vệ
Đức giáo hoàng Bênêditô chống lại đức giáo hoàng giả. Nhờ Ngài. Đức giáo hoàng
nghĩ tới một Giáo hội trần thế, đã trao cho Ngài một trái cầu bằng vàng có cắm
thánh giá để biểu trưng quyền hạn trao phó của Ngài, lo cho vương quyền Chúa
Kitô phổ biến khắp muôn dân. Trở lại quốc gia, Ngài vội lo dẹp loạn ở
Lombardie. Rồi với nhiệt tình, Ngài đã viếng tu viện Cluny. Ơ đó cầu nguyện lâu
ngày và tặng cho tu viện món quà của Đức giáo hoàng.
Hoàng đế sống trong
cung điện như trong tu viện và chỉ nghĩ tới hòa bình và đức ái. Ngài góp phần cải
hóa dân Hungarie bằng việc gả em gái mình cho vua thánh Stêphanô. Để gây thuận
hòa giữa các dân tộc, Ngài thực hiện cuộc gặp gỡ vua Robert nước Pháp. Đối với
Giáo hội, Ngài lo trùng tu các thánh đường, giúp đỡ các giám mục. Đặc biệt hơn
cả, Ngài đã thành lập giáo phận Banberg và chính tại nhà thờ chính tòa giáo phận
này Ngài sẽ được mai táng.
Trên ngôi hoàng đế,
Ngài luôn trung thành với lý tưởng. Giữa muôn công việc bề bộn, Ngài luôn dành
thời gian cho việc cầu nguyện. Tương truyền rằng ao ước lớn lao nhất của Ngài
là được sống trong tu viện. Lần kia, Ngài tới thăm tu viện thánh Vanne ở
Verdun. Ngài đã xin với chân phước Richasd, tu viện trưởng nhận Ngài làm tu sĩ.
Đức Đan viện phụ nói rằng: chỗ an toàn của vị hoàng đế là ở trên ngai tòa hơn
là ở trong tu viện. Khi thấy vị hoàng đế khẩn nài, Đức Đan viện phụ hỏi: – Ngài
có sẵn sàng thực hiện đức vâng lời cho đến chết không ?
Hoàng đế Henri cương
quyết trả lời: – Con sẵn sàng.
Đức Đan viện phụ liền
nhận Ngài như một tu sĩ của dòng và nhân danh đức vâng lời, truyền cho Ngài cai
quản đế quốc để hiến thân tìm vinh quang Chúa và ông cứu rỗi cho thần dân.
Ngày 15 tháng 7 năm
1024 hoàng đế Henri từ trần, ai khi đã dùng trọn sức lực để xây dựng một đế quốc
theo tinh thần Kitô giáo.
(daminhvn.net)
23 Tháng Bảy
Những Lọ Ðựng Muối Tiêu
Sưu tầm là một giải
trí rất phổ thông hiện nay. Người ta sưu tầm tem, nhãn hiệu, lon bia, chai lọ,
sách quý… và lâu lâu đem triển lãm.
Tại một nhà thờ nọ
tại Chicago bên Hoa Kỳ, trong một cuộc triển lãm các vật sưu tầm, người ta thấy
có cả một khu dùng để triển lãm các lọ đựng muối tiêu. Một ông khách nọ vừa bước
vào, sau khi mua một cái bánh Hamburger ở cửa vào, đã vội vã đi một vòng quan
sát. Khi tới khu triển lãm các lọ đựng muối tiêu, ông mới sực nhớ ra cái
Hamburger của mình nhạt quá. Thế là ông đã cầm lấy một lọ muối và xốc nhiều lần.
Nhưng xốc đến lọ thứ mười hai mà ông vẫn chưa thấy muối. Ông đành phải trở lại
cửa xin người bán hàng cho ít muối và phàn nàn: “Gần hai trăm cái lọ muối thế
kia mà không có lấy một hột muối”.
Ðó là hình ảnh của cuộc
đời Kitô chúng ta. Mang lấy danh hiệu là muối đất, nhưng lắm lúc chúng ta chỉ
là những lọ trống không. Muối dùng để ướp đồ ăn cho khỏi ươn thối. Muối dùng để
sát trùng, chữa những vết thương. Muối dùng để nêm cho thức ăn được thêm đậm
đà…
Trong một xã hội đang
thối rữa vì những tệ đoan, người Kitô cần phải là muối để thanh tẩy và đem lại
cho cuộc sống thêm đậm đà hương vị. Một lời nói, một hành động của chúng ta, nếu
có chút muối của Ðức Tin, Ðức Ái sẽ mang lại cho những người xung quanh niềm
vui và sức sống.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét