Yêu Thương trong Kytô-Giáo
Hoành sơn
“Cha yêu Thầy thế nào, Thầy cũng yêu anh em như vậy. Hãy ở
lại trong tình thương của Thầy”. (Gio.15.9)
Thiên Chúa Cha yêu Con thế nào,
hẳn là không tưởng tượng nổi. Thế mà Đức Kytô yêu chúng ta như thế đấy. Và chỉ
có “người đệ tử mà Đức Giêsu thương”, tức Gioan, kẻ tựa đầu trên ngực Chúa
trong bữa Tiệc Ly biệt, đã phần nào cảm nhận nổi bề sâu và bề cao của Tình Thầy,
và qua đó bề sâu và bề cao của Tình Cha, nên trong một xuất thần linh hứng, đã
thốt lên :-“Thiên Chúa là Tình Yêu (ho theos agapê estin) !” (1 Gio.4.9). Vâng,
không phải Thiên Chúa yêu, mà Ngài là Tình Yêu. Nói cách khác, Yêu thương là bản
chất (bản tính) của Ngài! Do đó, không yêu anh em thì không hiểu Ngài (1
Gio.4.8).
Chính vì Thiên Chúa là Tình yêu,
nên mệnh lệnh hay con đường (Đạo) mà Con Ngài mang từ Trời đến là :”Hãy yêu
nhau như Thầy đã yêu anh em !” (Gio.15.12). Mà Thầy đã yêu thế nào, tới mức
nào? Thầy đã chết bằng cái chết đau đớn nhất và ô nhục nhất để cứu chúng ta khỏi
sự tội và sự chết! Và do đó, Thập tự nói lên cái mức vượt mức của Tình yêu nói
trên. Nói cách khác, Thánh giá là biểu hiện đặc thù của Tình yêu chính hiệu
Kytô giáo!
Để hiểu rõ hơn cái Tình yêu đặc
sản Kytô-giáo này, chúng ta có thể mang so sánh nó với yêu thương trong các tôn
giáo khác và trong những truyền thống luân lý phi tôn giáo.
Yêu thương trong các tôn giáo bạn
và trong những nền luân lý phi tôn giáo
Có hai truyền thống luân lý phi
tôn gáo là Socrate bên Tây và Nho-Lão bên Đông. Còn về tôn giáo thì có hai cái
nôi lớn là : (a) Cận-Trung đông với Do thái giáo, Kytô giáo, Hồi giáo; (b) Nam
Á với Bà la môn giáo, Ấn độ giáo, Kỳ na giáo và Phật giáo.
Socratês (470-399 TCN) bên Hy lạp
nghĩ rằng : Con người gồm hai thành phần : Xác thuộc đại cơ thể Vũ trụ, Hồn hay
trí năng thuộc Đại trí năng tối cao. Do đó, với con người cũng có hai thứ hạnh
phúc : khoái lạc thấp hèn của xác, và hạnh phúc siêu tuyệt của hồn. Hạnh phúc
này nằm ở đức hạnh. Vì hồn là trí năng, nên đạo đức có trí tính. Do đó, chỉ kẻ
ngu dốt mới làm bậy. Và để con người trở nên đạo hạnh, chỉ cần giúp nó trở về với
nội tâm vốn sáng suốt, theo nguyên tắc “Tự biết mình” (gnôthi seauton,
connais-toi toi-même). Vâng, việc của ông thầy chỉ là “đỡ đẻ”, nghĩa là giúp đệ
tử tự hiểu lấy mình, để thấu triệt chân lý đạo đức, nhờ đó có hạnh phúc thiêng
liêng.
Có điều nếu đạo đức, dù là trong
ái nhân, chỉ vì hạnh phúc của riêng mình, thì chưa phải là yêu người đến quên
thân!
Về phía Cực Đông hay Đông Á xưa
kia, Khổng Tử (551-478 TCN) cho rằng Mệnh Trời đã chiếu in thành Tính nơi tâm
trí con người, nên chỉ việc nhìn sâu vào mình sẽ hiểu được Đạo Trời. Thế mà Đạo
hay Đức Trời đất, đó là Sụ sống : “Thiên địa chi đại đức, viết Sinh”. Nên sống
theo đạo trời đất thì phải bồi bổ cho sự sống. Thế nhưng giữa các sinh vật, con
người vượt hẳn lên trên, “nhân linh ư vạn vật”. Vì thế, sống theo lương tri,
người quân tử trọng chữ Nhân. Sống Nhân thì phải khắc kỷ (bỏ tư dục) mà
yêu người (ái nhân). Có điều Ái nhân đến mức độ nào, thì Đức Khổng chỉ nêu lên
nguyên tắc :”Sở kỷ bất dục, vật thi ư nhân (cái mình không ham, đừng làm cho
người)” (Luận ngữ : Nhan Uyên XII}, nghĩa là yêu Bằng mình, chứ
chưa phải quên mình, hi sinh chi cả.
Nếu Khổng Tử chủ trương lấy đức
hóa dân, thì Lão Tử dùng cách “Vô vi”, cứ để dân sống theo Tự nhiên, như “xích
tử (con đỏ)”, thì mọi cái sẽ xuôi êm, mọi người đều an lạc. Vì tự bản chất, mỗi
người đã hướng về Đạo mà nên thanh thoát, thẳng ngay và thực thà.
Bởi thế, nguyên tắc sống của Đạo
đức kinh là Phác (chất phác), nghĩa là đơn sơ theo tự nhiên, ít tư
riêng nên bớt ham muốn :”thiển tư, quả dục”. Và như vậy sẽ luôn thỏa mãn về những
gì mình có :”Tri túc giả phú” (thấy đủ, đó là giầu rồi).
Còn trong quan hệ với người
khác, thì Đạo đức kinh nhấn vào Bất tranh và Từ (LXVIII). Không tranh giành giống
như nước, thì chẳng thiệt hại chi cả. Còn Từ là một tình thương hướng về hết thảy,
bởi Đạo Trời không thiên vị ai. Riêng đối với kẻ thù, nếu Khổng tử dạy “dĩ trực
(lấy ngay thẳng mà) báo oán”, thì Lão tử gần lại với Kytô giáo hơn do chủ
trương “dĩ đức báo oán”. Gần hơn thôi, khi mà Chúa Kytô đòi phải yêu kẻ thù và
làm ơn cho kẻ làm hại mình (Luc.6.27vt.). Đúng là Đạo đức kinh cũng chủ trương
“hậu kỳ thân” (để thân lại đằng sau), nhưng chỉ là “nhi thân tồn” (để còn
thân), thế thôi.
*
Sau khi đã xem xét những truyền
thống luân lý phi tôn giáo bên Đông cũng như bên Tây, nay chúng ta quay sang chủ
trương yêu mến trong các tôn giáo bạn.
Hãy bắt đầu với Ấn Độ, từ đó xuất
phát Bà la môn giáo, Ấn Độ giáo có tính đại chúng, Kỳ na giáo (Jaina) và Phật
giáo với khởi phát chỉ là con đường tu hành thôi.
Ấn độ giáo đại chúng phân đôi,
thành Shiva-giáo thờ Shiva làm Thượng thần, và Vishnu-giáo thờ Vishnu. Còn Bà
la môn giáo xuất khởi từ Áo nghĩa thư, để rồi từ Áo nghĩa thư suy tư và tu luyện,
làm nên những nền triết học Vedânta, để rồi quán định theo, sao đạt tới đại định,
hay huyền nghiệm, nó giải thoát tu nhân đắc đạo.
Dù ở trong Shiva-giáo hay Vishnu
giáo, một số người thuộc tập cấp (caste, varna) cao vẫn đi ẩn tu theo đúng luật.
Những con đường tu luyện khác nhau được gọi là Yoga (Đạo), trong đó có
Hatha-yoga (Mãnh lực-đạo), Dhyâna-yoga (Thiền-đạo),v.v… Ngoài việc chuyên tâm
quán định, tu nhân còn phải tuân giữ một thứ luân lý xuất thế với những đức như
trong sạch, khổ hạnh, không vấn vương được vun trồng.
Và như thế, người tu hành chỉ
tìm giải thoát cho bản thân, nên cũng không bàn đến chuyện nhân nghĩa hay quan
hệ tốt với thần thánh và người ngoài. Có điều sau công nguyên, Vishnu-giáo
nghiêng theo Bhakti (sùng mộ), có lẽ do ảnh hưởng của Kytô giáo, nên cố trau dồi
lòng kính mến đến phó thác (prapatti) đối với Thượng thần, trong khi Thượng thần
cũng ban ân sủng (prasâda) cho những người mộ đạo ấy.
Xuất phát từ Ấn Độ, tỳ kheo Phật
giáo coi tất cả là hư không và cố xa lìa cái ngã khi diệt bỏ tham-sân cho cõi
lòng thanh thoát, hầu đạt giác ngộ (buddhatva). Có điều Phật giáo cũng chủ
trương “từ bi vô lượng”. Từ bi không chỉ là Luật (Vinaya), mà còn là Pháp
(Dharma), như Đức Phật căn dặn các tỳ kheo trong chương XXI của Majjhima-nikâya
(Trung bộ kinh) như sau :
-“…chúng ta phải sống Từ và Bi,
lòng thì lân ái, bao bọc người khác trong sự yêu thương của mình, rồi từ người ấy
bao phủ cả thế giới trong một yêu thương bất tận, vượt mọi giới hạn, không mảy
may ghét hận chi cả…”
Chủ trương Từ-Bi nói trên sẽ lớn
mạnh hẳn lên trong tông phái Đại thừa, khiến nhà sư Phổ Hiền phải tuyên bố như
sau :
-“Đại Bi là nền tảng của tất cả
Phật Pháp!”
Vâng, theo ông, chẳng những Từ-Bi
thuộc Pháp, mà còn là “nền tảng của tất cả Phật Pháp”.
Từ (Maitri) là lòng nhân ái nó
biểu hiện bằng việc tận tình giúp đỡ. Đức Từ ấy sẽ chuyển thành Bi (Karunâ), tức
xót thương đứng trước những khổ đau của người trần. Sự Từ-Bi nói trên mở rộng về
phía hết mọi chúng sinh, bất kể người hay thú.
Phật giáo cũng nói “Tứ vô lượng
tâm”, tức Từ-Bi-Hỉ-Xả.
Bắt đầu, Hỉ (Priti) chỉ nhắm sự
an lạc ở tâm do tu tập mà thành; còn Xả (Upekshâ) chỉ là Bỏ qua, không vấn
vương chi hết. Thế nhưng sau này trong Đại thừa, Hỉ biến thành vui vì hạnh phúc
của người khác; còn Xả là hy sinh bản thân, giống Đức Phật rời bỏ Niết-bàn để
xuống trần cứu nhân độ thế.
Vì coi Từ-Bi-Hỉ-Xả là Dharma
quan trọng nhất, nên nghe nói từ trong Đại thừa nổi lên những Bồ tát
(Bodhi-sattva), những vị tuy giác ngộ rồi vẫn muốn ở lại trong xác phàm giữa
dương thế để cứu vớt sinh linh. Ngoài ra, người ta còn sáng chế lối tu Bồ tát
cho cả tỳ kheo lẫn tín đồ với phát nguyện : độ trì mọi chúng sinh, chứ không
tìm an lạc cho riêng mình.
Xem như thế, giữa các tôn giáo Ấn
Độ, Phật
giáo ,
nhất là trong tông Đại thừa, đã xích gần chủ trương yêu người đến quên
mình của Kytô giáo chúng ta. Dẫu sao, trong Phật giáo nói chung, vấn đề thoát tục
để tự tu hành đắc đạo vẫn là mối quan tâm chính yếu cho bản thân tỳ kheo!
*
Bây giờ, chúng ta hãy quay sang
vùng Cận-Trung đông với Do Thái giáo và Hồi giáo.
Hồi giáo nổi lên từ thế kỷ VII,
vì chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi Do thái giáo, nên về mặt quan hệ với tha nhân, họ
cũng chủ trương như Do thái giáo, là chỉ đối xử tốt với người đồng đạo thôi.
Riêng đối với Đấng tối cao Allah, xem ra họ chỉ có lòng tôn kính.
Trong Do thái giáo thì có luật :
Phải “yêu Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết mình, hết sức lực” (Đnl.6.5)
và “yêu người thân cận như chính mình” (Lv.19.18).
Như vậy, về Ái nhân, chỉ phải
yêu thương đồng bào Do Thái và người láng giềng đã được Do thái hóa qua cắt bì
và giữ luật Thorah. Còn với người ngoại thì người ta thù ghét và khinh bỉ.
Riêng mức yêu người… như mình, thì cũng chỉ ngang với nguyên tắc Khổng tử đề xuất
là ”Sở kỷ bất dục, vật thi ư nhân”.
Còn yêu thương trong Kytô giáo?
Thiên Chúa đã yêu ta đến nỗi cho
Con Ngài nhập thể làm người, để nơi (trong) Đức Giêsu chúng ta trở thành con
Thiên Chúa, khiến từ đây chúng ta có thể hướng về Trời mà thưa “Lạy Cha chúng
con…”.
Vâng, nhập thể đây là một nhập
thể toàn vẹn, dứt khoát và vĩnh viễn, chứ không hời hợt như Vishnu, đã làm người
nơi Krishna, Râma, rồi cả mấy chục nhân vật tiếp theo nữa, làm như thay áo vậy.
Ngoài ra, những con người này chỉ đánh giết, chứ không chịu giết để cứu người
như Chúa Kytô.
Vâng, chính nhờ cái chết và sự
phục sinh của Chúa, sau đó qua phép dìm để “chôn đi với Chúa và sống lại với
Ngài”, con người được Chúa Thánh Thần tới kêu lên bên trong “Abba, Cha” để thực
thụ thành con Thiên Chúa.
-Thiên Chúa yêu thương con
người
Cả vũ trụ bao la, rộng tới trên
13 tỷ năm ánh sáng này, Thiên Chúa đã tạo nên nó chỉ vì con người bé nhỏ trên một
trái đất cũng quá nhỏ. Thiên Chúa lại còn tạo nên con ngườ theo hình ảnh của
mình. Và khi ấy, xem ra Thiên Chúa đã nhìn vào Con Thiên Chúa sẽ thành người là
Đức Giêsu Kytô để tạo nên con người theo hình ảnh A dong mới ấy. Quả vậy, khi
diễn giải câu “Đức Kytô là hình ảnh Thiên Chúa vô hình” của thánh Phaolô trong
2Cor.4.4 và Col.1.15, các giáo phụ cho rằng ngay khi sáng tạo con người theo
hình ảnh Ngài, Thiên Chúa đã ngắm chính Con Ngài thành người như khuôn mẫu cho
việc tô nặn A dong. Nghĩa là ngay khi tạo nên những con người đầu tiên,
Thiên Chúa Cha đã yêu họ như con trong Đức Giêsu Kytô rồi. Nói chi đến lúc Con
Cha đã nhập thể, qua cái chết, phục sinh và phép thánh tẩy, đã khiến ta trở
thành con Cha tỏ tường!
-Tình yêu của ta đối với Cha
và Chúa
Cha và Chúa yêu tôi đến thế, lẽ
nào tôi không tri ân và cố đáp đền cho xứng. Thế nhưng là kẻ nghèo hèn và tội lỗi,
sao tôi có thể xứng đáng và có khả năng yêu lại Đấng Tối cao. Sự xứng đáng và
khả năng ấy Thiên Chúa đã đặt sẵn trong tôi rồi. Và đây là ân sủng. Phải, ân sủng
có hai mặt : chủ tạo và thụ tạo. Về mặt chủ tạo hay vô tạo, đó là chính Thiên
Chúa yêu tôi (kharizomai) từ sâu trong tâm hồn tôi, để biến tôi thành
Đáng yêu (kharis) và Đang yêu, tức có Đức Ái siêu nhiên để yêu Thiên Chúa và
yêu anh em mình trong Chúa. Cái động năng Yêu ấy cần phải có sự cố gắng hợp tác
của tôi với tác động Chúa Thánh Thần, thì mới được khai triển và tăng trưởng,
khiến tôi cảm nhận được phần nào, và ân sủng theo đó cũng lớn lên.
Nhờ ân sủng Chúa Kytô, tôi có thể
yêu siêu nhiên, yêu Chúa và yêu Cha trong Chúa và nhờ Chúa, yêu theo Chúa và
cùng với Chúa. Mà Chúa yêu Cha thế nào? Từ tâm tưởng đến lời nói và hành động,
Chúa chỉ sống cho Cha, vì Cha và trong Cha. Vâng, sống với Chúa là Cha, nên
nhìn vào Chúa, không thể không thấy Cha, như Chúa trả lời khi Philipphê thắc mắc:
-“Thầy ở với anh bấy lâu, mà hỡi
Philipphê, anh không biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Cha đấy. Anh không tin
Thầy ở nơi Cha và Cha ở nơi Thầy sao?…” (Gio.14.9vt.).
Lại nữa, sống vì Cha, Chúa cũng
chỉ làm theo ý Cha, khiến cho Mẹ Thầy và anh em Thầy là “kẻ thi hành ý muốn của
Cha Thầy” (Mt.12.50). Nên yêu Cha theo Chúa thì cũng phải luôn tìm sống theo ý Thiên
Chúa.
-Tình anh em đối với nhau
Để yêu Chúa và được Chúa bảo bọc
trong tình thương của Chúa, thì môn đồ phải giữ mệnh lệnh của Chúa là yêu
thương nhau như Thầy đã yêu chúng ta (Gio.15.9-13).
Chúa đã yêu chúng ta thế nào ?
Chúa là Con Thiên Chúa đã nhập thể làm ngườii để mang lấy số phận khốn khổ của
loài người, để rồi chịu thảm hình Thập giá để cứu vớt chúng ta. Cho nên, yêu
như Chúa yêu, thì chúng ta phải sẵn sàng hy sinh mạng sống vì anh em. Thập giá
vừa biểu thị Yêu đến hy sinh của Chúa, vừa nói lên mức độ yêu Chúa và yêu nhau
trong Chúa của các môn đệ khi mà môn đệ cũng phải vác thánh giá theo Thầy. Cho
nên, ngay từ đầu trong Giáo hội, Làm chứng (martureô) luôn có nghĩa là tử đạo
(martus, martyr), chết vì Chúa hay vì anh em trong Chúa.
Tổng kết
Trong mấy tôn giáo xuất phát từ Ấn
Độ, mỗi tỳ kheo tu luyện để đắc đạo cho mình, chứ không cần yêu thương
tha nhân chi mấy. Trái lại, Trong Kytô giáo không thể có cứu độ nếu không bằng
yêu thương : yêu Thiên Chúa và yêu anh em mình. Chẳng những Kytô hữu phải yêu
nhau, mà còn hiệp nhất với nhau, như Cha và Chúa là một với nhau
(Gio.17.11vt.). Và sự “ý hợp tâm đầu” (homothumadon) ấy đã thành sự thực ngay từ
đầu trong Hội thánh (Cv.2.46; 4.32,v.v…) khi mà mỗi tín hữu mang thức ăn của
mình đến bỏ ăn chung, và hếu có gia sản thì bán đi để chia cho người không có.
Thế rồi, nếu Do thái giáo chỉ dạy
yêu người thân cận, thì với Kytô giáo, người thân cận là mọi người không phân
biệt. Thậm chí điều khó nhất là yêu kẻ thù, mà Kytô hữu đã làm được như thế, bắt
đầu với Stêphanô cầu ơn tha thứ cho kẻ giết mình.
Lòng yêu người ấy đã trở nên đặc
sản chính hiệu Kytô giáo, khi mà ngay từ đầu, Giáo hội đã chăm lo, nuôi nấng
các bà góa neo đơn. Và sau này, các cô nhi viện, bệnh viện và viện dưỡng
lão được xây dựng khắp chốn. Thậm chí những người mang bệnh truyền nhiễm như
phong cùi, AIDS cũng được trao cho các nam nữ tu chăm sóc. Gần đây, tu hội Thừa
sai Bác ái do Mẹ và Thánh Têrêsa Calcutta sáng lập đã phủ bóng khắp năm châu để
đón và tận tình săn sóc những kẻ bị xã hội bỏ rơi, những người già hấp hối ở vỉa
hè. Cũng gần đây nữa, một tù nhân Đức Quốc xã đã xin chịu chết thay cho một
tù nhân không quen biết : cha và thánh Maximilianô Kolbê!
Một yêu thương đến hy sinh mạng
sống đã thành sự thực trong Kytô giáo từ bao đời nay, khiến cho, theo giáo phụ
cho biết, người ngoài đã bỡ ngỡ phải hỏi nhau : -Sao họ có thể thương yêu nhau
như thế?
Dĩ nhiên là trong Ky tô giáo
cũng có từ bỏ, khổ hạnh và siêu thoát như trong Bà la môn giáo, Phật giáo,
nhưng từ bỏ chỉ là để thuộc trọn về Chúa, siêu thoát là để sursum corda, tức hướng
lòng về phía Trời, trong khi các đức luân lý, ở đỉnh cao của chúng, được coi
như những thể hiện muôn mầu của Đức Ái nó khiến ta gắn bó với Cha, Chúa và anh
em.
Kytô giáo là Đạo của Yêu thương
khi mà chính Thiên Chúa của Kytô giáo đã là Yêu thương viết hoa. Và có lẽ, vì
Ngài là Yêu thương từ bản chất, nên Ngài cũng là ba cái Tôi (bản vị) được xướng
lên trong yêu thương nữa. Nói cách khác, mầu nhiệm Ba Ngôi cũng là mầu nhiệm
Thiên Chúa-Tình yêu vậy!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét