29/07/2018
Chúa Nhật tuần 17 Thường Niên năm B
(phần I)
Bài Ðọc I: 2 V 4, 42-44
"Họ ăn xong mà
hãy còn dư".
Trích sách Các Vua quyển
thứ hai.
Trong những ngày ấy,
có một người từ Baal-salisa mang đến dâng cho Êlisê, người của Thiên Chúa, bánh
đầu mùa, hai mươi chiếc bánh mạch nha và lúa mì đầu mùa. Người của Thiên Chúa
liền nói: "Xin dọn cho dân chúng ăn". Ðầy tớ của người trả lời:
"Tôi dọn bấy nhiêu cho một trăm người ăn sao?" Nhưng người ra lệnh:
"Cứ dọn cho dân chúng ăn, vì Chúa phán như sau: 'Người ta ăn rồi mà sẽ còn
dư'". Ðoạn người dọn cho họ ăn mà còn dư đúng như lời Chúa phán.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 10-11.
15-16. 17-18
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa mở rộng bàn tay ra, và thi ân cho
chúng con được no nê (c. 16).
Xướng: 1) Lạy Chúa, mọi
công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng
Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của
Ngài. - Ðáp.
2) Muôn loài để mắt cậy
trông vào Chúa, và Ngài ban lương thực cho chúng đúng theo giờ. Chúa mở rộng
bàn tay ra, và thi ân cho mọi sinh vật được no nê. - Ðáp.
3) Chúa công minh
trong mọi đường lối, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. Chúa gần gũi những
kẻ kêu cầu Ngài, mọi kẻ kêu cầu Ngài cách thành tâm. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Ep 4, 1-6
"Chỉ có một
thân thể, một Chúa, một đức tin và một phép rửa".
Trích thư Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, tôi
là tù nhân trong Chúa, tôi khuyên anh em hãy ăn ở xứng đáng với ơn kêu gọi anh
em đã lãnh nhận. Anh em hãy hết lòng khiêm nhượng, hiền hậu, nhẫn nại, chịu đựng
nhau trong đức ái; hãy lo bảo vệ sự hợp nhất tinh thần, lấy bình an hoà thuận
làm dây ràng buộc.
Chỉ có một thân thể và
một tinh thần, cũng như anh em đã được kêu gọi đến cùng một niềm hy vọng. Chỉ
có một Chúa, một đức tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa là Cha hết mọi
người, Ðấng vượt trên hết mọi người, hoạt động nơi mọi người, và ở trong mọi
người.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 15, 15b
Alleluia, alleluia! -
Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe
biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 6, 1-15
"Người phân
phát cho các kẻ ngồi ăn, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi
sang bên kia biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Có đám đông dân chúng theo Người,
vì họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật. Chúa Giêsu lên núi
và ngồi đó với các môn đệ. Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái đã gần tới.
Chúa Giêsu ngước mắt
lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: "Ta
mua đâu được bánh cho những người này ăn?" Người hỏi như vậy có ý thử ông,
vì chính Người đã biết việc Người sắp làm. Philipphê thưa: "Hai trăm bạc
bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút". Một trong các môn đệ, tên
là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: "Ở đây có một bé trai
có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho
từng ấy người". Chúa Giêsu nói: "Cứ bảo người ta ngồi xuống".
Nơi đó có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn.
Bấy giờ Chúa Giêsu cầm
lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng được
phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích. Khi họ đã ăn no nê, Người bảo
các môn đệ: "Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi". Họ thu lại
được mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà
còn dư.
Thấy phép lạ Chúa
Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: "Thật ông này là Ðấng tiên tri phải đến
trong thế gian". Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Người để tôn
làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Quyền Năng Của
Thiên Chúa
Chúng ta có thể nghĩ cả
ba bài đọc hôm nay muốn chúng ta suy nghĩ về Thánh Thể là bánh hằng sống có sức
nuôi cả nhân loại để họ được hợp nhất nên một. Nhưng không tất nhiên phải hiểu
như vậy. Chúng ta cứ thử đọc lại từng bài. Sẽ có nhiều tư tưởng và chân lý
phong phú không ngờ, làm giàu đời sống hằng ngày của chúng ta.
1. Bài Học Về Quyền
Năng Của Thiên Chúa
Dĩ nhiên phụng vụ chọn
đoạn sách Các Vua hôm nay để dẫn vào bài Tin Mừng. Nhưng chính đoạn sách này
cũng có giá trị của nó. Và giáo lý ở đây cũng không kém phần sâu sắc.
Ðây là một câu chuyện
lớn và là một phép lạ. 20 ổ bánh mà dọn được cho 100 người ăn no mà còn dư nữa.
Thế mà tác giả hầu như không có một hứng thú nào khi kể lại một việc như thế.
Người ta muốn ông phải thuật truyện sống động hơn và phải thêm nhiều chi tiết nữa.
Phải nói người của Thiên Chúa tên là gì? Ðang ở đâu? Vì sao lúc ấy lại đang có
100 người ở tại chỗ đó? Và kẻ mang bánh từ nơi xa đến tên họ thế nào? Già hay
trẻ? v.v... Dường như đây không phải là một bài thuật truyện. Tác giả viết vắn
tắt và thiếu hứng khởi... đang khi lẽ ra phép lạ này phải làm ông kinh ngạc và
gây chấn động, như chúng ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Người ta đã cố gắng bổ
khuyết những thiếu sót trên đây bằng cách nại đến văn mạch... Quả vậy, nếu đọc
nối với đoạn trên, người ta có thể xây dựng lại câu chuyện như sau:
Bấy giờ Êlisê đã trở lại
Gilgal gần Yêrikô trong xứ đang có nạn đói. Con cái tiên tri (tức là môn đồ của
nhà tiên tri) đang ngồi trước mặt ông để nghe thuyết giáo. Chợt một người đến.
Anh ta từ Shalishah, tức khoảng 70 cây số lại đây. Anh đến dâng bánh đầu mùa
cho Thiên Chúa như luật dạy (Lêvi 23,20). Êlisê dùng quyền tiên tri, tương
đương với quyền tư tế, truyền lấy bánh đó cho môn đồ ăn. Họ thì đông mà lại
đang đói, thì 20 cái bánh kia sẽ thấm vào đâu? Êlisê bảo cứ dọn ra, vì lời Chúa
phán: chúng sẽ ăn mà còn dư nữa. Và đã xảy ra như vậy thật.
Nhưng dù có xây dựng lại
câu truyện như thế chúng ta vẫn chưa giải thích được thắc mắc trên đây: tại sao
một phép lạ lớn như vậy đã không khiến được ngòi bút của tác giả linh hoạt và
hào hứng hơn? Cuối cùng, đọc thêm nhiều đoạn khác trong quyển sách Các Vua này,
người ta mới thấy rằng: khi kể lại nhiều phép lạ trong cuộc đời của Êlisê, tác
giả không muốn kể truyện, nhưng chỉ ưu tư dạy đạo... Ông coi thường các nét tả
và chú ý tới giáo thuyết. Ở đây cũng như trong nhiều câu truyện về Êlisê, ông
muốn làm nổi bật nhà tiên tri này lên để tỏ ra vị này không kém gì Êlia là nhà
tiên tri lừng danh đã chọn Êlisê để kế nghiệp. Tác giả phải đề cao các môn đệ
chứng tỏ thần trí của Êlia vẫn còn tiếp tục và phong trào tiên tri trong dân
Chúa thật đáng kính phục. Bài của tác giả không muốn cho chúng ta chú trọng tới
phép lạ nhưng tới các nhà tiên tri, tới quyền năng của ông, tức là tới sức mạnh
của Lời Chúa trong con người được gọi làm tiên tri. Rõ ràng chính Êlisê không
làm phép lạ. Ông tuyên bố: Lời Chúa phán thế này: chúng sẽ ăn mà còn dư nữa. Và
đã xảy ra như vậy, thì người ta phải kết luận: Lời Chúa, tức là chính Chúa đã
làm phép lạ, củng cố uy tín cho nhà tiên tri.
Như vậy câu truyện
trên đây có thể được coi như là một "hạnh thánh". Tác giả không muốn
làm văn khi thuật truyện. Ông quan tâm làm nổi bật tính cách thiêng thánh. Những
nét tả trở thành không quan trọng. Chính sự can thiệp của Thiên Chúa vào đời sống
con người là điều phải ngưỡng mộ. Ở đây, chúng ta phải bỏ hết mọi chi tiết để
nhớ rằng: Thiên Chúa đã cho một người ở xa đến, mang một ít bánh nuôi sống một
số đông người đang đói để tăng uy tín cho người của Thiên Chúa và cho phong
trào tiên tri ở trong dân Người.
Những ý tưởng tốt đẹp
của bài sách Các Vua có thể dẫn chúng ta vào bài Tin Mừng hôm nay.
2. Quyền Năng Của Chúa
Ðã Tỏ Hiện
Như trên đã nói, chúng
ta có thể hiểu bài Tin Mừng này về Thánh Thể. Nhưng chúng ta hãy xem câu kết:
"Thấy phép lạ Ngài vừa làm, người ta nói: hẳn Ngài là vị tiên tri. Ðấng sẽ
đến trong thế gian". Như vậy hiệu quả trước mắt và cũng là ý nghĩa đầu
tiên của phép lạ bánh hóa ra nhiều này là mạc khải cho người ta thấy quyền năng
của Ðức Yêsu, và do đó nguồn gốc cao siêu của Người. Chúng ta không chối và
chúng ta sẽ làm chứng, tác giả bài Tin Mừng hôm nay khi kể lại câu truyện phép
lạ đã muốn có nhiều gợi ý về Thánh Thể. Nhưng đó là ý tứ thứ hai, có sau và tựa
vào ý tứ thứ nhất là mạc khải thêm về con người Ðức Yêsu.
Thật vậy, nếu đọc cả bốn
sách Tin Mừng, chúng ta có thể ngạc nhiên vì việc hóa bánh ra nhiều để nuôi dân
chúng là phép lạ duy nhất được cả bốn sách cùng thuật lại. Những phép lạ khác
có thể được hai hoặc ba sách cùng nói, nhưng chẳng bao giờ được bốn sách cùng kể.
Ðiều này cho thấy phép lạ hóa bánh ra nhiều có giá trị đặc biệt và giữ vai trò
quan trọng trong lời giáo huấn và đời sống của Hội Thánh thời khai nguyên.
Nhưng một truyện được
bốn tác giả viết lại, không ít thì nhiều sẽ có những sắc thái và những chi tiết
hơi khác nhau tuỳ theo người viết. Chẳng hạn, không có tác giả nào như Yoan đã
có một bài suy tư dài theo sau bài tường thuật phép lạ. Và cũng chẳng giống ai,
ông để cho một mình Ðức Yêsu đóng vai chủ động và hầu như độc diễn trong câu
truyện này. Nơi ba tác giả kia, các tông đồ như được kêu mời hợp tác tích cực.
Nào là có sáng kiến đến xin Ðức Yêsu cho dân về để mua thức ăn (Mt 14,15); nào
là bảo dân ngồi xuống từng hàng 100 người (Mc 6,39-40); nào là cầm bánh đi phát
cho người ta (Lc 9,16). Theo Yoan, một mình Ðức Yêsu làm tất cả; vì ông muốn mọi
cái nhìn của chúng ta phải quy về một mình Người. Sách của ông chỉ muốn làm nổi
bật một mình Ðức Yêsu: mỗi nhân vật khác chỉ đóng vai phụ.
Ở đây ông cũng nói đến
tên tông đồ Philipphê và Anrê, em của Simôn Phêrô. Nhưng ông này quê quán ở
Bétsaiđa, tức là địa phương mà Ðức Yêsu đang ở khi xảy ra câu truyện này. Có lẽ
Người đã trao đổi với hai người địa phương để làm cho người ta thấy rõ hoàn cảnh
thật là vô vọng, vì Người đã biến trước việc Người sắp làm. Họ trình Người:
"200 đồng quan bánh cũng không đủ cho họ để mỗi người được một chút đỉnh".
Số tiền lớn lắm chứ. Nó ngang với 200 công nhật. Bòn vét đâu cho ra nơi hoang vắng
này? Và nếu có số tiền ấy, cũng mua được đâu ra bánh? Tại chỗ, nơi có khoảng
5,000 người tụ họp mà cũng chỉ có một đứa bé có 5 chiếc bánh lúa mạch và 2 con
cá. Chúng ta có thể coi em nhỏ này là "đứa bé bán bánh mì" trong
vùng, vì chỉ có một mình em thôi. Và phải có Anrê quê quán ở đây mới tinh mắt
nhận ra.
Nhưng ngần ấy thì thấm
vào đâu! Ðó là thực trạng của hoàn cảnh lúc bấy giờ. Philipphê và Anrê đã đóng
vai phụ để làm nổi bật công việc Ðức Yêsu sắp làm.
Tác giả Yoan còn chú
thích: hôm ấy Ðức Yêsu vượt qua biển sang bên kia bờ; một đám đông dân chúng đi
theo Người; và bấy giờ lại sắp đến lễ Vượt quan của người Dothái. Có lẽ chẳng
khi nào tác giả viết một mạc khải nào lớn về Ðức Yêsu mà lại không đặt nó vào
trong bối cảnh một ngày đại lễ. Ðiều này làm chứng Người có tinh thần phụng vụ;
và chúng ta phải hiểu các ý tưởng của Người theo phụng vụ nữa. Ðàng khác các
ngày lễ phụng vụ lại gợi lên lịch sử dân Chúa và lịch sử cứu độ. Thế nên sách của
tác giả Yoan đòi được giải thích cả trong chiều hướng lịch sử thánh cũng gọi là
nhiệm cục cứu thế.
Vậy ở đây, Yoan viết
hôm ấy là khoảng trước lễ Vượt qua, và Ðức Yêsu vừa mới vượt biển và sang bên
kia bờ, có đám đông dân chúng theo sau... Tác giả không muốn gợi lại hình ảnh một
Môsê đưa dân vượt qua Biển Ðỏ sao? Và việc hóa bánh ra nhiều vào ngày trước lễ
Vượt qua không muốn gợi lên ý tưởng bí tích Thánh Thể đã được thiết lập trước
khi Ðức Yêsu vượt qua đời này để về cùng Chúa Cha là gì? Ý tứ phụng vụ và ám chỉ
lịch sử thánh tỏ ra rõ rệt.
Chúng ta chưa vội suy
nghĩ về bí tích Thánh Thể. Căn cứ vào câu kinh ngạc người ta thốt ra sau khi thấy
phép lạ: "Hẳn Ngài là vị tiên tri, Ðấng sẽ đến trong thế gian", chúng
ta hãy theo gợi ý của tác giả Yoan và so sánh Ðức Yêsu với Môsê.
Bấy giờ chúng ta sẽ phải
nhớ lại sách Xuất hành đoạn 16 hay sách Dân số đoạn 11 kể chuyện dân Dothái sau
khi vượt qua Biển Ðỏ để đi vào sa mạc. Họ nhớ bánh nhớ thịt của đất Aicập. Họ
trách móc Môsê đã dẫn họ đến đây để họ chết đói, chết khát. Môsê chỉ còn biết đập
đầu ăn vạ với Chúa. Ngài mà không cứu, chắc mạng ông sẽ chẳng còn. Chúa bảo ông
cứ tuyên bố sẽ có thịt có bánh. Môsê phản ứng như các tông đồ hôm nay: ở nơi cô
tịch này lấy đâu ra bánh ra thịt? Ðàng khác đểnuôi đám dân đông đảo này, phải mấy
bầy súc vật lớn nhỏ? Nhưng rồi Chúa đã ban Manna và chim cút... khiến dân khiếp
sợ quyền năng của Chúa và kính nể uy tín của Môsê. Từ đó hình ảnh một Môsê ban
bánh thịt cho dân trong cơn quẫn bách, trở thành một tiêu chuẩn đển dân mơ ước
về Ðấng tiên tri sẽ đến lãnh đạo dân ở thời thiên sai. Và câu truyện kể về
Êlisê trong sách Các Vua muốn nói lên điều ấy. Dân trông chờ một vị tiên tri
như Môsê sẽ đến dẫn đưa họ vượt qua cảnh đời đau khổ và tội lỗi để đi vào thời
đại hạnh phục và sung túc.
Hôm nay vị tiên tri ấy
đã đến nơi con người Ðức Yêsu. Người ngước mắt lên thấy dân, một dân đang cần
được hướng dẫn. Người làm lại cử chỉ Môsê đã làm xưa, nhưng làm một cách siêu
việt hẳn. Người nuôi dân một cách dễ dàng vì với năm chiếc bánh và hai con cá,
Người nuôi cả khoảng 5,000 người. Mà lại còn dư, thu lại được 12 giỏ. Dân thấy
ngay Người là Môsê mới, nên họ kêu lên: hẳn thật Ngài là vị tiên tri, Ðấng sẽ đến
trong thế gian. Họ muốn rước Người như một Môsê đến làm vua ở đời này. Thế nên
Người vội bỏ họ, và rút lui lên núi một mình.
Nếu thế thì rõ rệt,
bài Tin Mừng hôm nay không có ý nói nhiều về Thánh Thể, nhưng chủ ý mạc khải Ðức
Yêsu là Môsê mới, đến lãnh đạo dân; nhưng dân chưa hiểu Người... Người vượt xa
Êlisê vì câu truyện bánh hóa ra nhiều của ông này thật là nhạt nhẽo sánh với
phép lạ Ðức Yêsu vừa làm. Người là vị tiên tri đích thực của Thiên Chúa đến cứu
độ trần gian.
Nói như vậy, chúng ta
vẫn không muốn phủ nhận bài Tin Mừng hôm nay có một ý nghĩa đưa về Thánh Thể. Ðặc
biệt những câu: Ðức Yêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, phát ra cho người ta... và bảo phải
thu lại các vụn dư kẻo hư đi... đều là những câu văn phụng vụ Thánh Thể. Tác giả
Yoan viết như vậy để đề cao bí tích Thánh Thể ở thời đại ông và để giới thiệu
bài suy tư tiếp nối đoạn Tin Mừng này, mà chúng ta sẽ suy nghĩ vào các Chúa nhật
sau.
Hôm nay chúng ta hãy bằng
lòng với lý tưởng: Ðức Yêsu là vị tiên tri mà Cựu Ước hằng hứa hẹn và Êlisê là
hình ảnh rất nhạt nhẽo; Người là Môsê mới đến lãnh đạo dân ở bình diện khác hẳn
với Môsê ngày trước. Người không hóa bánh ra nhiều để nuôi dân khỏi đói như
Êlisê và Môsê, nhưng để bày tỏ uy quyền của Người một cách khác thường để người
ta tin Người. Tất cả những điều ấy còn thiết thực đối với chúng ta, khiến giờ
đây chúng ta hãy dựa vào bài Thánh Thư để biết đáp trả như thế nào.
3. Chúng Ta Hãy Sống
Trong Hiệp Nhất
Thánh Phaolô khuyên
chúng ta hãy đi đứng sao cho xứng với ơn Chúa đã kêu gọi chúng ta. Lời kêu gọi
này chứng tỏ ơn gọi Kitô hữu có những đòi hỏi mà chúng ta phải có thiện chí và
quyết tâm thi hành. Chắc chắn những đòi hỏi đó không ít; nhưng tất cả chỉ để sống
xứng với ơn gọi. Chúng ta phải nắm vững ơn gọi này là gì để biết chấp nhận và
thi hành các đòi hỏi của nó.
Ðối với thánh Phaolô,
ơn gọi Kitô hữu biến chúng ta nên chi thể của một thân thể duy nhất mà chính Ðức
Kitô là đầu. Nó chính là ơn gọi của Israel trở thành dân Chúa, là ơn gọi dân
ngoại vào hưởng sản nghiệp các lời hứa, là ơn gọi mọi người trở nên con cái
Thiên Chúa. Nhưng tất cả những điều này chỉ xảy ra nhờ Ðức Kitô và trong Ðức
Kitô. Thế nên, nói rằng ơn gọi Kitô hữu muốn làm cho chúng ta trở thành chi thể
của một thân thể duy nhất mà Ðức Kitô là đầu, nói như vậy là nói vắn tắt và gọn
gàng hơn cả. Và đó là điều mà Ðức Yêsu muốn làm trong bài Tin Mừng hôm nay và
được bài sách Các Vua dẫn vào. Người muốn mạc khải Người là vị Tiên tri Thiên
Chúa sai đến, để làm một Môsê mới, kết nạp mọi người nên một dân mới có sự sống
mới và lý tưởng mới.
Nếu ơn gọi của chúng
ta là thế, thì muốn đáp lại chúng ta hãy sống hiệp nhất là điều rất phải. Một
chi thể không thể ở lẻ loi. Nó phải liên kết chặt chẽ vào thân mình. Và vì thế
chúng ta phải khiêm tốn, hiền từ đại lượng và chịu đựng để duy trì sự hiệp nhất.
Ðó là những đòi hỏi tất yếu không cần chứng minh. Tuy nhiên thánh Phaolô còn
khai triển thêm để chúng ta thấy ơn gọi của chúng ta cao quý như thế nào.
Người nói hiện tại
chúng ta đã được kêu gọi vào cùng một niềm hy vọng, tức là Nước Trời, sản nghiệp
của bao lời hứa mà việc tuôn đổ Thánh Thần xuống trong chúng ta là dấu hiệu và
là bảo chứng vững vàng. Chúng ta được như vậy nhờ cùng một niềm tin, một phép rửa
của một Ðức Yêsu Kitô để chúng ta hết thảy được một Thiên Chúa là Cha yêu mến của
tất cả mọi người.
Thánh Phaolô nhắc đến
ba nhân đức Tin, Cậy, Mến và Ba Ngôi Cha, Con và Thánh Thần. Không có quan niệm
và từ ngữ nào tốt đẹp hơn nữa để diễn tả ơn gọi và lý tưởng của chúng ta. Tất cả
đòi hỏi chúng ta một điều, là sống hiệp nhất.
Giờ đây chúng ta đang ở
trong bầu khí hiệp nhất này. Chúng ta tham dự thánh lễ để thấy Ðức Kitô đến như
vị tiên tri của Thiên Chúa và như một Môsê mới. Người ban thịt máu thánh kết hợp
chúng ta vào Người và khắng khít với nhau, để chúng ta được tràn đầy Thánh Thần,
hầu yêu mến một Cha chúng của mọi người thắm thiết hơn và sống cuộc đời siêu
nhiên, thánh thiện hơn, xứng đáng làm con Thiên Chúa. Chúng ta hãy giục lòng
tin yêu mạnh mẽ để cử hành bí tích hiệp nhất của thánh lễ này hầu sau đó sẽ thể
hiện tinh thần hiệp nhất sâu sắc hơn trong đời sống hằng ngày.
(Trích dẫn từ tập
sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 17 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: II
Kgs 4:42-44; Eph 4:1-6; Jn 6:1-15.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải tin tưởng quyền năng Thiên Chúa và rộng lượng san sẻ cho mọi người.
Ca dao Việt-nam có câu: “Ở đời muôn sự của chung. Hơn
nhau một tiếng anh hùng mà thôi.” Tư tưởng này rất gần với quan niệm của người
Công Giáo: Thiên Chúa, Đấng dựng nên trời đất và ban cho mọi người cùng hưởng.
Ngài muốn con người san sẻ cho nhau để đừng có cảnh người quá giàu trong khi
người khác không có của ăn. Để làm được điều này, ca dao Việt-nam đòi con
người phải có nhân đức anh hùng; Thiên Chúa đòi con người phải tin tưởng hoàn
toàn vào sự quan phòng của Ngài. Con người không dám chia sẻ cho tha nhân những
gì mình có, vì sợ sẽ không đủ cho mình; nhưng nếu con nguời biết rộng lượng cho
đi, Thiên Chúa sẽ cho lại dư đầy. Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ: “Anh
em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em, và còn cho anh
em hơn nữa. Vì ai đã có, thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái đang
có cũng sẽ bị lấy mất” (Mk 4:24-25).
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong hai tư tưởng này. Trong Bài Đọc I, tiên tri
Elisha truyền tiểu đồng phát quà tặng dân chúng mang đến cho ông, mặc dù chẳng
thấm vào đâu; nhưng Đức Chúa đã cho toàn dân ăn no. Trong Bài Đọc II, thánh
Phaolô kêu gọi các tín hữu bảo vệ sự hiệp nhất mà họ đã được kêu gọi bằng cách
ăn ở khiêm tốn, hiền từ, nhẫn nại, và bác ái. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu làm
phép lạ nuôi năm ngàn người đàn ông ăn và còn dư thừa 12 thúng, từ năm chiếc bánh
và hai con cá.
KHAI TRIỂN BÀI
ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức Chúa phán thế này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư.
1.1/ Phải có lòng rộng lượng
để chia sẻ cho tha nhân: “Có một người từ
Baal-Shalisha đến, đem bánh đầu mùa biếu người của Thiên Chúa: hai mươi chiếc bánh
lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông Elisha nói: “Phát cho người ta ăn.””
Trình thuật hôm nay nằm trong phần cuối của chương 4 trong Sách Các Vua II.
Trong suốt chương 4, tác giả tường thuật sự kiện: Vì hành động tử tế của người
đàn bà thành Shunem, tiên-tri Elisha đáp lại bằng cách cho bà có đứa con
trai và cứu sống đứa bé khi nó chết vì nhức đầu (II Kgs 4:1-44).
1.2/ Phải tin tưởng nơi
quyền năng Thiên Chúa: Nhưng tiểu đồng hỏi
ông: “Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được?” Ông bảo: “Cứ
phát cho người ta ăn! Vì Đức Chúa phán thế này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư.” Tiểu
đồng phát cho người ta. Họ đã ăn, mà vẫn còn dư, như lời Đức Chúa phán. Chúng
ta còn nhớ trình thuật: Vì hành động tử tế của bà góa thành Zarephath
mà tiên-tri Elijah đã làm phép lạ cho hũ bột và chai dầu olive của bà
không bao giờ vơi và còn cứu sống con trai của Bà (I Kgs 17:1-18).
2/ Bài đọc II: Hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho
anh em.
2.1/ Ơn gọi hiệp nhất của
người Kitô hữu: Thánh Phaolô viết lá thư này
cho các tín hữu Ephesô, khi người đang bị tù tại Rôma. Ngài khuyên các tín hữu
như sau: “Vậy, tôi là người đang bị tù vì Chúa, tôi khuyên nhủ anh em hãy sống
cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. Anh em hãy thiết tha
duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với
nhau.”
Để hiệp nhất, con người cần biết những lý do tại sao họ phải hiệp nhất. Thánh
Phaolô đưa ra 7 lý do quan trọng:
(1) Chỉ có một thân thể: Tất cả các tín hữu là chi thể của một thân thể là Hội
Thánh với Đức Kitô là Đầu. Thân thể của Đức Kitô lành mạnh khi tất cả chi thể
lành mạnh. Chi thể nào tách rời khỏi thân thể sẽ không thể tồn tại.
(2) Một Thánh Thần: Có nhiều quà tặng khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh Thần, Đấng
ban mọi quà tặng cho việc xây dựng Nhiệm Thể của Đức Kitô.
(3) Một niềm hy vọng: Tất cả các tín hữu đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm
hy vọng là cuộc sống hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa và với nhau.
(4) Chỉ có một Chúa: là Đức Kitô.
(5) Một niềm tin: là tin vào Đức Kitô.
(6) Một phép rửa: bởi Nước và bởi Thánh Thần.
(7) Chỉ có một Thiên Chúa: Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi
người, và trong mọi người.
2.2/ Những đức tính cần
thiết của người Kitô hữu: “Anh em hãy ăn ở
thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà
chịu đựng lẫn nhau.” Đây là những đức tính tối quan trọng không chỉ cho người
Kitô hữu, mà còn cho tất cả những ai muốn thành công và sống bình an với mọi
người.
+ Khiêm tốn (tapeinofrosu,nh): Con người khiêm tốn nhận ra chỗ đứng thực sự của
mình trong mối tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân. Những người kiêu ngạo
không nhận ra điều này, họ tự cho mình đã biết quá nhiều, quá hay, quá đủ; nên
bỏ qua những gì Chúa dạy, và lấy mình như tiêu chuẩn để phán xét tha nhân. Họ
quên đi một sự thật là sự khôn ngoan của họ chỉ là một giọt nước trong biển
khôn ngoan của nhân loại, và chẳng là gì so với sự khôn quan của Thiên Chúa.
Người khiêm tốn sẽ được Thiên Chúa đoái thương nhìn tới và được mọi người quí mến;
trong khi kẻ kiêu căng sẽ bị Thiên Chúa và tha nhân khai trừ.
+ Hiền từ (prau<thj): Con người hiền từ luôn biết cách cư xử nhã nhặn với tất
cả mọi người; họ không để cho tính nóng giận làm chủ con người họ. Ngược lại,
người dữ dằn để cho tính nóng giận làm chủ con người, họ nói những lời cộc cằn
thô lỗ, và sẵn sàng dùng bạo lực để giải quyết mọi vấn đề.
+ Nhẫn nại (makroqumi,a): Con người nhẫn nại luôn biết kiên trì và tìm mọi cách
để vượt qua những khó khăn và gian khổ trong cuộc đời. Họ không dễ nản lòng, ta
thán, và bỏ cuộc.
+ Bác ái (avga,ph): Thánh Phaolô nêu bật tầm quan trọng của
nhân đức này: “Trên hết mọi sự, anh em hãy có nhân đức yêu thương, vì đó là sợi
giây ràng buộc mọi điều toàn thiện.” Chúng ta đã nói nhiều lần về nhân đức này,
nó chỉ tìm thấy trong khuôn khổ của Kitô Giáo, vì nhân đức này đến từ Thiên
Chúa qua Đức Kitô. Chỉ khi nào một người có nhân đức này, họ mới có thể thi
hành những điều khó khăn Đức Kitô dạy: phải cầu nguyện, tha thứ, và làm ơn cho
kẻ thù; họ mới có thể sẵn sàng hy sinh chết để làm chứng cho Thiên Chúa và bảo
vệ tha nhân.
3/ Phúc Âm: Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm
gì rồi.
3.1/ Con người phải tin
nơi quyền năng của Thiên Chúa: “Sau đó, Đức
Giêsu sang bên kia Biển Hồ Galilee, cũng gọi là Biển Hồ Tiberia. Có đông đảo
dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm
cho những kẻ đau ốm. Đức Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lúc ấy, sắp đến
lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái. Ngước mắt lên, Đức
Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philíp: “Ta mua
đâu ra bánh cho họ ăn đây?””
(1) Uy quyền của Thiên Chúa trong biến cố Vượt Qua: Sự kiện Gioan đề cập đến Lễ
Vượt Qua không phải là chuyện tình cờ, nhưng mang ý nghĩa thần học. Ngài có ý
nhắc cho dân Do-thái nhớ lại uy quyền lớn lao của Thiên Chúa đã mang dân vượt
Biển Đỏ an toàn; trong khi quân đội của vua Pharao bị nhận chìm giữa lòng đại
dương. Nếu một Thiên Chúa có quyền năng đưa dân Do-thái vượt qua Biển Đỏ, Ngài
cũng có thể làm cho dân có bánh ăn no nê trong sa mạc, điều bị coi là không thể
đối với con người.
(2) Uy quyền của Chúa Giêsu khi nuôi năm ngàn người ăn: Đức Giêsu nói: “Anh em
cứ bảo người ta ngồi xuống đi.” Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên
số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. Vậy, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn,
rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai
muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: “Anh em thu
lại những miếng thừa kẻo phí đi.” Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc
bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng.
(3) Hình bóng của Bí-tích Thánh Thể: Chúa Giêsu dư biết sự cứng lòng của con
người, nên Ngài chuẩn bị cho họ bằng phép lạ “Bánh hóa nhiều.” Nếu Chúa Giêsu
có thể làm phép lạ “Bánh hóa nhiều” để nuôi năm ngàn người đàn ông ăn no nê, Ngài
cũng có thể hiến thân mình để trở nên của ăn nuôi dân hàng ngày. Hơn nữa trong
Tin Mừng Gioan, chúng ta không thấy tường thuật sự kiện Chúa Giêsu lập BT Thánh
Thể trong Bữa Tiệc Ly, chúng ta chỉ có công thức truyền phép “Đức Giêsu cầm lấy
bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó,” và diễn từ về
Thánh Thể trong phần kế tiếp của chương 6.
3.2/ Thiên Chúa đòi hỏi sự
cộng tác của con người.
(1) Con người chỉ quan tâm đến mình: Hai lý do làm con người sợ không dám chia
sẻ:
+ Sợ tốn tiền: Ông Philíp đáp: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng
chẳng đủ cho mỗi người một chút.” Các môn đệ không muốn bỏ tiền của mình để mua
bánh cho người khác, nhất là với một số dân đông đảo như thế. Trong Tin Mừng Nhất
Lãm, các môn đệ khuyên Chúa Giêsu giải tán dân để họ vào các thành mà mua lương
thực. Ngược lại, Chúa Giêsu truyền: “Chính anh em hãy cho họ ăn.”
+ Sợ không đủ cho mình: Một trong các môn đệ, là ông Anrê, anh ông Simon Phêrô,
thưa với Người: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá,
nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” Phản ứng của con người là lo đầu cơ
tích trữ, nhất là trong những lúc khan hiếm lương thực và mạng sống bị đe dọa.
(2) Thiên Chúa muốn sự cộng tác của con người: Thiên Chúa làm được mọi sự,
nhưng Ngài muốn con người biểu lộ niềm tin giống như em bé sẵn sàng đưa cho
Chúa 5 chiếc bánh lúa mạch và hai con cá để chia sẻ với mọi người. Trong Kinh
Tiền Tụng, chúng ta cũng dâng bánh và rượu là hoa mầu ruộng đất và lao
công của con người lên Thiên Chúa, để xin Ngài làm cho trở
thành Bánh Trường Sinh và của uống thiêng liêng cho chúng ta.
Khi linh mục dâng bánh và rượu lên cho Thiên Chúa, người linh mục cũng dâng những
đau khổ của chính mình và của dân chúng, cộng với lễ hy sinh đau khổ của Đức
Kitô. Tất cả những điều này có sức mạnh để Thiên Chúa chấp nhận và sinh ích cho
con người.
(3) Thiên Chúa không muốn con người chỉ quan tâm đến nhu cầu vật chất: Dân
chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải
đến thế gian!” Con người chỉ quan tâm đến những nhu cầu vật chất. Họ muốn tôn
Chúa Giêsu làm vua để Ngài cung cấp bánh ăn cho họ, như ma quỉ đã từng cám dỗ
Chúa trong sa mạc để biến đá thành bánh. Chúa Giêsu từ chối việc dân tôn Ngài
làm vua để có bánh ăn nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình. Ngài muốn họ
yêu mến Ngài và thực sự muốn mời Ngài làm vua trong lòng của họ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta có dám rộng lượng cho đi để được Thiên Chúa cho lại dư thừa không? Nếu
không dám cho đi, ngay cả cái chúng ta đang có cũng sẽ dần dần hao hụt dần.
– Thiên Chúa vì yêu thương đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể để gia tăng nghị lực
cho tâm hồn chúng ta. Sau khi đã lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể, chúng ta cũng phải
trở nên tấm bánh để nuôi sống anh em về phần hồn cũng như về phần xác.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
29/07/2018 – CHÚA NHẬT TUẦN 17 TN – B
Ga 6,1-15
CÁNH TAY NỐI DÀI CỦA CHÚA
Khi họ đã ăn no nê rồi, Chúa Giê-su bảo các môn đệ: “Anh em
thu lại những miếng thừa kẻo phí đi.” (Ga 6,12)
Suy niệm: Một thực tế là sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã cung ứng dư thừa
những nhu cầu tiêu dùng của con người. Và một thực tế khác nữa là giữa xã hội
no đủ này lại có vô số con người đang phải sống dưới cả mức nghèo đói, không biết
ngày mai sẽ ăn gì. Chúng ta thường nghĩ rằng sự nghèo đói cứ tiếp diễn là do
hoàn cảnh này, lý do kia, mà ít khi nghĩ rằng vì chúng ta không đủ quảng đại. Tại
sao khoảng cách giàu – nghèo vẫn cứ tiếp diễn và xem ra ngày càng lớn? Chúng ta
tìm câu trả lời thường ở cấp độ vĩ mô, vì chế độ này, do kế hoạch kia, mà ít
khi khởi đi từ tấm lòng của mỗi một người chúng ta. Nếu nơi mỗi người còn có một
tấm lòng, thì ít nữa sau khi đã no nê rồi, chúng ta nhớ lời Chúa “thu lại những
miếng thừa kẻo phí đi.” Chúa cần lắm những cánh tay biết thu lại những miếng vụn,
để chia sẻ cho những người còn thiếu thốn.
Mời Bạn: Ai là người nghèo chung quanh chúng ta? Bạn hãy quan sát và chắc chắn
bạn sẽ thấy. Thấy rồi thì mời bạn hãy hành động, vì chính lúc đó bạn không phải
thấy người nghèo mà chính là thấy Chúa đang nghèo và cần bàn tay của bạn.
Sống Lời Chúa: Người ta sống không chỉ bằng cơm bánh mà, còn bởi mọi lời
Thiên Chúa phán ra. Một khi bạn được đầy Lời Chúa, bạn sẽ trở nên tấm bánh thơm
ngon cho đồng loại.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su,
Chúa vốn giàu có nhưng đã trở nên nghèo khó. Xin cho chúng con tiếp nối bước
chân Chúa biết sống tinh thần nghèo khó để anh chị em con được giàu có, đó là
lúc chúng con nên một với Chúa.
(5 Phút Lời Chúa)
Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn (29.7.2018
– Chúa nhật 17 Thường niên, Năm B)
Suy Niệm
Có người cho rằng Kitô giáo là một thứ duy tâm,
chỉ biết có đời sau, chỉ lo cho linh hồn.
Khi đọc Tin Mừng, ta thấy một điều khác hẳn.
Ðức Giêsu vừa rao giảng Nước Trời,
vừa chữa mọi thứ tật bệnh cho dân chúng.
Ngài quan tâm đến thân xác con người.
Ngài đem lại ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác.
chỉ biết có đời sau, chỉ lo cho linh hồn.
Khi đọc Tin Mừng, ta thấy một điều khác hẳn.
Ðức Giêsu vừa rao giảng Nước Trời,
vừa chữa mọi thứ tật bệnh cho dân chúng.
Ngài quan tâm đến thân xác con người.
Ngài đem lại ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác.
Ðức Giêsu đã từng nếm cái đói trong hoang địa,
cái khát bên bờ giếng, cái mệt khiến Ngài ngủ vùi,
cái lạnh của những đêm không chỗ trọ,
Ngài biết con người có thân xác và là thân xác.
Khi thấy đám đông kiên trì theo Ngài,
Ðức Giêsu biết lòng họ rất vui, nhưng bụng họ thì đói.
Ngài muốn tặng họ một bữa ăn đơn sơ, bất ngờ,
một bữa ăn tập thể ngoài trời,
trên thảm cỏ xanh tươi sau những trận mưa xuân.
Bữa ăn khiến niềm vui được trọn vẹn.
“Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”
Ðức Giêsu đưa các môn đệ đi vào nỗi bận tâm của Ngài.
Ngài cần sự cộng tác của họ.
Nhưng câu hỏi trên lại là một bài toán khó.
Nó giúp các môn đệ nhận ra sự bất lực của mình.
Dù có một số tiền lớn cũng chẳng thấm vào đâu.
Khi con người bất lực thì Thiên Chúa bày tỏ quyền năng.
Năm cái bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ,
từ tay một cậu bé con đến tay Ðức Giêsu,
đã trở nên lương thực nuôi năm ngàn người.
cái khát bên bờ giếng, cái mệt khiến Ngài ngủ vùi,
cái lạnh của những đêm không chỗ trọ,
Ngài biết con người có thân xác và là thân xác.
Khi thấy đám đông kiên trì theo Ngài,
Ðức Giêsu biết lòng họ rất vui, nhưng bụng họ thì đói.
Ngài muốn tặng họ một bữa ăn đơn sơ, bất ngờ,
một bữa ăn tập thể ngoài trời,
trên thảm cỏ xanh tươi sau những trận mưa xuân.
Bữa ăn khiến niềm vui được trọn vẹn.
“Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?”
Ðức Giêsu đưa các môn đệ đi vào nỗi bận tâm của Ngài.
Ngài cần sự cộng tác của họ.
Nhưng câu hỏi trên lại là một bài toán khó.
Nó giúp các môn đệ nhận ra sự bất lực của mình.
Dù có một số tiền lớn cũng chẳng thấm vào đâu.
Khi con người bất lực thì Thiên Chúa bày tỏ quyền năng.
Năm cái bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ,
từ tay một cậu bé con đến tay Ðức Giêsu,
đã trở nên lương thực nuôi năm ngàn người.
Thế giới tiến bộ hôm nay vẫn là một thế giới đói.
Ðừng vội nói đến cái đói tinh thần.
Cái đói trên thân xác vẫn làm con người quay quắt.
Ðói cơm ăn áo mặc, đói nhà ở, đói thuốc men,
đói chút nước sạch, rau sạch để dùng,
đói an toàn và bảo hộ khi lao động,
đói một bầu khí trong lành và yên tĩnh để nghỉ ngơi…
Có bao Kitô hữu đã xót xa trước cảnh đói,
và đã bắt tay vào cuộc với niềm tin,
dù họ chỉ có năm cái bánh và hai con cá.
Tất cả những gì giúp thăng tiến đời sống con người
đều là việc thánh thiêng, việc của Chúa.
Khi thân xác con người được sống xứng hợp,
tâm hồn con người dễ vươn lên các giá trị tinh thần.
Ðừng vội nói đến cái đói tinh thần.
Cái đói trên thân xác vẫn làm con người quay quắt.
Ðói cơm ăn áo mặc, đói nhà ở, đói thuốc men,
đói chút nước sạch, rau sạch để dùng,
đói an toàn và bảo hộ khi lao động,
đói một bầu khí trong lành và yên tĩnh để nghỉ ngơi…
Có bao Kitô hữu đã xót xa trước cảnh đói,
và đã bắt tay vào cuộc với niềm tin,
dù họ chỉ có năm cái bánh và hai con cá.
Tất cả những gì giúp thăng tiến đời sống con người
đều là việc thánh thiêng, việc của Chúa.
Khi thân xác con người được sống xứng hợp,
tâm hồn con người dễ vươn lên các giá trị tinh thần.
Thiên Chúa đã ban một trái đất đủ nuôi sống mọi người.
Ðừng trách Thiên Chúa đã tạo ra nghèo khổ.
Chỉ nên nhận rằng bất công nằm ngay nơi lòng mình.
Xã hội còn nhiều người nghèo đói
vì tôi không dám chia sẻ cả điều mình dư thừa,
vì tôi bị hút vào cơn lốc của thời trang và mua sắm,
vì tôi xa lạ với những Giêsu quanh tôi
đang đói khát, không nhà, trần trụi và đau yếu.
Ước gì tôi biết yêu mến con người như Ðức Giêsu.
Ðừng trách Thiên Chúa đã tạo ra nghèo khổ.
Chỉ nên nhận rằng bất công nằm ngay nơi lòng mình.
Xã hội còn nhiều người nghèo đói
vì tôi không dám chia sẻ cả điều mình dư thừa,
vì tôi bị hút vào cơn lốc của thời trang và mua sắm,
vì tôi xa lạ với những Giêsu quanh tôi
đang đói khát, không nhà, trần trụi và đau yếu.
Ước gì tôi biết yêu mến con người như Ðức Giêsu.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này
là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này
là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước
không còn những La-da-rô đói ngồi ngoài cổng,
bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng đường
hay những người ăn xin.
không còn những La-da-rô đói ngồi ngoài cổng,
bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng đường
hay những người ăn xin.
Con mơ ước
những người thợ được hưởng lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,
các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
những người thợ được hưởng lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,
các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con,
con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,
xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy vọng
nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,
xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy vọng
nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,
thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.
thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
29 THÁNG BẢY
Vấn Đề Đau Khổ
Đối với nhiều người,
thực tại sự dữ và đau khổ là trở ngại chính khiến họ khó chấp nhận sự thật về sự
quan phòng của Thiên Chúa trên đời sống của họ. Trong một số trường hợp, trở ngại
này được thấy là rất lớn lao. Người ta chua cay nguyền rủa Thiên Chúa vì những
sự dữ và những đau khổ tung hoành trên thế giới, đến độ họ từ chối sự thật về
Thiên Chúa và phủ nhận chính sự hiện hữu của Ngài. Đây là quan điểm của tư tưởng
vô thần.
Một cách ít triệt để
hơn, nhưng không kém nhũng nhiễu, đó là trường hợp nhiều người chất vấn Thiên
Chúa và những ý định của Ngài. Khi người ta cố gắng dung hòa giữa chân lý về sự
quan phòng thần linh với thực tại sự dữ và đau khổ mà họ cảm nghiệm, thì bao
nhiêu ngờ vực, cật vấn, hay những mâu thuẫn lồ lộ bật lên.
Để thấu hiểu vấn đề này,
chúng ta cần trở lại với Thánh Kinh. Cái nhìn về thực tại sự dữ và đau khổ được
trình bày đầy đủ trong những trang Thánh Kinh. Thánh Kinh tiên vàn là một quyển
sách vĩ đại nói về đau khổ. Vì đau khổ là một trong những thực tại mà Thiên
Chúa dạy cho con người nhận hiểu “bằng nhiều cách … qua các tiên tri; và trong
những ngày sau hết … qua chính Con của Ngài” (Dt 1,1). Ý nghĩa của đau khổ bật
ra trong mạc khải của Thiên Chúa về chính Ngài cũng như bật ra trong chính Tin
Mừng cứu độ. Đó là lý do vì sao con đường duy nhất thích hợp để tìm câu trả lời
cho vấn nạn về sự dữ và đau khổ trên trần gian này không nằm ở đâu khác ngoài
Thánh Kinh.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 29/7
Chúa Nhật XVII Thường
Niên
2V 4, 42-44; Ep 4,
1-6; Ga 6, 1-15.
LỜI SUY NIỆM: “Chúa Giêsu
lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của
người Do-thái. Ngước mắt lên, Chúa Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với
minh. Người hỏi ông Philípphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Người nói thế
là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi.”
Đối với Chúa Giêsu là vậy, Chúa luôn ngồi cạnh với các Tông Đồ của Người, và
Người tập cho các ông cái tính quan tâm đến nhu cầu của đám đông dân chúng. Khi
quan tâm đến đám đông dân chúng, mà thấy mình không thể đáp ứng được nhu cầu của
họ, thì cần phải đi tìm kiếm sự cọng tác của những người chung quanh, dù là một
trẻ nhỏ đi nữa, và sau khi đã tìm kiếm được sự cọng tác rồi, thì dù nhiều hay
ít, cần phải trao vào tay Người, thì mọi sự sẽ được thỏa mãn cho người nhận,
cũng như người trao phát.
Lạy Chúa Giêsu. Mỗi người trong chúng con ngày hôm nay cũng như Tông Đồ
Philípphê không thể đáp ứng được điều Chúa đang đòi hỏi chúng con. Xin Chúa mở
lòng mở trí chúng con, để biết chạy đến với Chúa trong mọi hoàn cảnh khó khăn của
bản thân cũng như những khó khăn của người anh em chung quanh, để tất cả được
no đủ và an bình trong cuộc sống.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 29-07: Thánh
MARTHA
Chúng ta biết chắc về
thánh Martha qua 2 giai thoại trong Tin Mừng. Khi bà nhiệt thành đón rước Chúa Giêsu
(Lc 10, 38-42) hay khi bà tín thác vô giới hạn vào Chúa Giêsu trước cái chết của
Laxarô (Ga 11,1-44). Martha, theo tiếng tramêô, có nghĩa là bà chủ. Bà hai anh
em Maria và Lazarô ở làng Bêtania, là những người bạn thân tình của Chúa Giêsu.
Người hay đến trú ngụ ở nhà họ để nghỉ ngơi sau những chuyến hành trình mệt nhọc.
Martha đóng vai gia chủ,
đã tỏ ra rất hiếu khách và tận tụy. Ngày kia, trong lúc bận rộn với việc phục dịch,
bà nói: – Thưa Thày, Thày không màng nghĩ tới sao, em tôi để cho tôi một mình
phục dịch ? Vậy xin Thầy bảo nó đỡ đần tôi .
Chúa Giêsu đáp lại: –
Martha, Martha, con lo lắng xôn xao về nhiều chuyện. Cần thì ít thôi, Maria đã
chọn phần tốt nhất rồi và sẽ không bị ai giựt mất.
Như thế Chúa Giêsu đã
cho Martha biết rằng đối với Người không có gì quý hơn một tâm hồn biết suy tư
cầu nguyện, Martha đã hiểu, bà sẽ để lộ đức tin ấy ra dịp Lazarô từ trần. Bà nhắc
tin cho Chúa Giêsu: – Thưa thầy, kẻ Thầy thương đang ốm liệt.
Vượt đường xa, Chúa
Giêsu đã đến. Nhưng Người cố ý đến chậm, khi Lazarô đã chết. Đức tin của Martha
vẫn không thay đổi.
– Thưa Thầy, nếu thầy
có mặt ở đây, em con đã không chết.
Và bà thêm: – Nhưng
ngay lúc này, con biết là bất cứ điều gì Thầy xin với Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ
ban cho thầy.
Khi Chúa Giêsu cho biết
Người là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Người thì dù chết cũng sẽ sống,
rồi Người hỏi: – Con có tin thế không ?
Martha đã mau mắn
tuyên xưng: – Vâng, thưa Thầy, con tin Thầy là đức Kitô Con Thiên Chúa, đấng phải
đến trong thế gian.
Và bà đã không lầm.
Chúa Giêsu đã phục sinh Lazarô.
Tin Mừng không nói rõ
các bạn hữu của Thiên Chúa sẽ ra sao. Chắc chắn Martha có mặt trong số phụ nữ
theo Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn và xức xác Người trước khi mai táng.
Có truyền thuyết nói rằng
ba chị em làng Bêtania đã bị người Do thái bắt thả trôi trên một con thuyền
không buồm không chèo không lái. Nhưng họ đã trôi dạt và cặp bến Marseille nước
Pháp. Lazarô đã trở thành Giám mục tiên khởi Chúa thành này. Riêng Martha Ngài
đã rao giảng Tin Mừng ở Aix Avignon và Tarascon. Một huyền thoại còn kể thêm việc
thánh nữ tiêu diệt quái vật Tarasque. Dân chúng khổ cực vì con vật dữ tợn, mồm
phun lửa, đuôi cắn xé. Thánh nữ đã dùng cây thánh giá áp đảo con vật, rồi trói
chặt nói lại. Quái vật bị hạ sát và nó bị tiêu diệt, người ta gọi là Tarascon.
(daminhvn.net)
29 Tháng Bảy
Một Tiếng Cám Ơn
Trong một bài huấn
đức ngắn ngủi trước khi đọc kinh truyền tin, Ðức Gioan Phaolô I, vị Giáo Hoàng
của mỉm cười, đã kể một câu chuyện như sau:
Trong một gia đình
nọ, một người đàn bà phải lo phục dịch cho một người chồng, một người anh và
hai người con trai lớn. Bà phải làm tất cả mọi sự trong nhà: từ đi chợ, nấu ăn,
giặt giũ đến quét dọn trong nhà. Một ngày Chúa Nhật nọ, sau một buổi sáng đi dạo
ngoài trời trở về, những người đàn ông bỗng nhận thấy có một điều lạ trong nhà,
bàn ăn đã được chuẩn bị cho bữa trưa, nhưng thay vì thức ăn, họ chỉ thấy toàn cỏ
khô. Mọi người đều nhao nhao phản đối người đàn bà… Chờ cho mọi người im tiếng,
người đàn bà mới bình tĩnh giải thích:
“Tất cả thức ăn đều
có sẵn rồi, nhưng cho phép tôi được nói một điều. Tôi phải chuẩn bị thức ăn hằng
ngày cho các người, tôi phải dọn dẹp trong nhà, tôi phải giặt giũ quần áo cho
các người, tôi phải làm mọi sự trong nhà này, nhưng chưa bao giờ các người mở
miệng khen lấy một tiếng, hay nói một lời cám ơn… Các người chỉ chực có một thiếu
sót của tôi để la ó, phản đối mà thôi”.
Vô ơn là thái độ thường
xuyên của mỗi người trong chúng ta. Chúng ta dễ thấy những thiếu sót của người
khác đối với chúng ta, nhưng chúng ta lại thiếu nhạy cảm đối với những gì người
khác đang làm cho chúng ta. Một chút tế nhị, một chút cảm thông, một lời nói an
ủi vỗ về, một tiếng cám ơn, đó là men làm dậy niềm vui trong cuộc sống của
chúng ta.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét