26/07/2018
Thứ năm tuần 16 thường niên
Thánh Gioakim và thánh Anna.
Lễ nhớ.
Lễ Hai Thánh
Gioakim và Anna
Lễ Nhớ
Bài Ðọc I: Hc 44, 1.
10-15
"Miêu duệ họ tồn
tại đến muôn đời".
Trích sách Huấn Ca.
Chúng ta hãy ca tụng
những vĩ nhân và các tổ phụ chúng ta qua các thời đại. Có những người nhân hậu,
mà việc thiện của họ không bao giờ bị lãng quên. Dòng dõi họ được hưởng hạnh
phúc, và họ sẽ có con cháu nối dòng, miêu duệ họ trung thành với lời giao ước và
con cái họ nhờ họ cũng được trung thành. Miêu duệ họ sẽ tồn tại đến muôn đời,
và vinh quang của họ không bao giờ bị lu mờ. Thân xác họ được chôn cất bình an,
tên tuổi họ sẽ sống đời này qua đời nọ. Sự khôn ngoan của họ cộng đoàn truyền tụng,
và công hội thuật lại lời ngợi khen họ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 131, 11.
13-14. 17-18
Ðáp: Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít
tổ phụ Người (Lc 1, 32a).
Xướng: 1) Chúa đã thề
hứa cùng Ðavít một lời hứa quả quyết mà Người sẽ chẳng rút lời, rằng: "Ta
sẽ đặt lên ngai báu của ngươi một người con cháu thuộc dòng giống ngươi".
- Ðáp.
2) Bởi chưng Chúa đã
kén chọn Sion, đã thích lựa Sion làm nơi cư ngụ cho mình. Ngài phán: "Ðây
là nơi nghỉ ngơi của Ta tới muôn đời, Ta sẽ cư ngụ nơi đây, vì Ta ưa
thích". - Ðáp.
3) Tại đó, Ta sẽ gầy dựng
một uy quyền cho Ðavít, sẽ chuẩn bị ngọn đèn sáng cho người được Ta xức dầu. Ta
sẽ bắt những kẻ thù ghét người tủi hổ, nhưng triều thiên của Ta chiếu sáng rực
rỡ trên mình người. - Ðáp.
Alleluia: x. Lc 2, 25c
Alleluia, alleluia! -
Các ngài mong đợi niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần ngự trong các ngài. -
Alleluia.
Phúc Âm: Mt 13, 16-17
"Nhiều vị tiên
tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các môn đệ rằng: "Phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho
tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều
đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy, mà không được thấy;
mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe".
Ðó là lời Chúa.
SUY NIỆM : Cha Mẹ Đức
Maria: Thánh Gioakim Và Anna
Trong Tin Mừng không
thấy tên các Ngài. Truyền thống cho chúng ta biết cha mẹ Đức Ma-ri-a gọi tên là
Gioakim và Anna.
Thánh Gioakim không được
sùng kính, nhưng thánh Anna thì khác.
Sùng kính quảng
đại quần chúng.
Lòng sùng kính thánh
Anna rất phổ thông trên đất Mỹ Châu ngay thời kỳ di dân. Lòng sùng kính Thánh
Anna có từ lâu đời ở Bretagne. Với số nhà thờ kể không xiết.
Với niềm tin mạnh mẽ,
đơn sơ, đẹp đẽ của chúng ta. Chúng ta tin rằng Thánh Anna là mẹ Đức Ma-ri-a. Niềm
tin đó càng dễ dàng, mạnh mẽ đón nhận vì Đức Ma-ri-a được sinh ra bởi một người
cha và một bà mẹ như bao nhiêu xác phàm khác.
Đôi cha mẹ.
Dù cha mẹ Ngài
có tên này hay tên khác, không cần bàn đến. Chúng ta tôn kính các Ngài chỉ vì
các Ngài đã ban cho chúng ta Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Đó là lần độc nhất trong lịch sử các thánh mà chúng ta
tôn kính các Ngài. Dù các Ngài không có tên trong danh sách chính thức các
thánh. Công phúc độc nhất của các Ngài mà không thánh nào có được là các Ngài
làm cha làm mẹ Đức Ma-ri-a.
Thật là mầu nhiệm đức
tin! Thánh Anna và Gioakim không hồ nghi gì về con các Ngài lớn lên là tôi tớ
khiêm nhường của Thiên Chúa, Mẹ Thiên Chúa ! các Ngài không thể đoán biết danh
tiếng các Ngài sẽ vượt mọi biên giới thời gian, nhưng danh đó như hoa nở, vì các
Ngài đã gieo hạt hoa hồng mầu nhiệm, gieo hạt hoa huệ tinh tuyền.
“Lạy Chúa, chúc tụng
Ngài đã vinh thăng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a”.
Thứ Năm sau Chúa Nhật
16 Quanh Năm
Bài Ðọc I: (Năm
II) Gr 2, 1-3. 7-8. 12-13
"Họ đã bỏ Ta
là nguồn nước hằng sống, để đào giếng rạn nứt".
Trích sách Tiên tri
Giêrêmia.
Ðây lời Chúa phán cùng
tôi rằng: "Ngươi hãy đi và hãy la vào tai Giêrusalem rằng: Ðây Chúa phán:
Ta đã nhớ mối tình thanh xuân của ngươi, nhớ đến tình yêu thời đính hôn của
ngươi, khi đó ngươi theo Ta trong sa mạc, trong phần đất chưa gieo trồng. Lúc ấy
Israel đã được thánh hiến cho Chúa, và là hoa quả đầu mùa của Người; những ai động
đến nó, phải đắc tội và phải chuốc lấy tai hoạ". Chúa phán như vậy.
"Ta đã dẫn dắt
các ngươi vào đất phì nhiêu, để các ngươi hưởng dùng hoa quả của nó; nhưng vừa ở
đó, các ngươi đã làm dơ bẩn đất của Ta và biến cơ nghiệp Ta thành nơi ghê tởm.
Các tư tế không nói: 'Chúa ở đâu?'; (các kẻ) nắm giữ lề luật không nhìn biết
Ta, còn các chủ chăn thì phản bội Ta, và các tiên tri lại nhân danh Baal mà nói
tiên tri và chạy theo các bụt thần giả trá".
Chúa lại phán: "Hỡi
tầng trời, hãy kinh ngạc về điều này, và hỡi các cửa trời, hãy ưu sầu thảm não!
Vì chưng, dân Ta đã phạm hai tội xấu xa: Họ đã từ bỏ Ta là nguồn nước hằng sống,
để đào những giếng rạn nứt không giữ nước được".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 35, 6-7ab.
8-9. 10-11
Ðáp: Lạy Chúa, nguồn sống là ở như nơi Chúa (c. 10a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, đức
từ bi Ngài chạm tới trời cao; lòng trung tín của Ngài vươn tới ngàn mây. Ðức
công minh của Ngài như núi non Thiên Chúa; sự phán quyết của Ngài như biển thẳm
sâu. - Ðáp.
2) Ôi Thiên Chúa, cao
quý thay ân sủng của Ngài; con người ta tìm nương tựa trong bóng cánh của Ngài.
Họ được ăn no đồ bổ dưỡng nơi nhà Chúa, và Chúa cho họ uống bởi nguồn vui thú của
Ngài. - Ðáp.
3) Bởi chưng nguồn sống
là ở như nơi Chúa, và trong sự sáng của Ngài, chúng con nhìn xem sự sáng. Xin
Chúa dành để tình thương cho những ai thờ Chúa, và đức công minh Ngài cho những
kẻ lòng ngay. - Ðáp.
Alleluia: Ga 15, 15b
Alleluia, alleluia! -
Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe
biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 13, 10-17
"Về phần các
con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không cho biết".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, các môn đệ đến
gần thưa Chúa Giêsu rằng: "Tại sao Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ?"
Người đáp lại: "Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời,
còn họ thì không cho biết. Vì ai đã có, thì ban thêm cho họ được dư dật; còn kẻ
không có, thì cái họ có cũng bị lấy đi. Bởi thế, Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ:
vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe và không hiểu chi hết. Thế mới
ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về họ rằng: "Các ngươi lắng tai nghe mà
chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã
bịt tai, và nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu
được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành".
"Phần các con,
phúc cho mắt các con vì được thấy; và phúc cho tai các con vì được nghe. Quả thật,
Thầy bảo các con: Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy
điều các con thấy, mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà
không được nghe".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Tại Sao Dùng
Dụ Ngôn
Kitô giáo là đạo từ trời
xuống, vì những giáo lý và niềm tin Kitô do chính Thiên Chúa truyền xuống. Chúa
Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa chính là mạc khải về Thiên Chúa cho con người.
Trong lời rao giảng của
Ngài, Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn để nói về Nước Trời, một thực tại không thể
diễn tả được bằng ngôn ngữ loài người, và nếu có diễn tả được, thì con người
cũng không thể hiểu nổi vì nó vượt khỏi thế giới khả giác này, hay nói như
thánh Phaolô, đó là thực tại mà mắt con người chưa từng thấy, tai chưa từng
nghe, lòng người chưa từng cảm nghiệm được. Thực tại ấy không thể thu hẹp trong
một vài câu định nghĩa, mà phải diễn tả bằng dụ ngôn, vì cách diễn tả này không
giới hạn, nhưng tạo thuận lợi cho việc tìm hiểu sâu xa hơn.
Dụ ngôn là một thứ
ngôn ngữ nói với những người trong cuộc, những người sống trong tình thân với
nhau. Ðể hiểu được dụ ngôn, cần phải có hai đức tính quan trọng, đó là tâm hồn
rộng mở và ước muốn tìm hiểu. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nói với các
môn đệ: "Về phần các con đã được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn
họ thì không". Nói khác đi, các môn đệ đã được chấp nhận vào cộng đoàn của
những kẻ tin vào Chúa Giêsu, vì thế, các ông có thể hiểu rõ những mầu nhiệm.
Còn những kẻ ở bên ngoài, nhất là những kẻ ở bên ngoài vì kiêu hãnh, vì khép
kín, vì định kiến, như các Luật sĩ và Biệt phái, thì khi nhìn vào các mầu nhiệm
họ chỉ thấy bí ẩn và khó hiểu. Chính cách trả lời của Chúa là tiêu chuẩn để biết
được ai là người thuộc về Chúa và ai là người ngoài cuộc: "Nếu Thầy dùng dụ
ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe. Còn
các con, mắt các con thật có phúc vì được thấy, tai các con có phúc vì được
nghe".
Ước gì chúng ta được
vào số những người mà Chúa Giêsu cho là có phúc, tức là những người thấy, nghe
và hiểu được Lời Chúa cũng như nhận ra ý Chúa trong mọi biến cố cuộc sống.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 16 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: Jer
2:1-3, 7-8, 12-13; Mt 13:10-17
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nếu những nhà
lãnh đạo không nói và làm chứng cho Thiên Chúa, nhân loại sẽ quên Ngài.
Có một câu truyện kể
khi Chúa Giêsu khải hoàn trở về trời, sứ thần Gabriel ra đón Chúa Giêsu và hỏi:
“Loài người có nhận biết những gì Ngài làm cho họ không?” Chúa Giêsu trả lời:
“Các môn đệ của tôi sẽ nói cho họ biết.” Sứ thần hỏi tiếp: “Điều gì sẽ xảy ra nếu
họ quên không rao giảng?” Chúa Giêsu trả lời: “Tôi tin là các môn đệ của tôi sẽ
không làm chuyện đó.”
Bổn phận quan trọng nhất
của các người lãnh đạo và các ngôn sứ là nói về Chúa và làm mọi cách cho dân nhận
biết Chúa; nhưng trong thực tế, nhiều người lãnh đạo đã lãng quên bổn phận quan
trọng này. Thay vào đó, họ chạy theo những bụt thần và dạy cho dân làm theo như
vậy. Nhiều nhà lãnh đạo trong xã hội chúng ta đang cố gắng loại trừ Thiên Chúa
ra khỏi thế giới: Họ cấm đọc kinh hay thinh lặng nhớ đến Chúa trước giờ học; họ
muốn cất đi bảng 10 điều răn trong các tòa án …
Các bài đọc hôm nay muốn
nhắc nhở cho mọi người bổn phận làm ngôn sứ của Thiên Chúa. Trong bài đọc I,
Thiên Chúa kết tội hàng lãnh đạo của Israel vì họ đã không làm tròn bổn phận dạy
dỗ dân. Trong Phúc Âm, khi các môn đệ hỏi Chúa Giêsu lý do Ngài dùng dụ ngôn mà
nói chuyện với dân chúng, Chúa Giêsu trả lời: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu
biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Những người lãnh đạo của Jerusalem đã không chu toàn bổn phận
của mình.
1.1/ Hãy đi mà thét vào
tai Jerusalem: Dân chúng rất mau quên;
vì thế, họ cần được các nhà lãnh đạo tinh thần nhắc đi nhắc lại tất cả những gì
Thiên Chúa đã làm cho họ. Nếu không, chỉ cần qua một thế hệ là những thế hệ đi
sau sẽ không còn biết gì đến Thiên Chúa nữa. Các ngôn sứ của Thiên Chúa không
ngừng nhắc nhở cho dân chúng về tình thương của Thiên Chúa, được biểu lộ qua biến
cố Xuất Hành, 40 năm trong sa mạc, và đưa vào Đất Hứa.
Trong trình thuật hôm nay,
chúng ta có thể nghe một sứ điệp tương tự. Đức Chúa phán với Jeremiah: “Hãy đi
mà thét vào tai Jerusalem như sau: Đức Chúa phán thế này: Ta nhớ lại lòng trung
nghĩa của ngươi lúc ngươi còn trẻ, tình yêu của ngươi khi ngươi mới thành hôn,
lúc ngươi theo Ta trong sa mạc, trên vùng đất chẳng ai gieo trồng. Bấy giờ
Israel là của thánh thuộc về Đức Chúa, là phần hoa lợi đầu mùa của Người; tất cả
những ai ăn lạm vào đó đều phạm lỗi, chúng phải mang tai mắc hoạ” – sấm ngôn của
Đức Chúa. Ta đã đưa các ngươi vào miền đất xanh tươi để các ngươi được ăn hoa
trái thổ sản của nó.” Mục đích của các ngôn sứ khi nhắc lại những lời này là muốn
dân chúng kiểm điểm lại nếp sống hiện tại của họ, và quay trở về với tình
thương trung thành của Thiên Chúa. Jeremiah viết: “Nhưng một khi vào rồi (Đất Hứa),
các ngươi đã làm nhơ nhớp đất của Ta, và biến gia sản của Ta thành đồ ghê tởm.”
1.2/ Các nhà lãnh đạo
không còn biết đến Thiên Chúa: Con cái
Israel được lãnh đạo bởi 4 thành phần chính sau khi lập nghiệp trong Đất Hứa.
(1) Thoạt đầu họ không có vua, vì Thiên Chúa chính là vua của họ; nhưng dần dần
dân chúng đòi các ngôn sứ phải đặt một vị làm vua cai trị họ. Ngôn sứ Samuel,
sau khi tham khảo ý Thiên Chúa đã đặt Saul làm vua đầu tiên cai trị Israel.
Trong trình thuật hôm nay, Jeremiah có lẽ gọi vua là các mục tử. Họ chống lại
Thiên Chúa bằng cách thiết lập các bàn thờ cho thần ngoại, và bắt dân chúng thờ
lạy.
(2) Hàng tư tế: Họ
chuyên lo việc thờ phượng trong Đền Thờ Jerusalem. Khi vua Jeroboam đúc hai con
bê bằng vàng cho dân chúng thờ, ông cũng thiết lập hàng tư tế riêng để lo việc
thờ phượng, mà không cần theo dòng tộc Levi. Hàng tư tế, trong trình thuật hôm
nay, cũng chẳng thèm hỏi: “Đức Chúa ở đâu?”
(3) Các kinh sư: là những
người chuyên học hỏi Lề Luật và dạy dỗ cho dân chúng. Nhưng dần dần, họ cũng chẳng
còn biết Luật để dạy cho dân chúng tuân theo.
(4) Các ngôn sứ: là những người nói thay cho Thiên Chúa. Nhưng cũng có các tiên tri giả xuất hiện. Họ không nói những gì Thiên Chúa truyền, nhưng “lại nhờ Baal mà tuyên sấm, chúng đi theo những thần vô tích sự.”
(4) Các ngôn sứ: là những người nói thay cho Thiên Chúa. Nhưng cũng có các tiên tri giả xuất hiện. Họ không nói những gì Thiên Chúa truyền, nhưng “lại nhờ Baal mà tuyên sấm, chúng đi theo những thần vô tích sự.”
Tất cả các nhà lãnh đạo
này đã hoàn toàn gạt Chúa ra ngoài cuộc sống, và đi theo những lợi lộc vật chất.
Họ đã bỏ quên Chúa là nguồn nước hằng sống; để thay bằng những giếng không giữ
được nước. Vì thế, họ sẽ kinh hoàng khi nhìn thấy hậu quả của những hành động
này; tất cả những gì họ chạy theo sẽ hoàn toàn bị hủy hoại.
2/ Phúc Âm: Những câu hỏi khó trả lời
(1) Tại sao dùng dụ
ngôn? Trước hết chúng ta cần biết chút ít về dụ ngôn: Dụ ngôn là những câu truyện
dùng những hình ảnh bình dân và quen thuộc để diễn tả những thực tại về luân
lý. Chúng là những ví dụ đưa ra để giúp làm sáng tỏ những gì đã đề cập tới. Vì
thế, dụ ngôn không cần thiết nếu khán giả đã hiểu những gì mà tác giả muốn nói.
Dụ ngôn thích hợp với khán giả bình dân để người nói có thể dẫn khán giả từ cái
họ đã hiểu đến cái họ chưa hiểu, từ cái cụ thể đến cái trừu tượng, từ cái thấy
được trong hiện tại đến cái sẽ tới trong tương lai.
Chúa trả lời cho các
môn đệ: phần các con đã được ban cho để thấu hiểu các mầu nhiệm Nước Trời,
nhưng họ thì chưa được. Để hiểu các mầu nhiệm Nước Trời, các tông đồ đã được
Chúa hướng dẫn từ các kiến thức căn bản trước khi có thể đi xa hơn để hiểu các
kiến thức cao sâu hơn.
(2) Tại sao người có lại
cho thêm? Người không có sẽ bị tước đi những gì họ đang có? Thoạt nghe qua có vẻ
như là Chúa bất công, nhưng điều này rất đúng trong lãnh vực tri thức: những ai
đã có kiến thức căn bản, họ sẽ dùng những kiến thức này để càng ngày càng hiểu
biết những kiến thức khác nhiều hơn; những ai chưa đạt được những kiến thức căn
bản họ không thể tiến xa hơn. Những ai đã có kiến thức căn bản mà không dùng tới
thì lâu ngày sẽ mất đi. Điều này rất đúng cho việc học ngoại ngữ. Có những người
mặc dù đã học tiếng Spanish ở trung học, nhưng nếu họ không dùng tới, những chữ
đã biết rồi cũng mất đi; nhưng nếu có cơ hội dùng tới thì càng ngày sẽ càng biết
nhiều hơn.
(3) Tại sao Chúa làm
cho mắt chúng mù, tai chúng điếc, và tim chúng ra chai đá? Nếu Thiên Chúa làm
như thế, họ còn trách nhiệm cho tội cứng lòng không?
Trước tiên, chúng ta cần
biết đây chỉ là một lối nói của người Do Thái vì họ đã quá quen trong việc tin
tưởng mọi sự xảy ra trong thế giới là do bởi Thiên Chúa. Tuy nhiên, họ không
tin Chúa là tác giả làm cho con người phạm tội, vì con người có đầy đủ ý thức
và tự do để làm những gì họ muốn.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
Để tin Chúa cần phải
biết về Ngài, nhưng làm sao biết nếu không có người rao giảng về Chúa? Nếu cha
mẹ và những người dạy dỗ đức tin không chu toàn bổn phận quan trọng này thì làm
sao thế hệ mai sau biết Chúa và tin vào Ngài?
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
26/07/2018 – THỨ NĂM TUẦN 16 TN
Th. Gio-a-kim và An-na, song thân Đức Ma-ri-a
Mt 13,10-17
CHÚA GIÊ-SU, VỊ THẦY TINH TẾ
Các môn đệ đến gần hỏi Chúa Giê-su rằng: “Sao Thầy
dùng dụ ngôn mà nói với họ?” Người đáp: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết
các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không.” (Mt 13,10-11)
Suy niệm: Trong cuộc đời rao giảng,
Chúa Giê-su, như một người thầy tinh tế, thường dùng các dụ ngôn qua những câu
chuyện thực tế với những hình ảnh quen thuộc hằng ngày để người nghe có thể dễ
dàng tiếp cận sứ điệp Tin Mừng. Thái độ đáp lại của họ thật khác biệt nhau: có
người thì trầm trồ khen ngợi tài giảng thuyết của Ngài, có người lại trở nên
chai đá cứng lòng. Thế nhưng các mầu nhiệm Nước Trời vẫn còn bị che khuất đối với
họ. Điều đó khiến các tông đồ thắc mắc: tại sao Thầy không nói trắng ra mà lại
dùng dụ ngôn? Thì đây, bí quyết được chính vị Thầy tinh tế đó tiết lộ: Hiểu biết
các mầu nhiệm Nước Trời là một hồng ân Chúa ban; và để tiếp nhận được hồng ân
đó cần có một cuộc sống thân mật gần gũi với Chúa Ki-tô. Quả thật trong những
giây phút thân mật thầy và trò, Ngài mới giải thích ý nghĩa thâm sâu đích thực
của các dụ ngôn đó.
Bạn thân mến, Chúa
Ki-tô vẫn đang nói với chúng ta qua những “dụ ngôn” đời thường, những sự kiện
văn hoá, xã hội, chính trị…, những biến cố xảy ra nơi giáo xứ, cộng đoàn, gia
đình… Chúng mình chỉ có thể nhận ra sứ điệp của Chúa trong những giây phút cầu
nguyện thân mật trầm lắng với Ngài.
Sống Lời Chúa: Luôn dành thời giờ để tâm
sự với Chúa, tại gia và hơn nữa, trước Thánh Thể.
Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa
là Cha rất nhân từ, xin ban thêm Đức Tin cho con, để con luôn bình an – vui
tươi và nhận diện ra sự đồng hành của Ngài trong từng giây phút cuộc sống.
Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Anh em thật có phúc (26.7.2018 – Thứ năm Tuần 16
Thường niên)
Suy niệm
Tiền định là một trong những vấn đề gây tranh cãi trong thần học.
Có người nhấn mạnh quá đến tác động của ơn Chúa cần để được cứu độ,
đến nỗi coi nhẹ tự do và trách nhiệm của con người.
Có người còn dám cho rằng Chúa đã định sẵn từ vĩnh cửu
những ai phải vào hỏa ngục hay được lên thiên đàng.
Thật ra Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ (1 Tm 2, 4; 4, 10).
Kế hoạch của Ngài là cứu độ toàn thế giới, chẳng trừ một ai.
Muốn được cứu thoát, con người phải dùng tự do mình mà đón lấy ơn Chúa.
Ơn Chúa có tác động trên tự do con người,
nhưng lại không áp đặt hay cưỡng ép nó, vì nếu thế sẽ chẳng còn tự do.
Chính Thiên Chúa ban tự do cho con người, và chính Ngài tôn trọng tự do ấy.
Thiên Chúa không thể tiền định lời đáp của con người trước lời mời của ân sủng.
Có người nhấn mạnh quá đến tác động của ơn Chúa cần để được cứu độ,
đến nỗi coi nhẹ tự do và trách nhiệm của con người.
Có người còn dám cho rằng Chúa đã định sẵn từ vĩnh cửu
những ai phải vào hỏa ngục hay được lên thiên đàng.
Thật ra Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ (1 Tm 2, 4; 4, 10).
Kế hoạch của Ngài là cứu độ toàn thế giới, chẳng trừ một ai.
Muốn được cứu thoát, con người phải dùng tự do mình mà đón lấy ơn Chúa.
Ơn Chúa có tác động trên tự do con người,
nhưng lại không áp đặt hay cưỡng ép nó, vì nếu thế sẽ chẳng còn tự do.
Chính Thiên Chúa ban tự do cho con người, và chính Ngài tôn trọng tự do ấy.
Thiên Chúa không thể tiền định lời đáp của con người trước lời mời của ân sủng.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, có những câu cần được soi sáng.
“Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các màu nhiệm Nước Trời,
còn họ thì không” (c. 11).
Câu này có thể bị hiểu lầm là Thiên Chúa có sự phân biệt đối xử.
Các môn đệ thì được ơn hiểu biết, còn đám đông thì không.
Thật ra Đức Giêsu chỉ muốn nói lên sự kiện này,
các môn đệ là những người đã đáp lại tiếng gọi của Ngài,
nên họ được ơn hiểu biết, ơn nắm bắt được mầu nhiệm Nước Trời.
Còn đám đông những người từ chối thì khó lòng hiểu được.
Một câu khác cũng cần được hiểu đúng : “Người đã có lại được cho thêm,
còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi” (c. 12).
Ở đây Đức Giêsu chỉ muốn nói rằng những ai đã mở lòng đón nhận
thì càng được Thiên Chúa ban cho sự hiểu biết đức tin sâu xa hơn.
Còn những người đã khép lòng trí lại, thì về mặt thiêng liêng sẽ bị nghèo đi.
“Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các màu nhiệm Nước Trời,
còn họ thì không” (c. 11).
Câu này có thể bị hiểu lầm là Thiên Chúa có sự phân biệt đối xử.
Các môn đệ thì được ơn hiểu biết, còn đám đông thì không.
Thật ra Đức Giêsu chỉ muốn nói lên sự kiện này,
các môn đệ là những người đã đáp lại tiếng gọi của Ngài,
nên họ được ơn hiểu biết, ơn nắm bắt được mầu nhiệm Nước Trời.
Còn đám đông những người từ chối thì khó lòng hiểu được.
Một câu khác cũng cần được hiểu đúng : “Người đã có lại được cho thêm,
còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi” (c. 12).
Ở đây Đức Giêsu chỉ muốn nói rằng những ai đã mở lòng đón nhận
thì càng được Thiên Chúa ban cho sự hiểu biết đức tin sâu xa hơn.
Còn những người đã khép lòng trí lại, thì về mặt thiêng liêng sẽ bị nghèo đi.
Vào buổi ban đầu, các môn đệ tin theo Đức Giêsu chỉ là nhóm nhỏ.
Còn một đám đông lớn người Do-thái không tin nhận Ngài.
Đức Giêsu giảng cho họ bằng những dụ ngôn đơn sơ gần gũi.
Ngôn ngữ của dụ ngôn vừa dễ hiểu đối với người mở lòng đón nhận,
vừa khó hiểu đối với những ai từ chối và khép kín (c. 13).
Đức Giêsu không chơi khăm con người khi giảng bằng dụ ngôn,
để khiến họ trố mắt nhìn mà không thấy, lắng tai nghe mà không hiểu.
Nếu họ không hiểu được dụ ngôn, thì không phải lỗi tại Ngài,
mà do quả tim họ đã ra chai đá, do họ nhắm mắt, bịt tai .
Họ không hiểu vì không muốn hoán cải và được chữa lành (c. 15).
Còn một đám đông lớn người Do-thái không tin nhận Ngài.
Đức Giêsu giảng cho họ bằng những dụ ngôn đơn sơ gần gũi.
Ngôn ngữ của dụ ngôn vừa dễ hiểu đối với người mở lòng đón nhận,
vừa khó hiểu đối với những ai từ chối và khép kín (c. 13).
Đức Giêsu không chơi khăm con người khi giảng bằng dụ ngôn,
để khiến họ trố mắt nhìn mà không thấy, lắng tai nghe mà không hiểu.
Nếu họ không hiểu được dụ ngôn, thì không phải lỗi tại Ngài,
mà do quả tim họ đã ra chai đá, do họ nhắm mắt, bịt tai .
Họ không hiểu vì không muốn hoán cải và được chữa lành (c. 15).
Như các môn đệ xưa, các kitô hữu ngày nay cũng là người có phúc.
Chúng ta được thấy, được nghe nhiều điều mà người khác không được.
Ước gì chúng ta tìm được thứ ngôn ngữ thích hợp
để ai cũng có thể nghe được và hiểu được sứ điệp cứu độ của Chúa.
Chúng ta được thấy, được nghe nhiều điều mà người khác không được.
Ước gì chúng ta tìm được thứ ngôn ngữ thích hợp
để ai cũng có thể nghe được và hiểu được sứ điệp cứu độ của Chúa.
Lời nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
26 THÁNG BẢY
Thiên Chúa Muốn Thiết
Lập Vương Quyền Của Ngài Trong Đời Sống Chúng Ta
Từ những suy tư rút ra
từ các Thư của Thánh Phao-lô như trên, chúng ta có thể hiểu hơn giáo huấn của Đức
Kitô về sự quan phòng bao trùm mọi sự của Cha trên trời (Mt 6,25-34 và Lc
12,22-31): “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, rồi
các thứ khác sẽ được ban thêm cho” (Mt 6,33; Lc 12,31).
Nói “trước hết”, Đức
Giêsu cho thấy rõ Thiên Chúa muốn gì trước hết nơi mỗi chúng ta. Điều mà Thiên
Chúa nhắm đến trước hết trong công cuộc sáng tạo thế giới, điều mà Ngài ao ước ở
chung cuộc của thế giới chính là thiết lập “Nước của Ngài và sự công chính của
Ngài” trong đời sống chúng ta. Toàn thể thế giới đã được tạo thành trong định
hướng qui về Vương Quốc này. Thế giới được tiền định để đạt tới sự viên mãn của
nó nơi con người và nơi lịch sử của con người trong thời gian của Thiên Chúa.
Vương quyền của Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, đó là điều mà thế giới và
con người được tiền định từ đời đời trong Đức Kitô.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 26/7
Thánh Gioakim và
Thánh Anna
song thân Đức Maria
Gr 2,
1-3.7-8.12-13; Mt 13, 10-17.
LỜI SUY NIỆM: “Các môn đệ đến
gần hỏi Chúa Giêsu rằng: “Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ.” Người đáp:
“Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì
không.”
Trước sự thắc mắc của các Tông Đồ, khi thấy Chúa Giêsu luôn dùng dụ ngôn mà nói
với đám đông, bởi vì Nước Trời là một mầu nhiệm. Trong mọi dụ ngôn của Chúa đưa
ra rất gần gũi với đời sống của con người, những gì họ đã thấy, đã đụng chạm đến
được, để giúp cho họ khám phá ra, và trong mọi khám phá đó, nếu con người càng
đào sâu, đào rộng, thì sẽ nhận ra nhiều điều cần thiết cho chính mình và giúp
ích cho nhiều người khác nhận ra điều thiện hảo, mà họ không có khả năng và diều
kiện đào sâu và đào rộng.
Lạy Chúa Giêsu, xin
cho mỗi người trong chúng con luôn học hỏi Lời Chúa, dọc và suy niệm Lời Chúa,
hầu giúp cho tất cả chúng con vững bước, tiến về Nước Trời.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
26-07: Thánh GIOAKIM VÀ ANNA
Phụ Mẫu Của Đức
Trinh Nữ Maria
Chúng ta không biết chắc
được điều gì về cha mẹ của Đức Trinh Nữ. Những điều liên quan tới các Ngài mà
chúng ta biết được là do các ngụy thư, đầy tính chất hoang đường. Khi óc tò mò
của dân chúng không được thỏa mãn với các chi tiết thánh kinh và thánh truyền
cung ứng cho, thì óc tưởng tượng đã lấp đầy khoảng trống.
Cuốn ngụy thư “Phúc âm
thánh Giacôbê”, một văn nguồn vào thế kỷ thứ II, có nhiều chỉ dẫn liên quan đến
cha mẹ và cuộc đời thơ ấu của Đức Trinh nữ. Những chỉ dẫn này rất giống câu
chuyện về tuổi trẻ của Samuel trong sách ISm 1-2. Các học giả cho rằng chúng chỉ
cho là một sự bắt chước, chính danh xưng Anna cũng không có gì chắc chắn vì nó
trùng với tên mẹ tiên tri Samuel.
Dường như khuôn mặt
Gioakim cũng dựa một phần vào người chồng của Suzana trong sách Daniel 13. Cần
phải nhớ rằng thánh Luca khi dùng những chương sách ISm làm khung cho bản tường
thuật về cuộc sinh hạ và tuổi trẻ của thánh Gioan Tẩy giả, Ngài đã cẩn thận
dùng sự kiện lịch sử để bảo đảm sự sống đời này.
Tuy nhiên nét đẹp của
câu chuyện, như hầu hết các truyện thần thoại khác, đều có giá trị biểu trưng của
nó, truyện kể rằng ông bà Gioakim và Anna son sẻ. Đây là một thử thách lớn lao
đối với các Ngài. Nhưng một thiên thần đã báo cho biết họ sinh một con trẻ, họ
sẽ đặt tên là Maria và cung hiến cho Thiên Chúa. Nếu các Ngài chọn đau khổ là
vì mọi đóng góp vào công cuộc cứu rỗi đều bao hàm sự chia sẻ thánh giá với Chúa
Kitô.
Đàng khác, sự son sẻ của
Anna gợi lên chủ đề quen thuộc trong Cựu ước, theo đó con trẻ là quà tặng của
Thiên Chúa. Điều này được nhấn mạnh đặc biệt trong truyền thống về các tổ phụ
Isaac, Giacob và Giuse về quan án Samson và tiên tri Samuel. Các Ngài đều sinh
ra bởi các bà mẹ không có hy vọng sinh con. Định mệnh của Thiên Chúa chỉ bởi
Thiên Chúa mà thôi.
Người Israel chân
chính viết rằng mình không thể tự mãn được và phải tùy thuộc vào sáng kiến của
Thiên Chúa. Huyền thoại đặt cuộc sinh hạ của Đức trinh Nữ Maria vào dòng tư tưởng
này như cao điểm của chủ đề và sự bất lực của con người trước uy quyền của
Thiên Chúa.
Việc tôn sùng thánh
Anna có từ thế kỷ thứ VI bên Đông phương vào đầu thế kỷ VIII bên Roma. Cuối thời
Trung Cổ, lòng sùng kính lan rộng khắp Au Châu. Dường như năm 1382 do sự khẩn
nài của nước Anh, lễ kính Ngài lần đầu tiên được mừng hàng năm. Nhưng chỉ mới từ
hai thế kỷ gần đây lễ này mới được ghi vào lịch chung Roma.
(daminhvn.net)
26 Tháng Bảy
Vết Sẹo Nơi Bàn Chân
Ông Khấu Chuẩn, người
đời nhà Tống, đất Hạ Bì, lúc nhỏ là một cậu bé lêu lổng, ham chơi. Bà mẹ vốn là
người nghiêm khắc, nên thường hay quở phạt ông. Tuy nhiên, tính nào vẫn tật ấy,
Khấu Chuẩn vẫn không thay đổi. Một hôm, ông trốn học đi chơi, bà mẹ giận quá cầm
quả cân ném phải chân ông, máu chảy đầm đìa… Từ đó, ông đã bỏ hẳn tính lêu lổng
phóng túng, chỉ lo chuyên cần học tập. Về sau đỗ đạt, ông được bổ làm tể tướng.
Mỗi khi sờ đến vết sẹo ở bàn chân, ông khóc nức nở: “Chính vết thương này đã
làm ta nên người”.
Sống là một cuộc chiến
đấu không ngừng. Thương tích dường như là một điều thiết yếu trong cuộc sống. Vấp
ngã là điều thường tình trong thân phận con người. Chúng ta không nhìn lại những
vết sẹo trong tâm hồn để nuối tiếc quá khứ, nhưng để nhận rõ dấu chỉ của một
tình thương bao la cao cả hơn. Phải, Thiên Chúa mạnh hơn sự chết và tội lỗi của
con người. Nói như thánh Phaolô: nơi nào tội lỗi càng nhiều, nơi đó ân sủng của
Chúa càng dồi dào.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét