10/11/2019
Chúa Nhật 32 Thường Niên năm C
(phần I)
BÀI ĐỌC I: 2 Mcb 7,
1-2. 9-14
“Vua vũ trụ sẽ làm cho chúng
tôi được sống lại trong cuộc sống đời đời”.
Trích sách Macabê
quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy,
có bảy anh em bị bắt làm một với mẹ mình, và bị vua cho đánh bằng roi da và roi
gân bò, bắt ép ăn thịt heo mà lề luật đã cấm. Nhưng người anh cả của chúng tâu
vua rằng: “Bệ hạ còn hỏi han và muốn dò xét chúng tôi làm chi? Chúng tôi sẵn
sàng chịu chết hơn là phạm đến lề luật Thiên Chúa đã truyền cho tổ phụ chúng
tôi”.
Khi sắp thở hơi cuối
cùng, người con thứ hai tâu vua rằng: “Hỡi vua độc ác kia, vua chỉ cất mất mạng
sống chúng tôi ở đời này, nhưng Vua vũ trụ sẽ làm cho chúng tôi, là những kẻ đã
chết vì lề luật của Người, được sống lại trong cuộc sống đời đời”.
Sau khi người con thứ
hai chết, thì đến người con thứ ba chịu cực hình, tên lý hình bảo cậu le lưỡi,
cậu liền le lưỡi, dõng dạc giang hai tay ra và nói một cách tin tưởng rằng:
“Tôi được Trời ban cho các phần thân thể này, nhưng giờ đây vì lề luật của
Thiên Chúa, tôi khinh chê chúng, bởi tôi trông cậy rằng Người sẽ ban lại cho
tôi các phần thân thể ấy”. Nhà vua và những kẻ tuỳ tùng của ông lấy làm bỡ ngỡ
thấy lòng mạnh bạo của cậu trẻ coi các cực hình như không.
Người con thứ ba chết
rồi, thì người ta bắt người con thứ tư chịu cùng một cực hình. Lúc sắp chết, cậu
nói rằng: “Thà chịu chết do tay người đời mà trông cậy Thiên Chúa sẽ cho sống lại
thì hơn: Phần vua, vua sẽ không được sống lại để sống đời đời đâu”. Đó là lời
Chúa.
ĐÁP CA: Tv 16, 1. 5-6.
8b và 15
Đáp: Lạy Chúa, khi
thức giấc, con no thỏa nhìn chân dung Chúa (c. 15b).
Xướng: 1) Lạy Chúa,
xin nghe điều chính nghĩa của con, xin để ý đến lời con kêu cứu, lắng tai nghe
tiếng con thốt ra tự cặp môi chân thành. – Đáp.
2) Bước con đi bám chặt
đường lối của Ngài, chân con đã không hề xiêu té. Con kêu van Ngài, bởi Ngài nhậm
lời con, lạy Chúa, xin lắng tai về bên con, xin nghe rõ tiếng con. – Đáp.
3) Xin che chở con
trong bóng cánh của Ngài. Phần con, nhờ công chính, sẽ được thấy thiên nhan,
khi thức giấc, con no thỏa nhìn chân dung Chúa. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: 2 Tx 2, 15
– 3, 5 (Hl 2, 16 – 3, 5)
“Chúa làm cho lòng anh em bền vững
trong mọi việc làm và lời nói tốt lành”.
Trích thư thứ hai của
Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.
Anh em thân mến, nguyện
xin Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng đã
thương yêu chúng ta và dùng ân sủng của Người mà ban cho chúng ta sự an ủi đời
đời và lòng cậy trông tốt lành, xin Người khuyên bảo và làm cho lòng anh em bền
vững trong mọi việc làm và lời nói tốt lành.
Anh em thân mến, ngoài
ra, xin anh em hãy cầu nguyện cho chúng tôi, để lời Thiên Chúa chóng lan tràn
và được vinh hiển như việc đã thể hiện nơi anh em, và để chúng tôi thoát khỏi
tay những kẻ lầm lạc và xấu xa: vì không phải hết mọi người đều có lòng tin.
Nhưng Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người sẽ làm cho anh em được kiên vững và
gìn giữ anh em khỏi sự dữ. Chúng tôi tin tưởng anh em trong Chúa: những điều
chúng tôi truyền dạy, anh em hiện đang thi hành và sẽ còn thi hành. Nguyện xin
Chúa hướng lòng anh em đến tình yêu Thiên Chúa và lòng kiên nhẫn của Đức Kitô.
Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Lc 21, 36
Alleluia, alleluia!
– Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp
xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 20, 27-38
“Thiên Chúa không phải là Thiên
Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống”.
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có mấy người
thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự sống lại, đến gần Chúa
Giêsu hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, Môsê đã viết cho chúng tôi: Nếu ai có một người
anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ goá
đó, để cho anh mình có kẻ nối giòng. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ
rồi chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không
con. Người thứ ba cũng cưới người vợ goá đó. Và tất cả bảy người đều cưới như vậy
và đều chết mà không để lại người con nào; sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết.
Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy? vì tất cả
bảy người đều lấy người ấy làm vợ”.
Chúa Giêsu trả lời họ
rằng: “Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần
đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ
không thể chết nữa: vì họ giống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa: vì họ
là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Môsê đã cho biết điều
ấy trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên
Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Nhưng Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của
kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người đều sống cho Chúa”. Đó là lời Chúa.
Hoặc bài vắn này: Lc 20, 27. 34-38
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có mấy người
thuộc phái Sađốc, là những người chối không tin có sự sống lại, đến gần Chúa
Giêsu hỏi Người. Chúa Giêsu trả lời họ rằng: “Con cái đời này cưới vợ, lấy chồng,
song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết,
thì sẽ không cưới vợ lấy chồng. Họ sẽ không thể chết nữa: vì họ giống như thiên
thần. Họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ
chết sống lại, thì Môsê đã cho biết điều ấy trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông
gọi Chúa là Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, và Thiên Chúa Giacóp. Nhưng
Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống. Vì mọi người
đều sống cho Chúa”. Đó là lời Chúa.
Suy Niệm: Thiên Chúa của sự sống lại
Các Chúa nhật cuối năm Phụng vụ muốn hướng suy nghĩ của chúng ta về tận
thế và đời sau... Hôm nay Lời Chúa - nhất là trong bài sách Maccabê và bài Tin
Mừng - nói với chúng ta về việc sống lại sau này. Còn bài thư Phaolô khuyên bảo
chúng ta một vài công việc cụ thể phải làm trong khi chờ đợi ngày Ðức Giêsu Kitô
trở lại.
1. Chúng Ta Sẽ Sống Lại
Ðây là niềm tin đặc biệt của đạo ta. Ngay trong Do Thái giáo, điều này
cũng không được rõ ràng. Còn nơi những tôn giáo khác, người ta sẵn sàng tin có
sự sống đời sau, nhưng không hề nghe nói sẽ có sự sống lại.
Thật vậy, hầu hết các tôn giáo đều nghĩ rằng chết chưa phải là hết. Con
người sau khi chết được đưa sang một thế giới khác hoặc được dẫn đến một chỗ
khác để tiếp tục sống. Thế nên mới có câu thác là thể phách, còn là tinh anh. Tức
là người ta chỉ chết về phần thể xác; nhưng phần linh thiêng nơi con người sẽ
còn mãi và sống mãi, hoặc để hưởng hạnh phúc nếu khi còn sống người ta đã ăn
ngay ở lành, hoặc để chịu phạt, nếu ngược lại người ta đã ăn ở độc ác.
Chúng ta không cần đi sâu vào những quan niệm này. Chúng ta chỉ cần biết
chẳng có tôn giáo nào nói đến việc con người chết đi rồi sẽ sống lại như đạo
chúng ta dạy.
Ngay cả đạo Do Thái cũng không dứt khoát về điểm này. Cứ xem bài Tin Mừng
hôm nay thì rõ. Phái Sađốc không những không tin mà còn chế nhạo những ai tin
việc xác thịt con người sau này sẽ sống lại. Ðiều đáng để ý là phái Sađốc này gồm
hầu hết hàng tư tế Do Thái... Vậy thì các sách Cựu Ước không dạy niềm tin này
sao?
Chúng ta không thể trả lời đơn sơ được, cứ chung mà nói người Do Thái vẫn
tin có đời sau. Nhưng đời sau đối với họ là đêm tối. Chính đời này mới là ánh
sáng ban ngày. Ít nhất đối với đa số loài người. Vì dù sao người Do Thái cũng
có lòng kính mến các tổ phụ và tiên tri. Họ không dám nói đến cuộc sống bên kia
của các ngài. Họ âm thầm nghĩ rằng các ngài đang được hạnh phúc trong ánh sáng
của Thiên Chúa. Nhưng công khai thì họ tuyên bố: đời sống ở bên kia thế giới của
những người khác, tức là của hầu hết mọi người, buồn thảm lắm và không có gì hấp
dẫn cả. Lý do vì đó là thế giới của sự chết. Của âm phủ. Không những không có
ánh sáng của Chúa ở những nơi đó mà tại đây cũng chẳng còn ai kêu cầu danh
Chúa. Thực ra quan niệm của các sách Cựu Ước về đời sau không đơn nhất và rõ rệt.
Chung chung người Do Thái không nghĩ rằng: Sinh ký tử quy, sống gửi thác về. Và
họ không có những kim tự tháp như người Ai Cập, hoặc các lăng mộ như người Việt
Nam. Họ không tin ở giá trị của đời sau bao nhiêu.
Tuy nhiên, trên nền trời tư tưởng chung chung mờ tối đó, đã có những tia
sáng thật chói. Một Ezekiel đã có thể nói đến một cánh đồng xương khô bỗng được
thần khí nhập vào và sống lại. Ðành rằng đó chỉ là hình ảnh về cuộc phục hưng xứ
sở sau thời gian lưu đày tan nát. Nhưng nguyên việc nghĩ đến một hình ảnh như
thế cũng nói lên tác giả có một ước vọng về phục sinh. Dù sao, bản văn của
Ezekiel vẫn không cụ thể bằng câu truyện bảy anh em tử đạo hôm nay về vấn đề
này.
Bấy giờ là thời Hy Lạp đô hộ Do Thái. Hoàng đế Epiphane IV tưởng đã có
thể thống nhất đế quốc của ông về mặt tôn giáo như đã thống nhất về mặt văn hóa
và chữ viết. Ông cho lệnh dẹp tôn giáo Do Thái, bãi bỏ lề luật Môsê... và truyền
dân phải làm những điều cấm kỵ trong Luật. Chính vì vậy ông đã bắt tám mẹ con một
gia đình đạo đức phải ăn thịt lợn. Nhưng cả tám mẹ con đều cương quyết thà chết
chẳng thà vi phạm Luật pháp của tổ tiên. Và hết thảy họ đã chết vì đạo sau khi
chịu những tra tấn hành hạ thật dã man.
Ở đây Phụng vụ chỉ nhặt lại những câu mà những người thánh ấy đã nói trước
khi chết, có hệ đến việc xác thịt con người sau này sẽ sống lại. Ðó là những lời
tuyên xưng niềm tin không mập mờ. Họ khẳng định: "Vua cả vũ trụ sẽ cho
chúng ta sống lại; Người sẽ hoàn lại cho ta sự sống còn mãi đời đời. Người sẽ
trả lại cho chúng ta sinh khí với sự sống, một khi chúng ta đã không màng đến
chính mình để bênh vực các Luật của Người...". Và lúc phải đưa các chi thể
ra cho lý hình làm khổ và cắt xẻo họ đã khẳng khái tuyên bố: "Nhờ Trời ban
mà chúng tôi đã có chúng, vì các Luật của Người mà tôi khinh màng chúng, nhưng
tôi trông cậy sẽ lấy lại do Người ban lại".
Những lời này chắc chắn đã làm cho mọi người kinh ngạc. Và nhất là người
Hy Lạp đang tra tấn các thánh. Làm sao họ có thể tin được những lời ấy vì người
Hy Lạp vốn coi thân thể là tù ngục, phải diệt đi, bỏ đi cho tinh thần được vươn
lên. Ðối với người Do Thái vốn có óc cụ thể và quý trọng những gì hữu hình, niềm
tin kia lẽ ra phải khơi lên phấn khởi. Nhưng vì khác với khuynh hướng tâm lý của
họ quá, nó đã không trở thành một niềm tin phổ cập và nhất là chắc chắn. Phải đợi
đến khi Ðức Giêsu tuyên bố lập trường của Người và nhất là kể từ ngày chính Người
đã phục sinh, niềm tin xác thịt chúng ta sẽ sống lại mới dần dần được chấp nhận.
Trước khi đi đến ngày nó trở thành một tín điều trong bản kinh, chúng ta
hãy nghe Chúa Giêsu dạy dỗ chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.
2. Sống Lại Rồi Sẽ Ðược Như Các Thiên Thần
Thánh Luca đặt câu chuyện những người phái Sađốc đến chất vấn Ðức Giêsu
vào những ngày cuối cùng trước khi Người bị nộp. Vì thế nó có ý nghĩa bắt bẻ,
gây hấn. Nhưng dùng những ngày cuối đời của Người để xin Ðức Giêsu nói về đời
sau, tác giả Luca lại thấy đó là điều hợp tình hợp lý.
Vậy có mấy người thuộc phái Sađốc đến. Họ phủ nhận việc sống lại mặc dầu
đã có bài sách Maccabê như chúng ta đã thấy trên. Hơn nữa Ðaniel cũng đã khẳng
định: "Nhiều người sẽ thức dậy, kẻ thì dành cho sự hằng sống; kẻ sẽ chuốc
lấy ô nhục". Nhưng phái Sađốc không tin những loại sách này. Họ gồm phần lớn
các người ở trong hàng tư tế. Họ bám lấy Ngũ thư là năm quyển đầu tiên trong bộ
Kinh Thánh, đó là luật pháp Môsê, nền tảng của đạo giáo, cơ sở của hàng tư tế.
Những sách khác đối với họ không có nhiều uy tín. Họ không giống như biệt phái.
Những người này không những tin ở Ngũ thư mà còn tin ở các sách Tiên tri
và các sách khác nữa. Ðó là những sách đã khởi sự với phong trào Ðệ nhị luật, tức
là suy nghĩ về luật pháp. Biệt phái là các thần học gia không ngừng học hỏi và
dạy dỗ luật pháp. Họ quý những sách viết sau như những sách viết trước vì họ
quan niệm Lời Chúa và mạc khải sống động và triển khai không ngừng. Thế nên họ
tin lời sách Ðaniel cũng như lời sách Maccabê về việc phục sinh sau này.
Ðang khi ấy, phái Sađốc chú trọng đến tế tự và địa vị lãnh đạo của mình.
Ngoài việc dâng lễ ra, họ chỉ quan tâm đến đời sống chính trị. Họ sợ biến động
làm rối các cuộc lễ. Và vì thế họ không ngần ngại đi với chính quyền và sẵn
sàng chế nhạo những việc khác.
Biết Ðức Giêsu thiên về giảng dạy đạo lý và chủ trương như biệt phái về
việc phục sinh sau này, mấy người phái Sađốc đến hỏi để giễu cợt nếu có sự sống
lại thì sau này một người đàn bà đã lần lượt lấy bảy anh em làm chồng theo luật
pháp, sẽ là vợ của ai? Theo luật Do Thái thì người ấy là vợ của bảy người;
nhưng điều này có thể ở thế gian vì lần lượt xảy ra; chứ ở đời sau thì làm thế
nào được vì tất cả đều sống cùng một lúc? Rõ ràng chỉ có óc tư tế thiên về luận
lý mới đề nghị ra những "nố" luật như vậy, để gây lúng túng cho các
thần học gia.
Nhưng Ðức Giêsu không phải là nhà thần học. Người là chân lý. Và chân lý
bao trùm mọi lĩnh vực. Người hiểu rõ vì sao có điều luật kia trong sách Môsê.
Nó đáp lại nguyện vọng của con người muốn sống trong trường cửu nhưng lại không
hiểu rõ về những gì sẽ xảy ra sau khi chết. Người ta muốn nối dài đời sống con
người bằng một quyết định pháp luật, bắt người có anh em vừa chết phải lấy vợ của
người chết để lại mà truyền hậu cho anh em mình; tức là khi làm cho người chết
có con nối dõi tông đường, người ta nghĩ rằng có thể kéo dài sự sống của người
chết ra mãi mãi.
Nhưng tên tuổi của người này có thể được tiếp nối ở đời này; còn sự sống
của chính người ấy thì sao? Có thế giới bên kia cho người ấy ở không? Nếu quan
niệm đời sống ở đó chỉ leo lét như ngọn đèn mù, tức là yếu ớt và thê thảm, thì
chẳng cần nói làm gì. Nhưng nếu tin rằng đời sống ở bên kia thế giới rất tích cực
và phong phú, thì làm sao giải thích được một vấn nạn như mấy người phái Sađốc
nêu lên hôm nay? Phái này không tin có sự phục sinh kẻ chết, vì họ thấy không
có cách nào giải quyết được các vấn nạn kia. Tức là họ không tin có đời sau vì
họ không thấy đời sau giải quyết được những vấn đề của đời này đặt ra. Họ coi đời
sau như nối dài y nguyên sự sống ở đời này. Và đó là sai lầm của họ.
Ðức Giêsu vạch cho họ thấy sự sai lầm này, Người nói: Con cái đời này
thì cưới vợ lấy chồng; còn những ai đáng hưởng đời sau và sống lại từ cõi chết,
thì sẽ không cưới vợ lấy chồng... bởi họ được như thiên thần và nên con cái
Thiên Chúa.
Chúng ta vừa nghe lời Chúa liền nghĩ ngay đến tính cách thiêng liêng của
đời sau, ở đó không còn phong tục của đời này nữa. Nhưng phái Sađốc và người Do
Thái lại không nghĩ ngay như vậy. Nghe nhắc đến thiên thần, họ nghĩ ngay đến những
bậc mà lẽ sống là thờ lạy, chúc tụng và vâng lời Thiên Chúa. Họ nghĩ đến sinh
hoạt hơn là có ý tưởng về bản chất của các bậc ấy. Và họ hiểu rằng: Ở đời sau
con người sẽ hoàn toàn sống cho Thiên Chúa và quy hướng về Người.
Hơn nữa, họ sẽ là con cái Người. Và theo quan niệm Do Thái, sự sống của
Thiên Chúa và con cái Người thì khác; còn sự sống của loài người và con cái thế
gian thì khác. Một đàng vĩnh cửu nên không cần truyền sinh, đàng kia vắn vỏi
nên cần cưới vợ lấy chồng.
Nghĩ như vậy có lẽ phái Sađốc đã yên tâm. Chứ họ chưa hiểu sâu sắc như
tác giả Luca đâu. Ðối với thánh Luca khi nghe nói người ta sẽ nên con cái Thiên
Chúa, một khi đã là con cái của sự sống lại, thì lập tức ngài đã nghĩ đến chính
Ðức Giêsu nhờ việc sống lại đã được tuyên dương là Con Thiên Chúa. Và ngài biết
rằng người ta chỉ nên con cái Thiên Chúa khi sát nhập vào cơ thể Chúa Kitô, tức
là tham dự mầu nhiệm chết và sống lại của Người. Không thể so sánh sự sống phục
sinh này với sự sống ở trần gian. Các vấn nạn của đời sống thế gian chẳng còn
nghĩa lý gì đối với sự sống ở trên Nước Trời.
Hóa giải được vấn nạn của mấy người phái Sađốc rồi, lẽ ra Ðức Giêsu
không cần phải nói thêm gì nữa. Nhưng Người là Ðấng luôn thương yêu cho đến
cùng và đến cứu người ta ra khỏi tối tăm lầm lạc. Người muốn cho phái Sađốc hiểu
rằng họ sai khi không tin có sự sống lại. Và cho được như vậy, Người đi từ suy
nghĩ của họ.
Họ đã nói đến Môsê thì Người nhắc đến cho họ nhớ hôm Môsê được ơn gọi, tức
là lúc ông thấy bụi gai cháy. Thiên Chúa đã nói với ông rằng: "Ta là Thiên
Chúa của Abraham, của Isaac và của Giacob". Lời này không có ý nói Người
là Ðấng các tổ phụ đã tôn thờ cho bằng muốn nhấn mạnh Người là Ðấng đã bảo vệ,
phù trợ các ông. Nếu các ông này đã chết mà không sống lại, thì việc Thiên Chúa
bảo trợ họ có nghĩa lý gì? Thiên Chúa bất lực đối với sự chết ư? Người không
toàn năng nữa! Vì thế không tin các tổ phụ sống lại là "hạ nhục"
Thiên Chúa và "vô hiệu hóa" chính Người. Người còn đáng tôn thờ nữa
hay không? Các lễ tế của phái Sađốc dùng làm gì? Do đó, Ðức Giêsu đã nhấn mạnh:
Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết mà là của kẻ sống. Ý Người muốn
bảo các tổ phụ là những người đang sống, đang có sự sống lại, để Thiên Chúa mới
còn là Thiên Chúa và còn mới đáng tôn thờ... Các tổ phụ "đã sống cho"
Người vì tin tưởng Người. Người là Ðấng toàn năng và trung thành; Người là
Thiên Chúa hằng sống. Người bảo hộ kẻ Người thương; nên họ không chết, nhưng
đang sống và đang sống cho Người để chính Người luôn luôn là lẽ sống và sự sống
của họ. Không tin họ đang sống là không tin quyền năng và sự trung thành của
Thiên Chúa, là phủ nhận chính Thiên Chúa. Nghĩ được như vậy, phái Sađốc còn biết
nói gì? Mấy người ký lục (chắc là thuộc Biệt phái) đứng nghe đã thấy như vậy,
nên đã thưa: "Thầy nói rất chí lý". Chúng ta cũng phải thưa như vậy...
Nhưng phải làm gì để chứng tỏ niềm tin ấy?
3. Chúng Ta Hãy Phấn Khởi Và Kiên Vững
Bài thư Thessalonica có nhiều lời khuyên. Ở đây chúng ta giữ lại mấy điều
quan trọng. Một đàng, được Chúa ban cho niềm an ủi và mối hy vọng tốt lành như
vậy về đời sau, chúng ta hãy phấn khởi và kiên vững trong đức tin. Chúng ta tiếp
tục thi hành Lời Chúa truyền dạy để sinh hoạt của chúng ta gồm toàn "việc
lành và lời lành". Ðàng khác chúng ta phải cầu nguyện cho "Lời Chúa
được xuôi chảy và rạng vinh" tức là cho có thêm nhiều người đón nhận Tin Mừng
cứu độ. Và cuối cùng chúng ta "phải hướng lòng vào đức mến của Thiên Chúa
và sự kiên nhẫn của Ðức Giêsu Kitô" vì đó là phương thế duy nhất để phấn
khởi và kiên vững trong niềm tin.
Không phải chúng ta hay gặp thử thách như gia đình tám mẹ con trong sách
Maccabê... Có thể thỉnh thoảng chúng ta gặp những lời như của phái Sađốc... Ðiều
quan trọng là chúng ta phải hiểu Lời Chúa. Người đã "luận lý" cho
chúng ta thấy Người là Thiên Chúa hằng sống để chúng ta tin vào sự sống phục
sinh; và để tin rồi chúng ta có đời sống tốt lành. Bây giờ chúng ta tuyên xưng
niềm tin ấy, cử hành mầu nhiệm Chúa chết và sống lại, chúng ta quyết tâm sẽ sống
với "nhiều việc lành và lời lành" để chứng tỏ thật sự chúng ta đã là
con cái của sự sống lại.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 32 Thường Niên,
Năm C
Bài đọc: 2 Mac
7:1-2, 9-14; 2 Thes 2:15-3:5; Lk 20:27-38.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự sống
trường sinh
Con người làm việc là
làm việc cho một mục đích. Trước khi biết phải sống thế nào, con người cần phải
biết đâu là mục đích của cuộc đời? Nếu mục đích của cuộc đời là cuộc sống đời đời,
con người sẽ sống cuộc sống đó làm sao? Con người cần phải làm gì ở đời này để
đạt được cuộc sống đời đời mai sau? Đây là những câu hỏi tối quan trọng của đời
người mà mọi người phải cố gắng để tìm ra.
Các bài đọc trong những
tuần phụng vụ cuối năm tập trung trong việc cung cấp cho con người những câu trả
lời của những câu hỏi nêu trên. Bài đọc I tường thuật cuộc tử đạo của một số
anh em nhà Maccabees. Họ sẵn sàng hy sinh cuộc sống đời này để trung thành giữ
Lề Luật của tiền nhân, vì họ biết Thiên Chúa sẽ cho họ sống lại và sống đời đời
bên Ngài. Trong bài đọc II, thánh Phaolô khuyên các tín hữu Thessalonica hãy
noi gương Đức Kitô để biết sống làm sao trong cuộc đời. Ngài đã trung thành đến
giọt máu cuối cùng để làm trọn thánh ý Chúa Cha, để mang lại cuộc sống đời đời
cho mọi người. Trong Phúc Âm, những người Sadducees dùng trí khôn lý luận để chứng
minh với Chúa Giêsu không có sự sống đời đời. Chúa Giêsu dùng chính niềm tin của
họ vào các tổ phụ để chứng minh ngược lại: Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, chứ
không phải của kẻ chết. Đồng thời, Ngài cũng mặc khải sơ qua về cuộc sống đời
sau đó.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chúng tôi chết vì Luật pháp của Vua vũ trụ, nên Người sẽ
cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời.
1.1/ Niềm tin của 7 anh
em nhà Maccabees: Qua những câu trả lời của
họ cho vua Antiochus, chúng ta có thể dẫn chứng những niềm tin của họ như sau:
+ Họ tin có cuộc sống
đời đời khi trả lời: “vì chúng tôi chết vì Luật pháp của Vua vũ trụ, nên Người
sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời.”
+ Họ tin Thiên Chúa sẽ
ban cuộc sống đời đời cho những ai tin tưởng và trung thành làm chứng cho Ngài.
+ Họ tin chết vì Lề Luật
là làm chứng sự trung thành của họ với Thiên Chúa.
+ Họ tin Thiên Chúa là
chủ cả cuộc sống đời này và cuộc sống đời sau.
+ Họ tin ác nhân có thể
lấy đi thân xác, nhưng không tiêu diệt được linh hồn; nhưng Thiên Chúa sẽ ban lại
cho họ cả hồn lẫn xác: “Tôi có được lưỡi này, tay này, là do Chúa Trời ban.
Nhưng vì luật Chúa Trời, tôi coi khinh những thứ đó, và tôi hy vọng nhờ Chúa Trời,
tôi sẽ lấy lại được.” Đây là lần thứ nhất niềm tin tưởng vào thân xác sẽ sống lại
được ghi chép trong Sách Thánh, Dan 7:14 chỉ mặc khải về cuộc sống đời đời.
+ Họ tin ác nhân sẽ phải
đền tội vì tước đi sự sống của người vô tội. Những người làm như thế sẽ không
được hưởng cuộc sống đời đời.
1.2/ Cuộc sống chứng nhân
của 7 anh em nhà Maccabees: Thông thường, ai
cũng ham sống và sợ chết; nhưng tại sao 7 anh em nhà Maccabees lại sẵn sàng chấp
nhận tù đày, roi đòn, và ngay cả cái chết, đến nỗi ngay cả những kẻ đang hành hạ
và tước đoạt mạng sống của họ cũng phải sửng sốt vì lòng can đảm của những người
thanh niên đã dám coi thường đau khổ.
Thực ra, việc ăn thịt
heo không phải là vấn đề của các Dân Ngoại; nhưng theo luật Kosher của người
Do-thái, họ không được ăn thịt heo, vì heo được coi là một thú vật dơ bẩn; khi
ăn thịt heo, họ đã để cho người ra ô uế, và như vậy, họ không thanh sạch để vào
Đền Thờ và dâng của lễ cho Thiên Chúa (Lev 11:4-7).
2/ Bài đọc II: Hãy đứng vững và nắm giữ các truyền thống chúng tôi đã dạy
cho anh em.
2.1/ Niềm cậy trông của
thánh Phaolô vào lời hứa của Thiên Chúa
Theo thánh Phaolô,
Thiên Chúa đã đặt vào linh hồn con người niềm cậy trông vào cuộc sống đời đời.
Khát vọng này không có gì có thể dập tắt nổi cho dù tội Nguyên Tổ và bao nhiêu
tội lỗi chồng chất của con người. Đức Kitô đã chịu chết và sống lại là bảo đảm
chắc chắn của niềm cậy trông vào cuộc sống đời đời, vì Ngài đã xóa bỏ tội cho
con người và hòa giải họ với Thiên Chúa.
Các tín hữu cần nắm giữ
chắc chắn niềm hy vọng này và đừng bao giờ để ba thù mê hoặc làm đánh mất niềm
cậy trông vĩnh cửu đó. Thánh Phaolô biết các tín hữu của Ngài bị đe dọa bởi mọi
học thuyết làm họ quên đi niềm hy vọng vào cuộc sống vĩnh cửu, nên Ngài tha thiết
khuyên họ như sau: “Vậy, thưa anh em, anh em hãy đứng vững và nắm giữ các truyền
thống chúng tôi đã dạy cho anh em, bằng lời nói hay bằng thư từ. Xin chính Chúa
chúng ta là Đức Giêsu Kitô, và xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương
chúng ta và đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy
trông tốt đẹp. Xin các Ngài an ủi và cho tâm hồn anh em được vững mạnh, để làm
và nói tất cả những gì tốt lành.”
2.2/ Cuộc sống chứng nhân
của Phaolô: Khi đã hiểu rõ và nắm vững niềm
cậy trông vào cuộc sống vĩnh cửu, Phaolô dốc toàn bộ thời gian và nỗ lực cho sứ
vụ rao giảng Tin Mừng, sao cho càng ngày càng nhiều người có được niềm cậy
trông đó. Phaolô kiên tâm chịu đựng đau khổ từ những người ác độc xấu xa, nhưng
không bao giờ nguyền rủa họ. Ông tin Thiên Chúa và Đức Kitô sẽ bảo vệ ông khỏi
mọi nguy hiểm.
Theo Phaolô, các tín hữu
không chống chọi một mình, họ được sự hỗ trợ đắc lực từ Thiên Chúa và từ Đức
Kitô. Để có thể chiến thắng, các tín hữu cần cộng tác với Thiên Chúa. Đặt căn bản
trên những gì Phaolô khuyên các tín hữu, chúng ta có thể đưa ra sơ đồ hỗ tương
giữa Thiên Chúa và các tín hữu như sau:
(1) Phần Thiên Chúa:
Người sẽ làm 2 điều:
– Thứ nhất, Ngài cho
các tín hữu được vững mạnh nhờ ơn thánh: Con người không có sức mạnh để giao
chiến với ba thù – ma quỉ, thế gian, và các thịt. Đó là lý do Thiên Chúa ban
cho con người sức mạnh của ơn thánh qua các bí tích Chúa Giêsu đã thiết lập và
đời dống cầu nguyện. Nếu con người không năng chạy đến lãnh nhận ơn thánh qua
các bí tích và cầu nguyện, họ sẽ không tìm đâu ra sức mạnh để chiến đấu.
– Thứ hai, Ngài bảo vệ
các tín hữu khỏi ác thần: Đức Kitô đã chiến thắng mọi mưu mô của ác thần, nhất
là tội lỗi và sự chết. Các tín hữu trung thành theo Đức Kitô sẽ được Ngài bảo vệ
khỏi mọi âm mưu của ác thần và tai hại của tội lỗi.
(2) Phần các tín hữu:
Để trung thành với Thiên Chúa, các tín hữu cũng cần làm 2 điều.
– Thứ nhất, họ phải
yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự; đừng yêu mến những sự thế gian hơn Thiên
Chúa. Nếu các tín hữu để lòng ham mê những sự thế gian, họ sẽ dần dần mất đi đức
tin vào Thiên Chúa, niềm cậy trông vào Nước Trời, và lòng yêu mến dành cho
Thiên Chúa.
– Thứ hai, họ phải nhẵn
nại chịu đựng đau khổ như Đức Kitô: Để chứng tỏ lòng tin yêu Thiên Chúa, họ phải
chịu đựng đau khổ và vượt qua mọi thử thách. Đây là con đường Thiên Chúa muốn;
đây là con đường Đức Kitô đã đi qua, các thánh qua bao thời đại đã đi qua; đây
cũng là con đường các tín hữu phải đi qua trước khi đạt tới Nước Trời.
3/ Phúc Âm: Họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần.
3.1/ Câu hỏi khó của Nhóm
Sadducees nhằm chứng minh không có sự sống lại:
Truyền thống lâu đời của
Do-thái tin cuộc sống đời này là tất cả những gì họ có; một khi họ mất đi, sẽ
không còn gì tồn tại nữa. Chúng ta có thể thấy sự trăn trở của niềm tin này
trong các Sách Khôn Ngoan như Job và Giảng Viên (khoảng 5, 6 BC). Bắt đầu thế kỷ
1-2 BC, niềm tin vào sự sống lại và sự sống đời đời mới bắt đầu thấy có trong
các Sách Khôn Ngoan, Daniel, và Maccabees. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người
Do-thái đều tin như thế; điển hình, những người nhóm Pharisees tin vào cuộc sống
đời sau trong khi những người nhóm Sadducees thì không. Nhóm thứ hai chỉ tin
vào Sách Luật Moses và không tin có sự sống lại; đó là lý do tại sao họ đến và
hỏi Chúa Giêsu một câu hỏi để chứng minh với Ngài là không có sự sống lại:
“Thưa Thầy, ông Môsê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người
nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con
nối dòng cho anh hay em mình” (Deut 25:5). “Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người
anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Người thứ hai, rồi người thứ ba
đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa
con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. Vậy trong ngày sống lại, người
đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?” Câu hỏi của họ tuy dựa
trên Lề Luật, nhưng không thực sự xảy ra trong cuộc đời. Tuy nhiên theo họ, nếu
có sự sống lại, nàng sẽ thuộc về ai trong 7 người anh em?
3.2/ Câu trả lời của Chúa
Giêsu: Chúa Giêsu tách rời 2 vấn đề của họ:
chuyện vợ chồng và sự sống lại; đồng thời Ngài sửa sai niềm tin của họ:
(1) Chuyện vợ chồng:
“Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời
sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng.” Vợ chồng
chỉ xảy ra khi còn ở dương gian; tất cả là anh chị em với nhau trong cuộc sống
mai sau. Con người không có nhu cầu để cưới vợ lấy chồng trên Thiên Đàng như
người Hồi-Giáo tin.
(2) Cuộc sống trường
sinh: “Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần.
Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.” Tuy có thân xác, nhưng
không phải là thân xác trên dương gian; nhưng là một thân xác như Đức Kitô Phục
Sinh, sẽ không còn bị ảnh hưởng bởi thời gian và các định luật trong vũ trụ nữa.
(3) Dùng Luật họ tin để
bắt bẻ sự tin sai của họ: “Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Moses
cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai (Exo 3:1-6), khi ông gọi Đức
Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Abraham, Thiên Chúa của tổ phụ Isaac, và Thiên
Chúa của tổ phụ Giacob. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng
là, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” Nếu họ tin “Thiên Chúa là Chúa của
kẻ sống;” họ phải tin các tổ phụ Abraham, Isaac, và Giacob vẫn đang sống. Nói
cách khác, họ phải tin có sự sống lại.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Con người khao khát
được sống và sống mãi. Thiên Chúa đã đặt sự khao khát này trong linh hồn con
người, và Ngài làm trọn nỗi khao khát này qua cái chết và sự sống lại của Đức
Kitô.
– Để đạt được cuộc sống
vĩnh cửu này, con người cần đặt trọn vẹn niềm tin vào Đức Kitô và trung thành
giữ những điều Người dạy bảo.
– Trong Ngày Tận Thế,
thân xác chúng ta sẽ sống lại và nhập làm một cùng với linh hồn. Chúng ta sẽ sống
như các thiên thần, chứ không sống lệ thuộc vào vật chất như cuộc sống hiện giờ.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
10/11/2019 – CHÚA NHẬT TUẦN 32 TN – C
Lc 20,27-38
CHO MỘT CUỘC SỐNG MAI SAU
“Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là
đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy
chồng… Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.” (Lc 20,34-35)
Suy niệm: Cưới vợ lấy chồng là việc bình thường và còn là nghĩa vụ của con người
sống trong cõi đời này. Còn trong cõi vĩnh hằng, khi con người sống lại từ cõi
chết, người ta sống như các thiên thần (x. Lc 20,36), chuyện vợ chồng không còn
cần thiết nữa. Như thế, người sống bậc độc thân cũng như bậc gia đình, có thể
và có bổn phận theo cách thế của mình, sống cuộc sống đời này để làm chứng cho
một cuộc sống mai sau. Người sống bậc độc thân tiên báo cuộc sống hoàn toàn
siêu thoát mọi ràng buộc đời tạm này để có thể yêu thương một cách không giới hạn.
Người sống đời đôi bạn làm chứng cho tình yêu hoàn hảo và vĩnh cửu là tình yêu
của Đức Ki-tô đối với Hội Thánh.
Mời Bạn: 1. Loại trừ mọi quan niệm lệch lạc : – cho rằng tu là chán đời, trốn đời,
là “một thứ cung đàn lạc điệu”; – cho rằng đời sống vợ chồng là tội lỗi, thua
kém so với đời tu. 2. Xác tín rằng mọi người, tu trì hay hôn nhân đều phải sống
để làm chứng cho một cuộc sống mai sau.
Sống Lời Chúa: – Nếu còn “thong dong” (chưa kết hôn), bạn hãy tìm ý
Chúa, để biết Ngài chọn gọi bạn dấn thân theo ơn gọi nào, tu trì hay hôn nhân.
– Nếu bạn thuộc loại “ván đã đóng thuyền” (đã kết hôn hoặc đã cam kết trong đời
sống tu trì), hãy thành khẩn xin Chúa trợ giúp để trung thành làm chứng cho
Chúa trong bậc sống của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin
giúp con chu toàn bổn phận hằng ngày để làm chứng nhân cho Chúa nhờ đó con được
nên thánh, và xứng đáng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
10 THÁNG MƯỜI MỘT
Kỹ Thuật: Tai Họa
Hay Là Tiến Bộ?
Những khả năng vô song
ấy của tai họa khủng khiếp hay của sự tiến bộ ngoạn mục mời gọi thế hệ chúng ta
khám phá lại những giá trị lớn lao mà nền văn minh của mình cắm rễ trong đó.
Rất nhiều giấc mơ của
con người hàng bao thế kỷ đã trở thành hiện thực nhờ những bước tiến nhảy vọt của
kỹ thuật. Chúng ta có thể chặn đứng sự bành trướng của sa mạc và biến đổi chính
sa mạc. Chúng ta có khả năng chế ngự được hạn hán và sự đói kém. Chúng ta có khả
năng làm giảm bớt gánh nặng của sự làm việc vất vả lâu giờ. Chúng ta có khả
năng giải quyết một số vấn đề về tình trạng kém phát triển và nhờ đó có thể có
được một sự phân phối công bằng hơn về các nguồn tài nguyên của thế giới.
Nhưng cũng chính kho
tàng kỹ thuật ấy hiện đang đe dọa con người với những tai họa khủng khiếp. Trái
đất có thể sẽ không còn cư ngụ được; biển có thể trở thành vô dụng; bầu không
khí có thể trở nên độc hại …
Đứng trước vô số những
khả năng tích cực và tiêu cực đó, kỹ thuật không được phép quên con người! Ngày
nay, hơn lúc nào hết, chúng ta khẩn thiết cần đến những giá trị đạo đức ưu tiên
trên những giá trị khoa học, và chúng ta khẩn thiết cần có sự hiệp nhất giữa mọi
người chúng ta. Tất cả chúng ta cần liên đới với nhau vượt qua cả những ranh giới
quốc gia – bởi vì mọi người trên hành tinh này sẽ cùng chia sẻ với nhau những số
phận tốt hoặc xấu. Tất cả chúng ta đều cùng ở trong một vòng ảnh hưởng.
Tương lai chúng ta cần
phải được dẫn dắt bởi những giá trị lớn của nền văn minh Kitô giáo. Các giá trị
ấy phải đóng vai trò như người bảo vệ chống lại những khả năng tàn phá và hủy
diệt. Sự phát triển của các kỹ thuật mới phải giúp thế hệ chúng ta khám phá lại
những chuẩn mực đạo đức nền tảng của văn minh chúng ta. Chúng ta phải ý thức lại
bản tính của con người, phải tôn trọng phẩm giá của nhân vị và phải tôn trọng sự
sống.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Đời này, đời
sau (10.11.2019 – Chúa Nhật 32 TN, năm C)
Suy niệm:
Cuộc đời con người có vẻ như chấm dứt bằng cái chết.
Một triết gia Ðức bảo con người sinh ra để chết.
Cái chết là số phận của mỗi người,
nhưng nói chung ai cũng muốn sống.
Kitô giáo cho rằng con người sinh ra là để sống mãi.
Cái chết chỉ là cánh cửa mở vào cõi vĩnh hằng.
Một số tôn giáo tin rằng đời người có nhiều kiếp.
Kitô giáo chỉ nhận có một cuộc đời ta đang sống.
Chính cuộc đời duy nhất này
định đoạt số phận vĩnh cửu của ta.
Không có một cơ hội thứ hai để làm lại.
Chính vì thế phải sống hết mình cho đời này
để đáng hưởng hạnh phúc đời sau.
Ðời sau mãi mãi là một mầu nhiệm.
Chẳng ai chụp hình được thiên đàng hay hỏa ngục.
Người đã khuất cũng không trở lại để kể ta nghe.
Bởi thế, nhiều người không tin có đời sau.
Cả những tín hữu cũng bị cuốn hút bởi vật chất,
và sống như thể chỉ có đời này.
Ðời sau là chuyện ở đâu đó, hoàn toàn xa lạ.
Người thuộc phái Xađốc tin rằng sau cái chết
linh hồn con người vất vưởng như cái bóng nơi âm phủ.
Âm phủ là nơi tối tăm, buồn chán, thiếu sự sống.
Người Pharisêu lạc quan hơn, cho rằng
đời sau là sự kéo dài của đời này.
Người ta sống như trước, nhưng tràn trề hạnh phúc.
Ðức Giêsu vén mở cho ta phần nào bức màn đời sau.
Ðời sau khác hẳn đời này.
Người ta không cưới vợ lấy chồng, không cần con nối dõi,
nhưng sống như các thiên thần,
nghĩa là chỉ lo phụng sự và ca ngợi Thiên Chúa.
Ðời sau là nơi không còn bóng dáng của thần chết.
Người ta thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh.
Toàn bộ con người được sống lại: cả hồn lẫn xác.
Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian,
nhưng sẽ được biến đổi một cách kỳ diệu
để chung hưởng hạnh phúc với linh hồn.
Trong tháng cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời,
chúng ta nghĩ đến cái chết và đời sau.
Cái chết dạy tôi biết cách sống.
Ðời sau kéo tôi ra khỏi những hạnh phúc giả tạo,
và những nỗi khổ đau do mê lầm.
Tôi đang đi về đời sau
để gặp Ðấng mà tôi đã tin yêu suốt đời.
Tất cả cuộc hành trình đều phải hướng về nguồn cội.
Chúng ta đã được dựng nên cho Thiên Chúa,
và chúng ta còn khắc khoải mãi cho đến khi gặp được Ngài.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
khi ra thăm nghĩa địa,
khi vào viếng phòng hài cốt,
con hiểu rằng mình phải có
lòng tin lớn lao
mới dám nghĩ một ngày nào đó
những thân xác hư hoại này sẽ
sống lại.
Con người trở về bụi tro,
nhưng bụi tro sẽ trở lại làm
người,
vì con người sinh ra là để bất
tử như Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
trần gian này quá đẹp
khiến con mải mê, quên mình
là lữ khách;
thiên đàng lại xa xôi, chẳng
có chỗ trong con.
Con loay hoay vun quén cho đời
sống cá nhân,
như thể con sẽ sống mãi trên
mặt đất.
Xin khơi dậy nơi con
niềm khát khao những điều
cao cả.
Xin đừng để con
mãn nguyện với những cái tầm
thường.
Ước gì Chúa cho con nếm chút
vị ngọt của trời cao,
khi con quên mình
để sống cho anh em trên mặt
đất.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 10/11
Chúa Nhật XXXII Thường
Niên
2Mcb 7, 1-2. 8-9.
12; 2Tx 2, 16-3,5; Lc 20, 27-38.
LỜI SUY NIỆM: “Con cái đời này cưới
vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ
cõi chết, thì không lấy vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thế, họ không thể chết nữa,
vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái
sự sống lại.”
Những người của nhóm Xađốc họ là những người chủ trương không có sự sống lại, họ
đã đến gặp Chúa Giêsu và đưa ra một câu chuyện không tưởng để bảo vệ lập trường
của họ; nhưng đã được Chúa Giêsu cho biết: sự sống ở đó sẽ hoàn toàn khác, bởi
mỗi người khi sống lại sẽ hoàn toàn khác khi sống trên trần gian này, họ giống
như các thiên thần.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con tránh được suy nghĩ sai lầm
như nhóm người Xađốc; nhưng trao trọn đời sống và đức tin của mình vào tình yêu
thương của Thiên Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 10-11
THÁNH LEO CẢ
Giáo Hoàng Và Tiến
Sĩ Hội Thánh (-461)
Người ta không biết được
thánh Lêo sinh ra ngày nào và cả nơi sinh của Ngài cũng không được biết chắc.
Có lẽ Ngài là người Roma. Chúng ta chỉ biết được rằng: Ngài là một phó tế góp
phần cai quản dưới hai triều Giáo hoàng Cêlestinô I và Sixtô III và được bầu
làm giáo hoàng năm 440. Được chọn làm giám mục Roma, phải đợi 40 ngày sau Ngài
mới được trở về.
Trước trách nhiệm chất
đầy, Ngài đã sợ: – Lạy Chúa, có sự cân xứng nào giữa gánh nặng Chúa trao và sự
yếu hèn của con, giữa sự cất nhắc và sự hư không của con ?
Và Ngài tiếp: – Chúa
đã đặt gánh nặng cho con, xin Chúa gánh với con, xin Chúa hãy là người hướng dẫn
và nâng đỡ con.
Công cuộc Ngài làm thật
lớn lao và đa diện khó có thể tóm kết lại được mà không bất công. Dầu vậy, có
thể nói công cuộc này qui về 4 hình thái chính: kiểm soát lạc giáo bên Tây
phương, can thiệp về giáo thuyết quan trọng bên Đông phương, bảo vệ Roma khỏi
cuộc tấn công của dân rợ và những nỗ lực của một mục tử và một nhà giáo dục.
Thánh Lêô đã phải có
biện pháp đối với không dưới ba lạc giáo. Không còn dễ dãi cho những người theo
Pêlagiô được hiệp thông nữa và đòi phải công khai tuyên xưng đức tin trước khi
được nhận là phần tử đầy đủ của Giáo hội. Những người trốn thoát cuộc tấn công
của Valda Phi Châu đã mang thuyết Manichêô đến Roma. Thánh Lêô thấy rằng: cộng
đoàn bí mật này phải được công khai đưa ra ánh sáng. Ngài cũng nhiệt liệt ủng hộ
các giám mục Tây Ban Nha và Phi Châu chống lại thuyết Priscillanô, những cuộc
tranh luận về giáo thuyết tại Giáo hội bên Đông phương liên quan tới chính bản
tính của Chúa. Hai nhà tiền phong của cuộc tranh luận là Eutiches, một tu viện
trưởng ở Constantinople và thánh Plavianê, thượng phụ giáo chủ Constantinople
là người trong cuộc chiến đã bị những người theo Eutiches hành hạ cho đến chết.
Năm 451, một cộng đồng
qui tụ trên 600 giám mục về Chalcedonia. Thánh Lêô đã viết lá thư danh tiếng gởi
Plavianô, trình bày giáo thuyết về ngôi vị và bản tính của Chúa Giêsu Kitô.
Ngài đã đặt bức thư này trên mộ thánh Phêrô, vị thủ lãnh tiên khởi của Giáo hội
và ăn chay cầu nguyện suốt 40 ngày. Bức thư được đọc tại công đồng và đã được
nhận như một bản tuyên xưng đức tin. Quyền tối thượng của Đức giáo hoàng tỏ hiện
khi giám mục đồng thanh kêu lớn: – Chính thánh Phêrô đã nói qua Lêô.
Như thế đứng đầu các
giám mục không mấy quan tâm tới quyền tối thượng của Roma. Ngài đã cất giữ được
sự hiệp nhất Giáo hội. Ngài đã viết: “Đức tin của Phêrô đã được chính Thiên
Chúa mặc cho sự kiện vững không thể lay chuyển nổi. Dù cho sự cúng lòng của các
lạc giáo hay sư man rợ của lương dân cũng sẽ không bao giờ đảo lộn được đức tin
này”.
Trong số các quyết định,
Ngài đã tạo được sự đồng ý giữa Đông Tây cử hành lễ phục sinh vào cùng một ngày
ở khắp nơi.
Một cuộc chiến khác chờ
đón Đức Giáo hoàng Attila và rợ Hung Nô võ trang hùng hậu, gieo rắc những khủng
khiếp chiến tranh và tàn phá. Người ta nói rằng: những người man di này khi
sinh ra là mẹ họ nghiền mặt đi cho hợp với nón sắt, và chính họ xẻ má cho râu hết
mọc nổi. Họ thờ thanh gươm khắc sâu vào bàn thờ, tưới máu các tù nhân trên đó
và làm một thiết đồ bằng đầu các địch thủ. Năm 452, họ đổ vào miền Bắc Italia
gieo rắc tàn phá trên đường tiến quân. Không một đoàn quân nào có sức bảo vệ
Roma. Các tướng lãnh và hoàng đế Valentinô III run sợ chỉ biết đặt niềm tin tưởng
vào Đức giáo hoàng.
Thánh Lêô sau 3 ngày cầu
nguyện chay tịnh đã ra đón người gieo vãi kinh sợ trên thế gian. Và điều gì đã
xảy ra ? Người ta có thể tưởng tượng được một Attila hùng hổ với đoàn quân đông
đảo đối diện với người cha chung của các Kitô hữu mặc phẩm phục giáo hoàng và
chỉ có tình yêu trong lòng làm khí giới. Attila tiến đến Roma với những dự tính
đẫm máu, nhưng Đức Lêô đã đổi lòng hắn. Vương quốc được bình an với lễ vật triều
cống hàng năm. dân Hung Nô trở lại Pannonnia. Đức Giáo hoàng nói với nhà vua: –
Hãy tạ ơn Chúa vì Ngài đã cứu chúng ta khỏi tai họa khủng khiếp.
Đối với dân chúng vui
mừng sung sướng, Ngài truyền cho họ phải cảm tạ Chúa.
Nhưng lòng nhiệt thành
và biết ơn ban đầu đã không tồn tại được lâu. Dân chúng vô ơn và sa đọa, khi nỗi
sợ qua rồi họ quên rằng lòng thương xót họ đã cứu vương quốc và họ lao mình vào
các cuộc chơi bời phóng đãng. Cả đến nhà vua Valentinô cũng làm gương xấu cho
dân chúng. Những lời trách cứ của đức giáo hoàng không được đến xiả tới. Và ba
năm sau, những rợ Vandales dưới quyền vua Ghenséric kéo quân tới. Các nhân vật
lớn chạy trốn, cửa thành bỏ ngõ và Đức giáo hoàng một mình ở lại với dân Roma.
Ngài một lần nữa ra đón quân xâm lăng. Lần này họ ít bị khắc phục hơn lần trước.
Dầu vậy, ảnh hưởng của
thánh Lêô cũng đáng đủ để kiềm chế bớt cuộc chém giết và sự tàn phá, các nhà thờ
được tôn trọng. Trái với lời hứa hẹn, nhiều dân thành vẫn bị bắt. Đức giáo
hoàng đã chuyển đồ cứu tế cho họ, sai các linh mục tới nâng đỡ họ và còn mua
chuộc lại một số lớn các tù nhân.
Những năm cuối đời
Ngài dành sửa sang lại các tai họa do các cuộc xâm lăng gây nên, xây dựng lại
các tu viện mà với cảm quan về nghệ thuật, Ngài đã làm giàu thêm bao nhiêu là họa
phẩm. Ngài để lai nhiều bài giảng, nhiều thư từ rất quan trọng, ngày nay chúng
ta còn đọc được.
Thánh Lêô từ trần năm
461. Ngài xứng đáng được mệnh danh là người đầu tiên được chôn cất trong đại
vương cung thánh đường thánh Phêrô. Đức giáo hoàng Sergiô I ghi trên bia mộ của
Ngài: “Tôi canh chừng kẻo lang sói luôn rình mò phá phách đoàn chiên”.
Đây là lời thánh Lêô để
lại: – “Các con được thấm nhập vào Chúa”.
– ” Trong tâm hồn mỗi
tín hữu còn có cái trên trời mà người ta thán phục”.
– “Nước Trời không đến
với những người ngủ mê.
Năm 1754, Ngài được
suy tôn lên bậc thánh tiến sĩ trong Giáo hội.
(daminhvn.net)
10 Tháng Mười Một
Hôm Nay Là Ngày Của Chúa
Khi Ðức Gioan 23
lâm bệnh lần cuối, không biết vì lý do gì mà các bác sĩ muốn dấu nhẹm sự nguy kịch
của căn bệnh, họ bảo ngài chỉ bị chứng lở bao tử. Nhưng Ðức Gioan 23 biết rõ bệnh
tình của mình hơn ai hết, vì thế ngài nói: “Tôi đã dọn sẵn hành trang”.
Ông Giacômô Manzu,
một nhà điêu khắc nổi tiếng người ý viết hồi ký về những giây phút sau hết của
cuộc đời Ðức Gioan 23 như sau: Vào ngày cuối cùng của chuỗi ngày đau đớn kéo
dài, linh mục Capovilla, bí thư riêng của Ðức Thánh Cha đến bên giường bệnh,
hôn tay bệnh nhân và hỏi xem ngài thấy thế nào. Ðức Gioan 23 trả lời: “Tôi cảm
thấy trong mình khỏe khoắn và an bình như thể tôi đang ở trong Chúa. Nhưng đồng
thời tôi cũng cảm thấy hơi lo”.
Linh mục Capovilla
thưa: “Xin cha đừng lo. Những người phải lo là chính chúng con, vì con đã nói
chuyện với bác sĩ…”. Ðức Gioan 23 ngắt lời hỏi: “Họ đã nói với con những gì?”.
Nghẹn ngào, linh mục
bí thư của ngài nói: “Thưa Ðức Thánh Cha, con muốn nói với cha sự thật: hôm nay
là ngày của Chúa. Hôm nay cha sẽ được về Thiên Ðàng”.
Nói xong, linh mục
bí thư quỳ xuống bên giường, hai tay bưng mặt khóc. Vài phút nặng nề trôi qua,
bỗng cha cảm thấy một bàn tay âu yếm xoa đầu mình và nghe một giọng ôn tồn nói:
“Hãy ngước mắt nhìn lên. Bình thường, người bí thư của tôi rất mạnh mẽ, can đảm,
nhưng bây giờ phải trở nên mềm nhũn. Cha đã nói với người bề trên của cha những
lời hay đẹp nhất mà con người có thể nghe từ miệng của một linh mục: Hôm nay
cha sẽ được vào Thiên Ðàng”.
Chúng ta đang sống
trong tháng 11:
– Ðây là tháng Giáo
Hội dành riêng để tưởng nhớ đến những người quá cố.
– Ðây là tháng
chúng ta đặc biệt có dịp để báo hiếu cho ông bà, tổ tiên, tháng để trả nghĩa
cho cha mẹ, anh chị em, bà con thân thuộc đã qua đời bằng những kinh nguyện, bằng
những chuỗi lần sốt sắng, nhất là bằng cách siêng năng tham dự tích cực và cố gắng
sống thành lễ để thực hành những công việc bác ái như thánh lễ đòi hỏi.
Nhưng, vào tháng 11
hằng năm, Giáo Hội cũng muốn nhắc nhở chúng ta phải nhớ bến bờ chúng ta phải tới,
nhắc nhở khúc quẹo ngoặt nhất trong đời chúng ta sẽ phải đi.
– Ðó là từ giã cõi
đời.
– Ðó là nhắm mắt
xuôi tay.
– Ðó là sự thật: ai
trong chúng ta cũng phải chết.
Ước gì chúng ta có được
sự bình thản trong giờ lâm tử như Ðức Gioan 23 . Ước gì, như ngài, chúng ta có
được sự bình an trong tâm hồn và có niềm hy vọng để tin tưởng rằng: lời Chúa
Giêsu phán với người trộm lành cũng được áp dụng cho chúng ta: “Hôm nay con sẽ
được cùng Ta về Thiên Ðàng”.
Nhưng, nếu Thiên Ðàng
là bến bờ, là Ðức Mến, thì cuộc sống của chúng ta phải định hướng theo đó.
Nếu Thiên Chúa là cùng
đích của giây phút cuối cùng, thì trong những chuỗi ngày sống, chúng ta cũng phải
hướng mục và xây dựng theo tiêu chuẩn đó.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét