01/01/2020
Thứ Tư.
Cuối tuần Bát Nhật Giáng Sinh
Thánh Maria, Mẹ Thiên
Chúa.
Lễ Trọng.
Ngày thế giới cầu nguyện
cho Hòa Bình.
(phần I)
Phụng vụ Lời Chúa: Lễ Mẹ Thiên Chúa, năm A
LỄ MẸ THIÊN CHÚA
Ds 6,22-27 – Gl
4,4-7 – Lc 6,11-21
YÊU THƯƠNG, BÍ QUYẾT VƯỢT THẮNG MỌI SỰ DỮ
“Maria, Giuse và hài nhi mới sinh nằm trong máng
cỏ” (Lc
2,16)
I. CÁC BẢN VĂN LỜI CHÚA
1. Bài đọc I – Ds 6,22-27
Đây chính là công thức mà Đức Chúa, qua ông Môsê, truyền lệnh cho Aaron và con cháu ông phải sử dụng mỗi khi chúc lành cho dân Israel. Nội dung của những lời chúc lành đều quy về Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel, như nguồn mạch mọi sự thiện hảo và là Đấng ban phát mọi điều thiện hảo.
Có sáu lời chúc lành được đề cập tới trong công thức chúc lành:
- Xin Chúa chúc lành
cho anh (em): việc được Chúa chúc lành đồng nghĩa với việc được Thiên Chúa ban cho: sự thành công, sự thịnh vượng, đông con nhiều cháu, gia súc đầy đàn… ‘Nào lúa thơm rượu mới dầu tươi, nào bò bê cùng với chiên cừu. Lòng thoả thuê như vườn cây tưới nước…’ (Gr 31,12)
- Xin Chúa gìn giữ anh (em): Trong tâm thức của dân Israel, Thiên Chúa luôn là ‘núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ.’ (Tv 18,3)
- Xin Chúa chiếu giãi nhan thánh Chúa trên anh (em): Trong cái nhìn của đức tin của Do thái giáo, việc được Chúa chiếu giãi nhan thánh chính là nền tảng dẫn tới việc được cứu độ như lời thánh vịnh 79,4: ‘Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời để chúng con được ơn cứu độ.’
- Xin Chúa rủ lòng thương anh (em): động từ ‘Hanal - חָנַן’
dùng trong lời chúc lành này rất thường được dùng để diễn tả tâm tình của một tội nhân kêu xin sự thứ tha tội lỗi của Thiên Chúa, ngay cả khi mình không xứng đáng để được tha thứ như tâm tình được diễn rả trong thánh vịnh 4,2: ‘Xin hãy thương xót tôi, và nghe lời cầu nguyện tôi.’
- Xin Chúa ghé mắt nhìn anh (em): Lời ước mong này diễn tả nỗi khát khao được Đức Chúa luôn quan tâm để ý tới, luôn chăm sóc giữ gìn như lời thánh vịnh 91,2-4: ‘Chính Chúa gìn giữ bạn khỏi lưới kẻ thù giăng, khỏi tai ương tàn khốc. Chúa phù trì che chở, dưới cánh Người, bạn có chỗ ẩn thân: lòng Chúa tín trung là khiên che thuẫn đỡ.’
- Xin Chúa ban bình an
(Shalom - שָׁלוֹם) cho anh (em): thuật ngữ Shalom trong tiếng Hypri bao gồm cả hạnh phúc, sức khỏe, tình bạn, và mọi điều thiện hảo.
2. Bài đọc II – Gl 4,4-7
Bài đọc II được đặt trong bối cảnh của thời cánh chung khi thời gian đã đạt tới mức viên mãn, Thiên Chúa thực hiện công trình cứu chuộc loài người khi cho Ngôi Lời, Con của Ngài, mặc lấy xác phàm và được sinh ra bởi một người phụ nữ, Đức Maria. Công trình ấy đã dẫn đến hai hệ quả chính yếu: 1/ Hệ quả tiêu cực: giải thoát con người khỏi Lề Luật và những hậu quả do Lề Luật gây ra; 2/ Hệ quả tích cực: cho con người được trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa, được đồng thừa tự với Đức Kitô, trong tư cách là Con Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con Ngài vào lòng chúng ta, Đấng kêu lên: Abba, Cha ơi.
3. Bài Phúc Âm - Lc
6,11-21
Ba khuôn mặt chính được đề cập tới trong bài Phúc Âm:
- Các mục đồng ngay sau khi nghe tin báo của thiên sứ về việc Đấng Cứu Thế giáng sinh, họ vội vã đi tới Belem. Họ đã thấy… họ đã hiểu ngay… họ trở về… họ tôn vinh chúc tụng Thiên Chúa.
- Đức Maria, cùng với Thánh Giuse, đang hiện diện sống động bên Hài Nhi Giêsu mới sinh. Mẹ ghi nhớ tất cả và suy đi nghĩ lại trong lòng.
- Con Trẻ mới sinh: sống dưới chế độ Lề Luật khi được cắt bì sau tám ngày sau khi sinh ra, rồi được đặt tên là Giêsu đúng như kế hoạch của Thiên Chúa.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. ‘Xin Chúa chúc lành
và ban bình an cho anh em.’ Lời chúc lành của vị tư tế trong phụng vụ Do thái giáo cũng là lời chúc lành mà Giáo hội hằng nguyện cầu cho mỗi Kitô hữu trong cuộc sống hằng ngày, nhất là trong dịp đầu Năm Mới. Mỗi Kitô hữu cũng được mời gọi để cụ thể hóa hành vị chúc lành và ban bình an của Chúa qua mỗi suy nghĩ, lời nói và cử chỉ của mình trong mọi mối tương quan.
2. ‘Thiên Chúa đã sai Con
Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ.’ Để thực hiện công trình cứu chuộc loài người, Thiên Chúa đã cần đến một sự cộng tác của một con người, Đức Maria. Sự cộng tác này tuy nhỏ bé nhưng xuất phát từ một quyết định hoàn toàn tự do, rồi đã được Đức Maria thực hiện một cách trọn vẹn và triệt để nhất. Hôm nay Thiên Chúa cũng cần đến một sự cộng tác của mỗi Kitô hữu để thực hiện công trình cứu độ con người. Sự tự do cộng tác, kèm theo một hành vi thực hiện thật nghiêm túc, triệt để và trọn vẹn vẫn còn đó như một sự đợi chờ của Thiên Chúa nơi mỗi chúng ta.
3. ‘Trong gia đình
chúng ta, chúng ta đâu cần đến bom đạn và súng ống để hủy diệt hầu có được sự bình an đâu – mà chỉ cần hợp nhau lại, yêu thương nhau… Và chúng ta sẽ có thể vượt thắng tất cả mọi sự dữ trên đời.’ Khi trích lại tâm tình của Mẹ Têrêsa Calcutta trong số 4 của sứ điệp ngày hòa bình thế giới thứ 50 (01-01-2017), Đức Phanxicô chỉ ra cho chúng ta thấy rõ bí quyết dẫn đến sự bình an là hợp nhau lại và yêu thương nhau. Tôi có đang dùng sự hòa hợp và yêu thương để xây dựng sự bình an không?
4. ‘Gia đình là nơi những sự cọ xát và thậm chí những xung đột phải được giải quyết không phải bằng vũ lực, nhưng bằng sự đối thoại, sự tôn trọng và sự quan tâm đến lợi ích của người khác, lòng thương xót và sự tha thứ.’ (Số 5, sứ điệp ngày hòa bình thế giới thứ 50 – 01.01.2017). Để giải quyết xung đột trong cuộc sống gia đình, tôi và mọi thành viên trong gia đình tôi có đang áp dụng những nguyên tắc mà Đức Phanxicô đề nghị là: đối thoại, tôn trọng, quan tâm, thương xót, tha thứ?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa đã muốn Con Một của Người mặc lấy xác phàm trong lòng Đức Trinh Nữ Maria để thực hiện chương trình cứu độ. Nhờ lời Đức Mẹ chuyển cầu, cộng đoàn chúng ta cùng dâng lên Chúa tâm tình của ngày đầu năm Dương Lịch, và xin ơn bình an cho các gia đình cùng cho cả thế giới.
1. Thánh Phaolô nhắc nhở: “Anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các thành phần trong Hội Thánh biết theo gương Đức Maria, không ngừng tri ân cảm tạ Chúa, và luôn vâng theo ý Người với tâm tình của người con thảo.
2. “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các dân tộc trên thế giới luôn biết quý chuộng và nỗ lực bảo vệ hòa bình, để xứng đáng được hưởng bình an đích thực mà Con Một Chúa đem đến cho nhân loại.
3. “Bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi Kitô hữu, cách riêng các bạn trẻ, luôn siêng năng đọc và suy niệm Kinh thánh, để Lời Chúa nên kim chỉ nam cho mọi hoạt động trong cuộc sống của họ.
4. “Các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta, khi cảm nhận được tình yêu và ân huệ Chúa ban, cũng biết cao rao ngợi khen Người bằng một đời sống dấn thân phục vụ.
Chủ tế: Lạy Chúa là Cha rất nhân từ, nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, xin nhậm lời chúng con cầu nguyện, mà ban cho chúng con một năm mới bình an và luôn biết sống đẹp lòng Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Lectio Divina: Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa, Lễ Trọng
Thứ Tư,
ngày 01 tháng 01 năm 2020
Tuần Bát Nhật Giáng Sinh
Các mục đồng đến viếng thăm Chúa
Hài Đồng Giêsu và Mẹ Người
Kẻ sống bên lề xã hội là người
được Thiên Chúa ưu ái
Lc 2:16-21
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần
Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho
các môn đệ trên đường Emmau. Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết
trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của
Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của mình. Vì thế, cây
thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của
sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự
thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong
Kinh Thánh, trong các sự việc của đời sống hằng ngày và trong những người chung
quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin Lời Chúa hướng
dẫn chúng con, để cũng giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng
sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho người khác rằng Chúa đang sống
hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa
bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã mặc
khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng
con. Amen.
2. Bài Đọc
a) Chìa khóa dẫn đến
bài đọc:
Lý do đã khiến cho thánh Giuse
và Đức Maria phải đi đến Bêlem là lệnh kiểm tra dân số ban ra bởi hoàng đế La
Mã (Lc 2:1-7). Theo định kỳ, nhà cầm quyền La Mã ra lệnh làm tổng kiểm
tra dân số trong các khu vực khác nhau trong đế chế rộng lớn của họ. Họ
phân loại dân cư và để biết bao nhiêu người sẽ phải nộp thuế. Nhà
giàu thì phải nộp thuế về đất đai và tài sản họ sở hữu. Người nghèo
thì phải trả thuế cho số con cái mà họ có. Đôi khi tiền thuế phải
đóng đã vượt quá 50% tổng số lợi tức của một người.
Trong Tin Mừng Luca, chúng ta thấy
có một sự khác biệt đáng kể giữa sự ra đời của Đức Giêsu và của ông Gioan Tẩy
Giả. Ông Gioan được sinh ra ở quê nhà trên mảnh đất của ông, ở giữa
cha mẹ và làng xóm, và được mọi người đón chào (Lc 1:57-58). Khi
Chúa Giêsu được sinh ra thì không ai biết đến, cách xa khỏi thân thích và xóm
làng, và xa khỏi quê hương của Người. “Không còn chỗ trong quán trọ”. Chúa
Hài Đồng đã được đặt nằm trong máng cỏ (Lc 2:7).
Chúng ta hãy hình dung và nhận
xét đoạn Tin Mừng (Lc 2:16-21) trong bối cảnh rộng lớn hơn về việc thăm viếng của
các mục đồng (Lc 2:8-21). Trong khi đọc, chúng ta hãy cố gắng chú ý
đến điều sau đây: Những sự bất ngờ và tương phản ta thấy trong văn bản
này là gì?
b) Phân đoạn bài Tin
Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Lc 2:8-9: Các mục
tử ở ngoài đồng, những người đầu tiên được mời đến
Lc 2:10-12: Lời
loan báo đầu tiên về Tin Mừng được mang đến cho các mục đồng
Lc 2:13-14: Lời ca
ngợi của các thiên thần
Lc 2:15-18: Các mục
đồng đi đến Bêlem và thuật lại việc thiên thần hiện ra với họ
Lc 2:19-20: Thái độ
của Đức Maria và của các mục đồng về những sự việc này
Lc 2:21: Việc cắt
bì của con trẻ Giêsu
c) Phúc
Âm:
Bấy giờ trong miền đó có những
người mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật
mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh sáng của
Thiên Chúa bao tỏa chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng
thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến
cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn
dân: Hôm nay Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi
trong thành của Đavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các
ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ.” Và
bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng
thanh hát khen Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời
và bình an dưới thế cho người thiện tâm.” Khi các thiên thần biến
đi, thì các mục tử nói với nhau rằng: “Chúng ta đi đến Bêlem và coi
xem sự việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết.” Rồi họ hối
hả tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi
thấy thế, họ đã hiểu ngay lời đã báo về Hài Nhi này. Và tất cả những
người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ. Còn
Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó, và suy niệm trong
lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều
họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ. Khi đã đủ tám
ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì người ta gọi tên Người là Giêsu, tên mà
thiên thần đã gọi trước khi con trẻ được đầu thai trong lòng mẹ.
3. Giây phút thinh lặng
cầu nguyện:
Để Lời Chúa được thấm nhập và
soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi
ý:
Để giúp chúng ta trong việc suy
gẫm cá nhân.
a) Bạn thích điều gì nhất trong đoạn Tin Mừng
này? Tại sao?
b) Bạn đã tìm thấy những ngạc nhiên và sự tương phản gì
trong đoạn Tin Mừng
này?
c) Làm cách nào đoạn Tin Mừng cho chúng ta biết rằng kẻ
bé mọn và người nghèo khổ nhất trên trần thế lại là người cao trọng trên thiên
đàng?
d) Thái độ của Đức Maria và của các mục đồng về mầu nhiệm
Thiên Chúa vừa mới mặc khải cho họ là gì?
e) Tác giả Luca muốn nhắn nhủ gì với chúng ta qua các
chi tiết này?
5. Dành cho những ai
muốn đào sâu hơn vào trong chủ đề
a) Bối
cảnh của thời ấy và của ngày nay:
Đoạn Tin Mừng về ngày lễ Mẹ Thiên
Chúa (Lc 2:16-21) là một phần của câu chuyện về việc hạ sinh của Chúa Giêsu (Lc
2:1-7) và các mục đồng đến thăm (Lc 2:8-21). Thiên thần đã loan báo
sự sinh ra của Đấng Cứu Độ và cho một dấu chỉ để nhận biết: “Các
ngươi sẽ thấy một Hài Nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ!” Họ
đang mong đợi Đấng Cứu Thế của toàn dân và họ đã nhận ra Người trong một hài
nhi mới sinh, nghèo khó, nằm giữa các thú vật! Thật là một bất ngờ lớn
lao!
Kế hoạch của Thiên Chúa đã được
thực hiện theo một phương cách không thể ngờ, đầy ngạc nhiên. Điều
này cũng còn xảy ra ngày nay. Một bé thơ nghèo hèn là Đấng Cứu Thế của
nhân loại! Có ai ngờ được không?
b) Lời
bình giải về đoạn Tin Mừng:
Lc 2:8-9: Những vị khách được mời đầu tiên
Mục đồng là những người cùng
đinh trong xã hội, không được coi trọng mấy. Họ sống cùng với các
thú vật, tách biệt với người thường. Bởi vì họ thường xuyên tiếp xúc
với thú vật, nên họ bị xem là kẻ ô uế. Không bao giờ có ai muốn mời
họ tới thăm một em bé sơ sinh. Thế nhưng chính các Thiên Thần
Chúa lại hiện ra với những mục đồng này để loan báo tin vui sự ra đời
của Chúa Giêsu. Trông thấy các thiên thần, họ thật sự sợ
hãi.
Lc 2: 10-12: Lời loan
báo đầu tiên về Tin Mừng
Lời nói đầu tiên của thiên thần
là: Các ngươi đừng sợ! Thứ hai là: Tin
Vui cho cả toàn dân! Thứ ba là: Hôm nay! Và
rồi thiên thần mang đến ba danh hiệu để chỉ Chúa Giêsu là ai: Đấng
Cứu Thế, Đức Kitô và Chúa! Đấng Cứu Thế là Đấng giải
thoát mọi người khỏi tất cả những gì trói buộc họ! Các vua chúa thời
bấy giờ thích dùng danh hiệu Đấng Cứu Chuộc. Chính họ đã tự phong
cho mình tước hiệu đấng cứu rỗi. Đức Kitô có nghĩa
là Đấng Được Xức Dầu hay là Đấng Thiên Sai. Trong Cựu Ước,
đây là danh hiệu được trao cho vua chúa và các tiên tri. Đó cũng là
danh hiệu của Đấng Thiên Sai tương lai, Đấng sẽ thực hiện lời hứa của Thiên
Chúa với dân của Người. Điều này có nghĩa là Hài Nhi mới sinh, đang
nằm trong máng cỏ, đã đến để thực hiện niềm hy vọng của toàn dân. Chúa là
danh hiệu của chính Thiên Chúa! Ở đây chúng ta có ba danh hiệu có thể
xem là cao cả nhất. Từ lời loan báo về sự sinh ra của Đức Giêsu
là Đấng Cứu Thế, Chúa Kitô và là Chúa, có còn ai cao cả
hơn thế nữa không? Và thiên thần nói rằng: “Cẩn thận! Và
đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: các ngươi sẽ thấy một
Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ, trong số những người nghèo
khó!” Bạn có tin nổi không? Phương cách hành động của
Thiên Chúa thì thật là khác hẳn với chúng ta!
Lc 2:13-14: Lời hát
khen của các thiên thần về Tin Mừng: Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng
trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương.
Một số đông thiên thần xuất hiện
và từ trời xuống. Đó có thể được giải thích là thiên đàng đã hạ mình
xuống dưới thế. Hai phần của câu Kinh Thánh này tóm tắt lại chương
trình của Thiên Chúa, kế hoạch của Người. Phần đầu cho biết những gì
xảy ra trên thiên đàng: Vinh danh Thiên Chúa trên trời cao. Phần
thứ hai cho biết việc gì sẽ xảy ra ở dưới đất: Bình an dưới thế
cho người Chúa thương. Nếu người ta có thể nghiệm ra rằng được
Chúa thương có ý nghĩa gì, thì tất cả mọi thứ sẽ đổi thay và bình
an sẽ hiện diện trên trái đất. Và điều này sẽ cao quý hơn
vinh quang Thiên Chúa, Đấng ngự trên trời cao!
Lc 2:15-18: Các mục đồng đi đến Bêlem và thuật lại việc hiện
ra của các thiên thần
Lời của Chúa không còn là một âm
thanh được phát ra từ môi miệng. Hơn hết cả nó là một sự kiện! Các
mục đồng nói như thế này: “Chúng ta hãy sang Bêlem và coi xem sự việc
đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết”. Theo tiếng Do Thái, chữ DABAR có
thể có hai nghĩa là lời và sự việc, được tạo ra bằng lời. Lời
của Thiên Chúa là quyền năng tác tạo. Nó hoàn thành những gì đã phán
ra. Vào lúc tác tạo Thiên Chúa phán: “Hãy có ánh sáng, và
liền có ánh sáng!” (St 1:3). Lời của thiên thần nói với
các mục đồng là sự kiện về việc sinh ra của Chúa Giêsu.
Lc 2:19-20: Thái độ của Đức Maria và của các mục đồng về những
sự việc này
Tác giả Luca lập tức cho biết
thêm rằng: “Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó và suy
niệm trong lòng”. Có hai cách để cảm nhận và đón tiếp Lời
Chúa: (i) Các mục đồng chỗi dậy để đi coi xem các sự việc và xác
nghiệm lại dấu chỉ được thiên thần cho biết, và sau đó, họ trở lại với đàn gia
súc của họ, tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và
xem thấy; (ii) Đức Maria, cách khác, lại cẩn thận ghi nhớ lại tất cả mọi điều
này và suy niệm trong lòng. Suy niệm về những việc trong tâm trí một
người có nghĩa là hồi tưởng lại chúng và làm sáng tỏ trong ánh sáng của Lời
Chúa để hiểu rõ hơn ý nghĩa đầy đủ của chúng cho đời sống.
Lc 2:21: Việc cắt bì
và đặt tên cho con trẻ Giêsu
Theo luật định, Hài Nhi Giêsu được
cắt bì sau khi sanh được tám ngày (xem St 17:12). Việc cắt bì là một
dấu hiệu để chỉ thuộc về dân của Chúa. Nó cho kẻ ấy một căn
tính. Nhân dịp này mỗi trẻ sơ sinh được đặt tên (xem Lc
1:59-63). Hài nhi được gọi là Giêsu, tên mà thiên thần đã gọi trước
khi con trẻ được thụ thai. Thiên thần đã nói với Giuse rằng phải đặt
tên con trẻ là Giêsu vì “chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”
(Mt 1:21). Tên gọi Giêsu thì giống như tên Giôsuê,
và có nghĩa là Thiên Chúa sẽ cứu. Một tên khác mà sẽ được
trao dần dần cho Chúa Giêsu là Đức Kitô, có nghĩa là Đấng
Được Xức Dầu hay là Đấng Thiên Sai. Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai
đang được mong chờ. Tên thứ ba là Emmanuel, có nghĩa
là Thiên-Chúa-Ở-Cùng-Chúng-Ta (Mt 1:23). Tên gọi đầy
đủ là Đức Giêsu Kitô Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta!
c) Lời
chú giải thêm:
Đức Maria trong Tin Mừng theo
Luca
i) Vai trò của hai
chương đầu tiên trong sách Tin Mừng Luca:
Hai chương này khá nổi tiếng
nhưng không được hiểu thấu đáo cho lắm. Tác giả Luca đã viết chúng
mô phỏng theo Cựu Ước. Giống như thể hai chương này là phần kết của
Cựu Ước để mở ra cho sự xuất hiện của Tân Ước. Trong những chương
này, Luca tạo ra một bầu không khí êm ái và tán dương. Từ đầu chí cuối,
lòng thương xót của Thiên Chúa được ca tụng, Thiên Chúa là Đấng cuối cùng đã đến
để thực thi lời hứa của Người. Luca cho chúng ta thấy Chúa Giêsu đã
hoàn tất phần Cựu Ước và khởi đầu phần Tân Ước như thế nào. Và Chúa
ưa chuộng các kẻ nghèo khó, kẻ bần cùng, những người biết cách chờ đợi cho việc
xuất hiện của Người: bà Êlisabéth, ông Giacaria, Đức Maria, thánh
Giuse, ông cụ Simêon, bà cụ Anna và các mục đồng. Đó là lý do tại
sao hai chương đầu tiên thuật lại lịch sử nhưng không phải trong ý nghĩa mà
ngày nay chúng ta gán cho lịch sử. Chúng gần như là sự phản chiếu mà
các chương ấy được viết cho những Kitô hữu xuất thân từ lương dân, có thể khám
phá ra được Đức Giêsu là ai và làm cách nào mà Người đã đến để thực thi lời các
tiên tri trong Cựu Ước, đáp ứng được những nguyện vọng sâu xa nhất của tâm hồn
con người. Những chương này cũng là một sự phản chiếu các sự việc đã
xảy ra trong các cộng đoàn vào thời thánh Luca. Các cộng đoàn bắt
nguồn từ dân ngoại sẽ được sinh ra bởi các cộng đoàn người Do Thái cải đạo. Tuy
nhiên đây là những khác biệt. Thời Tân Ước không tương ứng với những
gì Cựu Ước đã mường tượng và mong mỏi. Đó là “dấu hiệu của sự mâu
thuẫn” (Lc 2:34), đã gây ra các căng thẳng và là nguồn gốc của nhiều mối đau khổ. Trong
thái độ của Đức Maria, Luca trình bày một mô hình về cách mà các cộng đoàn có
thể phản ứng và kiên trì trong thời Tân Ước.
ii) Chìa khóa dẫn đến
bài đọc:
Trong hai chương này, Luca trình
bày Đức Maria như một gương mẫu cho đời sống cộng đoàn. Điều quan trọng
ban cho chúng ta trong cảnh mà nơi có người phụ nữ trong đám đông đã ca ngợi
thân mẫu Đức Giêsu. Chúa Giêsu cải sửa lời khen ngợi ấy và nói rằng: “Phúc
thay cho những kẻ biết lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa!” (Lc
11:27-28). Nơi đây hàm chứa sự cao trọng của Đức
Maria. Đó là sống trong thế gian mà Đức Maria biết cách liên kết với
Ngôi Lời Thiên Chúa cộng đoàn chiêm niệm một cách chính xác hơn trong sự liên kết
với Lời Chúa: tiếp nhận, thể hiện, sống, đào sâu, suy niệm, sinh sản
và làm tăng trưởng, để cho chính mình được Lời Chúa làm chủ cho dù có khi không
hiểu hoặc phải chịu đau khổ vì nó. Đây là viễn ảnh hàm chứa trong
văn bản của các chương 1 và 2 của sách Tin Mừng Luca, nói về Đức Maria, thân mẫu
Chúa Giêsu.
iii) Áp dụng của chìa
khóa vào văn bản:
1. Lc 1:26-38:
Truyền Tin: “Tôi xin vâng như lời thiên thần truyền!”
Mở lòng để Ngôi Lời Thiên Chúa
được tiếp nhận và nhập thể.
2. Lc 1:39-45:
Đi viếng bà Êlisabéth: “Phúc cho bà là kẻ đã tin!”
Nhận ra Lời Chúa trong các sự việc
của đời sống.
3. Lc 1:46-56:
Bài ca Ngợi Khen (Magnificat): “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những sự trọng đại!”
Bài thánh ca hy vọng mang tính
chất phá vỡ và chịu đựng.
4. Lc 2:1-20:
Chúa Ra Đời: “Bà ghi nhớ tất cả những sự việc này và suy niệm
trong lòng.”
Không có chỗ cho họ. Những
kẻ bị xã hội khinh khi chào đón Ngôi Lời.
5. Lc 2:21-32:
Tiến Dâng Chúa Giêsu cho Thiên
Chúa: “Chính mắt con đã
được thấy ơn cứu độ!”
Những năm tháng của đời sống làm
thanh sạch con mắt.
6. Lc 2:33-38:
Ông Simêon và bà Anna: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà”
Là một người Kitô hữu có nghĩa
là một dấu hiệu của sự mâu thuẫn.
7. Lc 2:39-52:
Vào năm Chúa mười hai tuổi: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của
Cha con sao?”
Họ đã không hiểu Ngôi Lời Thiên
Chúa nói với họ!
iv) Những tương phản
nổi bật trong đoạn Tin Mừng của chúng ta:
1. Trong bóng tối của
đêm đen có ánh sáng tỏa chiếu (2:8-9).
2. Thiên đàng trên trời
dường như ôm lấy trần thế của chúng ta dưới đây (2:13).
3. Sự cao trọng của
Thiên Chúa được thể hiện nơi một hài nhi nhỏ bé mong manh (2:7)
4. Vinh quang của
Thiên Chúa được hiện diện trong máng cỏ, bên cạnh với súc vật (2:16).
5. Nỗi kinh sợ tạo ra
bởi sự hiện ra đột ngột của thiên thần và được biến đổi thành niềm vui mừng
(2:9-10).
6. Những kẻ hoàn toàn
bị khinh miệt là những người được mời đầu tiên (2:8).
7. Các mục đồng nhận
thức được Thiên Chúa hiện diện trong một hài nhi mới sinh (2:20).
6. Cầu nguyện với
Thánh Vịnh 23 (22)
“CHÚA là mục tử chăn dắt tôi!”
CHÚA là mục tử chăn dắt tôi, tôi
chẳng thiếu thốn gì.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành
và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính
vì danh dự của Người.
Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u
con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành
và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính
vì danh dự của Người.
Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u
con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.
Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc
ngay trước mặt quân thù.
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,
ly rượu con đầy tràn chan chứa.
Lòng nhân hậu và tình thương Chúa
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên.
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,
ly rượu con đầy tràn chan chứa.
Lòng nhân hậu và tình thương Chúa
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên.
7. Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm
tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa
Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và
ban cho chúng con sức mạnh để thực hành Lời Chúa đã mặc khải cho chúng
con. Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria,
thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời
Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự
hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét