29/12/2019
Chúa Nhật THÁNH GIA THẤT năm A
(phần II)
Phụng Vụ Lời
Chúa: Chúa Nhật Lễ Thánh Gia Thất A
CHÚA NHẬT LỄ THÁNH GIA THẤT - A
(Hc 3,3-7.14-17a; Cl 3,12-21; Mt 2,13-15.19-23)
Chủ đề: PHÚC ÂM HÓA GIA ĐÌNH THEO MẪU GƯƠNG THÁNH GIA
“Người làm vợ
hãy phục tùng chồng, Người làm chồng hãy yêu thương vợ.
Kẻ làm con hãy
vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa”
(Cl 3,18-20).
Ngôi Lời của Thiên
Chúa đã đến làm người trong một gia đình. Vì thế, hằng năm, vào Chúa Nhật sau lễ
Giáng Sinh, Hội Thánh mừng kính Lễ Thánh Gia Thất của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và
Thánh Giuse. Thánh Gia trở thành một mẫu gương nổi bật cho các gia đình Kitô hữu
noi theo. Các bài đọc hôm nay cho thấy vai trò và bổn phận mà mỗi thành viên
trong gia đình phải có để kiến tạo một gia đình hạnh phúc; đồng thời cho thấy
những phúc lành mà Thiên Chúa hứa ban cho một gia đình sống theo thánh ý Thiên
Chúa.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc 1 (Hc
3,3-7.14-17a):
Bài đọc I trích sách
Huấn Ca dạy những người con phải biết thảo kính cha mẹ vì đó là ý muốn của
Thiên Chúa. Gia đình nào có con cái hiếu thảo thì người cha được vẻ vang, người
mẹ thêm uy quyền. Đối với người làm con, việc thảo kính cha mẹ sẽ đem lại nhiều
ơn ích:
- Với Thiên Chúa: họ
được bù đắp các thiếu sót và tội lỗi đã phạm, nhờ vậy sẽ tích trữ được kho báu ở
trên trời; thêm vào đó, khi cầu nguyện, họ sẽ được Thiên Chúa nhận lời.
- Với bản thân: họ sẽ
sống trường thọ và danh thơm sẽ được truyền tụng, không bị người đời quên lãng.
- Với con cháu: họ sẽ
được đáp lại theo luật “nhân quả”, đó là sẽ được vui mừng vì con cái họ, nghĩa
là sẽ được con cái hiếu thảo với họ, như chính họ đã hiếu thảo với cha mẹ của
mình.
Từ những hệ quả trên,
Lời Chúa trong sách Huấn Ca khuyên con cái hiếu thảo với cha mẹ mình. Việc hiếu
thảo này được diễn tả qua những khía cạnh khác nhau: “thờ cha”, “kính mẹ”, “tôn
vinh cha”, “làm cho mẹ an lòng”, “săn sóc cha”, “chớ làm người buồn tủi”, “người
có lú lẫn, phải cảm thông” và “không khinh dể cha mẹ mình”.
2. Bài đọc 2 (Cl
3,12-21):
Bài đọc 2 trích từ thư
của thánh Phaolô gửi tín hữu Côlôxê cho chúng ta thấy nguyên lý của đời sống
gia đình là dựa trên tinh thần đời sống mới trong Đức Kitô. Theo đó, đời sống
gia đình của những người đã được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu
thương, tức là đời sống của một gia đình Kitô hữu, phải có những đức tính như:
thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và tha
thứ cho nhau.
Các đức tính trên được
thực hiện nhờ vào nhân đức nền tảng là “lòng bác ái” vì lòng bác ái là mối dây
liên kết tuyệt hảo mọi đức tính luân lý của Kitô giáo (xem Bài ca Đức mến 1Cr
13). Từ những nguyên lý đó, hệ quả kéo theo là: vợ chồng yêu thương, phục tùng
lẫn nhau và đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng. Về phần con cái,
họ cần vâng phục cha mẹ trong mọi sự vì đó là điều đẹp lòng Chúa.
Để thực hiện những điều
trên, cuộc sống gia đình phải được nuôi dưỡng bởi lời Chúa và đời sống cầu nguyện
qua việc dâng lên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca để tìm kiếm
thánh ý Thiên Chúa. Qua đó, Lời Chúa sẽ dậy men trong gia đình. Nói cách khác,
cần Phúc-Âm-hóa đời sống gia đình.
3. Bài Tin Mừng (Mt
2,13-15.19-23):
Đức Giêsu, con Thiên
Chúa đã làm người phàm, đã sống trong một gia đình có thân phụ là Thánh Giuse
và thân mẫu là Đức Maria. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy vai trò của Thánh Giuse
trong Thánh Gia, đó là vâng theo thánh ý Thiên Chúa hầu bảo vệ, che chở Đức
Maria và Đức Giêsu tránh khỏi những toan tính của các thế lực chống lại Thiên
Chúa, để Đức Giêsu có thể thực thi chương trình cứu độ khi đến thời đến buổi.
Trước đó, Thánh Giuse
đã vâng theo lệnh Chúa qua lời của Sứ Thần Chúa truyền cho ông trong giấc mơ để
đón nhận Đức Maria làm vợ mình, đặt tên cho con trẻ là Giêsu, và lúc này là đưa
Hài Nhi trốn sang Ai Cập để bảo đảm an toàn tính mạng cho Hài Nhi và Đức Maria
khỏi sự đe dọa từ thế lực chính trị của vua Hêrôđê. Như thế, Tin Mừng cho thấy
rằng ngay cả Thánh Gia cũng phải trải qua những thử thách và đau khổ trong đời
sống thường nhật như bao gia đình khác.
Qua những thử thách và
bách hại và cách hành động như trên, Thánh Giuse đã cho thấy thế nào là một người
có niềm tin đích thực: vâng theo thánh ý Thiên Chúa với bất cứ giá nào. Cuộc
lánh nạn tới đất Ai Cập là ác mộng và xem ra vô định vì không biết tương lai sẽ
xảy ra như thế nào, nhưng Thánh Giuse vẫn vâng theo vì lòng tín thác vào Thiên
Chúa. Sau đó, ngài lại vâng theo lệnh Chúa mà đưa Thánh Gia ra khỏi Ai Cập để
trở về sống cuộc sống bình dân thầm lặng ở Nadarét. Riêng Đức Maria và Đức
Giêsu thì hoàn toàn vâng phục Thánh Giuse, không phản kháng một lời.
Những tư tưởng trên
cho thấy rằng Thánh Gia là một gia đình gương mẫu đã sống theo những nguyên lý
căn bản của một gia đình thực thi thánh ý Thiên Chúa như đã đề cập trong bài đọc
1 và 2. Với tư cách là cột trụ của gia đình, Thánh Giuse đã bảo vệ vợ mình và
con cái theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa; còn Đức Maria và Chúa Giêsu lại sống
theo sự dẫn dắt của Thánh Giuse. Nhờ có tôn ti trật tự như thế, Thánh Gia là một
gia đình trên thuận dưới hòa, trong ấm ngoài êm và trở thành một mô hình gương
mẫu để mọi gia đình và nhất là gia đình Kitô hữu noi theo.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. “Ai thờ cha thì
bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì
con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường
thọ…” (Hc 3,3-6). Tư tưởng này rất phù hợp với đạo hiếu “uống nước nhớ nguồn,
làm con phải hiếu” của người Việt Nam. Ngày nay đời sống gia đình đang trên đà
xuống dốc: cha mẹ ly thân, ly dị; con cái hư thân bất hiếu; anh em chia rẽ bất
hòa,… Là cha mẹ, chúng ta có ý thức được rằng đời sống và các hành vi của bản
thân là bài học chính cho con cái hay không? Là con cái, chúng ta có ý thức được
phận làm con của mình, cụ thể là sống hiếu thảo thì sẽ đẹp lòng Chúa, làm vui
lòng cha mẹ, tích đức cho bản thân; và đến lượt, sẽ có một gia đình hạnh phúc
trong tương lai, sẽ được con cái kính trọng như mình đã kính trọng với cha mẹ của
mình hay không?
2. “Anh em hãy có
lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ
cho nhau, và trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây
liên kết tuyệt hảo” (Cl 3,12-14). Gia đình Kitô giáo phải được xây dựng
trên những nhân đức nền tảng của đời sống mới trong Đức Kitô, nhất là lòng bác
ái (đức ái/ tình yêu). Chúng ta có ý thức được rằng các đức tính trên, nhất là
đức ái, sẽ giúp mỗi thành phần trong gia đình vượt qua được mọi khủng hoảng của
đời sống gia đình như cha mẹ ly thân, ly dị, gia đình tan vỡ…; đồng thời, giúp
mỗi người sống chính danh: cha mẹ sống đúng vai trò của mình, chu toàn bổn phận
chăm sóc và yêu thương, dạy dỗ nhưng cũng tôn trọng con cái; con cái chu toàn bổn
phận làm con, sống thảo hiếu với cha mẹ hay không? Chúng ta có ý thức rằng mỗi
thành viên trong gia đình cần thực thi các đức tính, nhất là đức ái Kitô giáo,
tân Phúc-Âm-Hóa chính đời sống gia đình của mình; nhờ đó cùng nhau gắn kết hầu
chung tay xây dựng gia đình có lối sống Tin Mừng hay không?
3. “Tại Việt
Nam, gia đình vẫn là ‘trường học đầu tiên’, nơi đó các Kitô hữu trẻ đón nhận những
bài học căn bản cho đời sống làm người và làm con cái Chúa.” Những lời
ấy trong Thư Chung HĐGMVN 2019 (số 3) tiếp nối tư tưởng của Hội Thánh hoàn vũ
đã được các Đức Thánh Cha đề cập tới. Đức Thánh Cha Bênêđíctô đã nói: “Gia
đình là nơi thuận tiện đầu tiên để nói về Thiên Chúa, để thông truyền đức tin
cho các thế hệ mới. Vì thế các phụ huynh phải biết tỉnh thức và nhạy cảm chú ý
tới các dịp thuận tiện giúp trình bày đức tin cho con cái với niềm vui, khả
năng lắng nghe và đối thoại” (sáng thứ Tư ngày 28/11/2012 tại Rôma). Chúng
ta có ý thức được rằng nếu mỗi thành phần trong gia đình, nhất là bậc cha mẹ,
biết thực hành những lời nhắc nhở trên đây thì gia đình sẽ trở nên một tổ ấm
yêu thương, sống đùm bọc lẫn nhau, trong ấm ngoài êm, trên thuận dưới hòa và đẹp
lòng Thiên Chúa hay không?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị
em thân mến! Ngôi Lời của Thiên Chúa đã đến làm người trong một gia đình, và
Thánh Gia Thất trở nên mẫu gương tuyệt vời cho các gia đình Công Giáo. Cộng
đoàn chúng ta hãy quyết tâm noi theo gương Thánh Gia và tha thiết cầu xin Chúa
ban ơn trợ giúp:
1. Việc canh tân Hội
Thánh phải được bắt đầu từ mỗi gia đình. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các vị chủ
chăn trong Hội Thánh biết quan tâm nhiều hơn đến mục vụ gia đình, để các gia
đình Công Giáo thực sự trở nên một Hội Thánh tại gia, là nơi bảo vệ và thông
truyền đức tin Kitô giáo qua nhiều thế hệ.
2. Thánh Gia đã phải
trải qua những thử thách và đau khổ trong đời sống thường nhật. Chúng ta cầu
nguyện cho các bậc cha mẹ trong gia đình biết chiêm ngắm và noi theo gương mẫu
của Đức Maria cùng thánh Giuse, luôn vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh, ý thức
trách nhiệm giáo dục đức tin và nêu gương sáng cho con cái.
3. “Anh chị em hãy có
đức yêu thương, đó là dây liên kết điều toàn thiện.” Chúng ta cầu nguyện cho những
người trẻ trong gia đình biết chu toàn bổn phận làm con cái, luôn yêu thương
kính trọng ông bà cha mẹ; đồng thời, biết nỗ lực hoàn thiện bản thân, luôn sống
xứng đáng với phẩm giá làm người và làm con cái Chúa.
4. “Nguyện cho lời Đức
Kitô ngự trong anh em cách dồi dào.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho các gia đình
trong cộng đoàn chúng ta luôn siêng năng suy niệm và sống Lời Chúa mỗi ngày,
tích cực xây dựng gia đình mình trở thành một cộng đoàn chuyên chăm cầu nguyện,
sống yêu thương phục vụ, và hăng say loan báo Tin Mừng.
Chủ tế: Lạy
Chúa là nguồn gốc của mọi gia đình và là Cha tất cả chúng con. Xin nhận lời
chúng con cầu nguyện và giúp chúng con biết noi gương Thánh Gia: Chúa Giêsu, Đức
Maria và Thánh Giuse, luôn tìm kiếm và thực thi thánh ý Chúa, hầu ngày sau xứng
đáng được chung hưởng vinh quang và sự sống đời đời trong nhà Chúa. Chúng con cầu
xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
LỄ THÁNH GIA
THÁNH GIA NADARÉT
LÀ GƯƠNG MẪU CỦA MỌI GIA ĐÌNH
LÀ GƯƠNG MẪU CỦA MỌI GIA ĐÌNH
“Giuse đưa Hài
nhi và Mẹ Người trốn sang Ai cập” (Mt 2,14)
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I : Ai
kính sợ Chúa thì thảo kính cha mẹ.
– Đáp ca : Kẻ
kính sợ Chúa thì được hưởng hạnh phúc gia đình.
– Tin Mừng :
Gương Thánh Giuse gia trưởng.
– Bài đọc II : Sống
hòa thuận trong gia đình.
Lễ Thánh Gia hôm nay rất
có ý nghĩa đối với người Việt Nam chúng ta vốn coi trọng gia đình và các giá trị
gia đình.
Lời Chúa hôm nay tuy
chưa liệt kê đầy đủ mọi đức tính phải có trong cuộc sống gia đình, nhưng những
đức tính được đề cập tới đều rất quan trọng.
Trong Thánh lễ đặc biệt
này, chúng ta hãy mở rộng tâm hồn để đón nhận giáo huấn của Lời Chúa, và tha
thiết cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng ta xây dựng gia đình mình theo
gương mẫu Thánh gia Nadarét.
– Chúng ta đã thiếu
sót rất nhiều trong bổn phận làm chồng, làm vợ, làm cha, làm mẹ, làm con, làm
anh chị em trong gia đình.
– Chúng ta đã cố gắng
rất nhiều để lo cho gia đình về phương diện vật chất, nhưng chưa cố gắng đủ để
lo cho gia đình về phương diện tinh thần và đạo đức.
– Gia đình chúng ta
chưa là một nắm men, một hạt muối, một ngọn đèn sáng trong khu xóm.
Đoạn sách Huấn Ca này
đặc biệt nhấn mạnh đến bổn phận con cái phải thảo kính cha mẹ.
Nền tảng của việc thảo
kính cha mẹ là chính ý muốn của Thiên Chúa : “Thiên Chúa suy tôn người cha
trong con cái, quyền lợi người mẹ Ngài củng cố trên đàn con”.
Thảo kính cha mẹ sinh
ra rất nhiều ơn ích :
– đền bù tội lỗi, thu
được một kho tàng, làm cho cha mẹ vui, sống lâu
– khi cầu xin sẽ được
Thiên Chúa nhậm lời
– sau này đến lượt
mình có con cái thì sẽ được chúng hiếu thảo
Tác giả Tv 127 coi việc
kính sợ Chúa là nguồn mọi hạnh phúc gia đình :
– những lao công khó
nhọc sẽ sinh kết quả
– được vợ hiền con
ngoan
– hạnh phúc suốt đời
Trong bức tranh vẽ cảnh
gia đình Nadarét, có hai nét đáng lưu ý hơn cả :
a/ Vai trò nổi bật của
người gia trưởng : vai người mẹ Maria và người con Giêsu đều mờ nhạt để
làm nổi bật hẳn lên vai người gia trưởng Giuse. Người gia trưởng này tuy âm thầm
nhưng rất tận tuỵ lo lắng chăm sóc mọi người trong gia đình. à Một gia đình hợp
nhất quanh người gia trưởng.
b/ Nhưng bên trên vai
trò người gia trưởng, còn một vai khác quan trọng hơn, đó là Thiên Chúa. Chính
Thiên Chúa dẫn dắt cuộc sống gia đình Nadarét qua đại diện của Ngài là gia trưởng
Giuse. à Thiên Chúa là gia trưởng tối cao của gia đình.
Thánh Phaolô liệt kê
những đức tính phải có trong cuộc sống gia đình : từ bi, nhân hậu, khiêm
cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau.
Trong các đức tính ấy,
Thánh Phaolô đặc biệt lưu ý đến việc tha thứ cho nhau. Ngài kêu gọi các phần tử
trong gia đình hãy tha thứ cho nhau theo gương và theo mức độ của chính Chúa
Giêsu : “Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho
nhau”.
Và để có thể thực hiện
các đức tính ấy, phải có một nhân đức làm nền, đó là đức yêu thương.
Đương nhiên người cha
và người mẹ là hai vai trò quan trọng nhất trong gia đình. Còn nếu so sánh người
cha với người mẹ thì có lẽ vai trò người cha quan trọng hơn :
– Gia đình nào có người
mẹ tốt nhưng người cha xấu thì các con trong gia đình khó mà tốt hết được. Hình
như tấm lòng của người mẹ không hữu hiệu bằng sự hướng dẫn của người cha.
– Gia đình nào có người
cha tốt thì hầu như mọi người trong nhà đều dễ trở thành tốt, vì người cha là cột
trụ cho cả nhà dựa vào, là vị chỉ huy điều khiển mọi người, là người cầm lái
đưa cả gia đình theo một hướng.
Gia đình Nadarét có
Thánh Giuse làm gia trưởng. Dù Đức Maria và Chúa Giêsu là những người cao quý
hơn thánh Giuse, nhưng Thiên Chúa đã đặt hai vị dưới quyền Thánh Giuse ;
khi Thiên Chúa muốn nói gì với gia đình này thì Ngài nói với Thánh Giuse ;
và hai vị kia vâng lời Thánh Giuse như vâng lời Thiên Chúa.
Phần Thánh Giuse, có lẽ
Ngài không thông minh và tài cán bao nhiêu, nhưng Ngài rất tận tuỵ trong bổn phận,
nhất là Ngài điều hành việc gia đình theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Bài Tin
Mừng hôm nay kể : trong hai tình huống nghiêm trọng nhất là trốn sang Ai cập
và hồi hương về Nadarét, Thánh Giuse đều làm theo lời Chúa. Bản văn viết
rõ : “Giuse liền thức dậy, đưa hài nhi và mẹ Người trốn sang Ai cập” (hoặc :
“về đất Israel”). Dù đang ngủ nhưng mau mắn “thức dậy” và “liền” thi hành ngay
lời Chúa dạy.
Đối chiếu với gương
thánh Giuse, chúng ta hiểu được lý do khiến cho nhiều gia đình không được tốt :
– Lý do thứ nhất là vì
người cha gia đình không tận tuỵ với bổn phận mình.
– Lý do thứ hai là vì
người cha gia đình không điều hành gia đình theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
Cha mẹ thương con là
do bản năng : dù đứa con xinh đẹp hay xấu xí, ngoan ngoãn hay ngỗ nghịch,
cha mẹ vẫn luôn yêu thương và hy sinh tất cả cho nó. Người ta nói “Nước bao giờ
cũng chảy xuôi xuống”.
Nhưng con cái thương
cha mẹ không phải là bản năng (con cái bám lấy cha mẹ mới là bản năng) :
khi đứa con còn cần đến cha mẹ thì xem ra nó “thương” cha mẹ lắm. Đến khi nó
không cần đến cha mẹ nữa, nhất là khi cha mẹ cần đến nó thì nhiều đứa thờ ơ, hất
hủi, bất hiếu… “Cha mẹ nuôi con như biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ tính
tháng tính ngày”.
Nếu là bản năng thì
không cần được dạy. Vì không phải là bản năng nên cần được dạy mới biết.
– Người Việt Nam dạy
con cái hiếu thảo cha mẹ cách tiêu cực bằng lời đe dọa : ai bất hiếu ngỗ
nghịch với cha mẹ thì sẽ bị “trời đánh”.
– Sách Đức Huấn Ca dạy
cách tích cực bằng Lời Chúa hứa ban cho kẻ thảo hiếu cha mẹ nhiều ơn lành (xem
phần giải thích Bài đọc I phía trên)
Dù dạy cách tiêu cực bằng
lời đe dọa, hay cách tích cực bằng lời hứa, cả hai lời dạy trên đều giống nhau ở
điểm quy lòng hiếu thảo về nguồn gốc là Thiên Chúa (hay “Ông Trời”) :
chính Thiên Chúa muốn con cái hiếu thảo với cha mẹ, do đó Ngài thưởng kẻ hiếu
thảo và phạt kẻ bất hiếu.
Vì thế những kẻ làm
con phải ý thức rằng : Hiếu thảo với cha mẹ
– không chỉ là một
tình cảm tự nhiên được thúc đẩy bởi bản năng,
– mà còn là một đạo lý
nhân bản (đạo làm người : nhân-đạo)
– hơn nữa, đó còn là lệnh
truyền của chính Thiên Chúa (thiên-đạo)
Để bảo vệ Hài nhi
Giêsu khỏi sa vào nanh vuốt Hêrôđê, Thánh Giuse và Đức Maria đã phải vượt qua
con đường hiểm trở dài gần 500 cây số xuyên qua sa mạc El-Arish đến Ai Cập, một
sa mạc trải dài hơn 200 cây số toàn cát trắng như biển cả mênh mông, không một
bóng cây, một cọng cỏ, một giếng nước. Đoàn lữ hành phải đeo đủ đồ ăn, nước uống
để chịu đựng cả nửa tháng rất kham khổ. Năm mươi năm trước Chúa Giáng sinh,
đoàn quân Rôma phải vượt qua quãng đường này thấy khủng khiếp hơn đánh nhau với
quân Ai cập. Năm 1967, đại quân Ai cập đã sa lầy trong sa mạc này khi chiến
tranh với quân do thái.
Sự khủng khiếp của những
đoàn quân hùng mạnh làm ta cảm thấy sự khốn cực của Thánh Gia lúc đi tị nạn.
Ngày ngày các ngài phải lê gót từng bước chân trên cát lầy sụp lở, vượt qua các
đồi cát dưới ánh nắng mặt trời thiêu đốt, giữa biển cát nóng hừng hực, vẫn phải
tiết kiệm từng giọt nước và những cơn bão cát khủng khiếp như muốn chôn sống
các ngài.
Có một số sách hoang
đường mô tả cuộc tị nạn của Thánh Gia như thiên đường : những dã thú hiền
từ đến lậy dưới chân Chúa Hài Nhi, những cây chà là rợp bóng rũ trái để các
Ngài ngủ mát, ăn điểm tâm ; nước chảy lênh láng để các Ngài giải khát, tắm
rửa giữa sa mạc ! (Ricciotti, Vie de Jésus-Christ, p. 268)
Ở trần gian, Thánh Gia
không được hưởng cảnh thanh nhàn đó. Chúa muốn các Ngài phải chịu trăm chiều
đau khổ để nêu gương cho ta khi gặp gian nan biết vui lòng hy sinh như các
Ngài, nhất là khi gặp thử thách để bảo vệ Hài Nhi Giêsu, bảo vệ Hội Thánh, bảo
vệ đức tin và các hài nhi con cháu mình. Phải bảo vệ hài nhi khỏi tay kẻ dữ, khỏi
không bị hận thù bất công, khỏi bạn bè gian ác, trộm cắp, đồi truỵ. Đó là nhiệm
vụ của cha mẹ, của các vị tinh thần và mọi kitô hữu.
Biết bao hài nhi đã bị
huỷ hoại trong bào thai, khi chào đời lại bị cha mẹ vô luân liệng bỏ, và bị bao
nhiêu tệ nạn xấu xô đẩy. Thật khổ tâm !
Cách bảo vệ hài nhi an
toàn nhất là hãy tỉnh thức nghe tiếng Chúa trong lương tri, trong Tin Mừng và
giáo huấn của Hội Thánh, mới mong tránh khỏi tay những Hêrôđê tàn bạo. Nhất là
hãy dắt con em mình đến nương ẩn dưới cánh tay uy quyền và tình thương bao la của
Chúa, Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse.
(Lm Vũ khắc Nghiêm,
Xây nhà trên đá, năm A)
Nếu trẻ con sống với
những lời phê phán, chúng học được thói hay lên án.
Nếu chúng sống với sự
hận thù, chúng học được thói thích đánh nhau.
Nếu chúng sống với những
lời chế nhạo, chúng học được thói nhút nhát.
Nếu chúng sống với sự
chê bai, chúng học được mặc cảm tội lỗi
Nếu chúng sống với sự
bao dung, chúng học được tính nhẫn nhục
Nếu chúng sống với sự
khuyến khích, chúng học được lòng tự tin.
Nếu chúng sống với lời
khen, chúng học được cách thưởng thức cái hay của người.
Nếu chúng sống với sự
lương thiện, chúng học được tính công bình.
Nếu chúng sống với sự
che chở an toàn, chúng học được lòng tin cậy.
Nếu chúng sống với sự
chấp nhận, chúng học biết yêu thích chính mình.
Nếu chúng sống với
tình thương, chúng học được cách tìm thấy Chúa trong cuộc đời. (Anon, “Children
learn what they live”)
Đầu thế kỷ XX này, tại
Luân Đôn, có một gia đình công nhân vừa nghèo khó lại vừa đông con : cả thảy
13 đứa ! Bố của chúng phải đi làm việc suốt ngày ở xí nghiệp. Bà mẹ ở nhà
làm nghề phụ và lo việc nội trợ. Dù đầu tắt mặt tối, bận bịu suốt ngày suốt
đêm, nhưng bà Vaughan vẫn vui vẻ thay mặt chồng dạy dỗ con cái học giáo lý, tập
luyện chúng có tinh thần đạo đức, khuyên chúng chịu khó học tập, lao động, và đặc
biệt trưa nào rửa chén bát xong bà Vaughan cũng đến nhà thờ chầu Chúa một giờ.
Láng giềng ai cũng lấy
làm lạ và hỏi bà : “Một bầy con 13 đứa, bận rộn sáng tối, mà sao trưa nào
chị cũng đi chầu Thánh Thể ?” Bà tươi cười bảo : “Thấy một bầy con
lúc nhúc, ăn bữa mai chạy gạo bữa hôm, tôi lo lắm. Hơn thế chúng còn đến trước
trường học, theo bạn bè rủ rê đi chơi hoặc ra phố phường xa hoa, do đó nhiều
nguy hiểm, tôi càng thao thức hơn. Thành thử mỗi ngày dầu bận việc đến đâu, tôi
cũng bỏ ra một giờ để chầu Chúa, sốt sắng xin Người ban ơn cho vợ chồng tôi
nuôi nấng các cháu hằng ngày dùng đủ và dạy dỗ chúng nên người đạo đức”.
Chúa đã nhận lời và ân
thưởng cho lòng tin cùng sự hy sinh của bà Vaughan : trong 13 người con, một
người làm Hồng Y Tổng Giám Mục giáo phận Luân Đôn, một người khác làm Tổng Giám
Mục, hai người làm Linh mục, hai nam tu sĩ, hai nữ tu sĩ, còn 5 người ở thế
gian lập gia đình lưu truyền nòi giống, sống cuộc đời đạo đức thánh thiện. (ĐHY
NVT, Trên đường lữ hành)
CT : Anh chị em thân mến
Gia đình là nền tảng của
xã hội và Giáo Hội, là vườn ươm hạt giống đức tin, là trường đào tạo tông đồ,
là nơi rèn luyện nhân cách. Nhân ngày lễ kính Thánh Gia Thất, chúng ta cùng
dâng lời cầu nguyện cho hết mọi gia đình.
1- Hội Thánh luôn xác
nhận tầm quan trọng của gia đình, và tìm hết mọi cách để bảo vệ đời sống hôn
nhân và gia đình, khỏi bị tội lỗi làm hoen ố. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các
gia đình công giáo / luôn biết tuân theo lời giáo huấn của Hội Thánh.
2- Những biến động xã
hội trên thế giới ngày nay / gây ra biết bao xáo trộn trong đời sống gia đình /
làm lung lay tận gốc rễ nền tảng của xã hội và Giáo Hội / Chúng ta hiệp lời cầu
xin cho tất cả các gia đình vượt qua được những thử thách gian nan / để luôn sống
trong hạnh phúc và an bình.
3- Giáo dục đầu tiên
trong gia đình hết sức quan trọng / vì giúp hình thành nhân cách cũng như dời sống
đạo nơi trẻ em / và cha mẹ là những thầy dạy không ai có thể thay thế được /
Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các bận cha mẹ / biết luôn quan tâm đến việc giáo
dục đức tin và nhân bản cho con cái / bằng lời nói cũng như bằng gương tốt.
4- Một gia đình hạnh
phúc là một gia đình biết sống lời Thánh Phaolô dạy trong thư Côlôxê :
“Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái / vì đó là mối dây liên kết
tuyệt hảo”. Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình trong giáo xứ chúng ta /
biết luôn cố gắng sống trọn vẹn lời Thánh Phaolô đã dạy.
CT : Lạy Chúa, Thánh Gia Nadarét quả là một gương mẫu
tuyệt hảo cho tất cả các gia đình công giáo về đời sống tin cậy mến cũng như đời
sống lao động cần cù. Xin cho chúng con biết luôn noi gương Thánh Gia, sống một
cuộc đời đẹp lòng Chúa, và nên gương sáng cho những người chưa nhận biết Chúa.
Chúng con cầu xin…
– Trước kinh Lạy
Cha : Chúng ta không chỉ là thành phần của những gia đình tự nhiên theo
xác thịt, mà còn thuộc về một gia đình chung mà Thiên Chúa là Cha. Trong tình
nghĩa anh chị em nhau, và trong tâm tình hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha chung,
chúng ta hãy cùng nhau dâng lên Ngài lời kinh sau đây.
– Sau kinh Lạy
Cha : “Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, đặc biệt là sự
ganh ghét, đố kỵ, chia rẽ làm tổn hại tình yêu thương giữa các con cái Cha
trong cùng một gia đình, xin đoái thương ban cho những ngày chúng con
đang sống được bình an…”
– Trước lúc rước lễ :
“Đây Chiên Thiên Chúa… Phúc cho những ai được Thiên Chúa là Cha mời đến
dự bàn tiệc thánh trong gia đình của Chúa”
Trở về với nếp sống
gia đình, anh chị em hãy cố gắng sống với nhau cho thật tốt, theo gương Thánh
Gia Nadarét.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Lễ Thánh Gia Thất (A)
Sunday 29 December,
2019
Lectio Divina | Lectio
Divina Năm A
Cuộc chạy trốn sang
Ai Cập và trở về Nagiarét
Mt 2:13-23
1. Bài Đọc
a) Lời
nguyện mở đầu:
Lạy Chúa, Đấng Tạo Dựng
trời đất và là Cha của chúng con, Chúa đã sai Con Một Chúa, Đấng đã hiện hữu
trước bình minh của thế gian, phải nên giống như chúng con trong tất cả mọi việc
qua việc nhập thể của Người trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria do bởi quyền
năng của Chúa Thánh Thần. Xin Chúa hãy sai cùng một Thần Khí ban sự
sống đến trên chúng con, để chúng con có thể trở nên ngoan ngoãn với công việc
thánh hóa của Chúa hơn bao giờ hết, để cho bản thân chúng con được biến đổi một
cách nhẹ nhàng bởi cùng Chúa Thánh Thần và nên giống như Đức Kitô, Con Một
Chúa, anh của chúng con, Chúa Cứu Thế và là Đấng Cứu Chuộc chúng con.
b) Bài Phúc Âm theo thánh Mátthêu:
13 Sau khi các đạo sĩ ra đi, thiên thần Chúa hiện ra với
ông Giuse trong lúc ngủ và bảo ông: “Hãy thức dậy, đem hài nhi và mẹ
Người trốn sang Ai-Cập, và ở đó cho tới khi tôi báo lại ông, vì Hêrôđê sắp sửa
tìm kiếm hài nhi để sát hại Người.” 14 Ông thức dậy,
đem hài nhi và mẹ Người lên đường trốn sang Ai-Cập đang lúc ban đêm. 15 Ông
ở lại đó cho tới khi Hêrôđê băng hà, hầu làm trọn điều Chúa dùng miệng tiên tri
mà phán rằng: “Ta gọi Con Ta ra khỏi Ai-Cập.” 16 Bấy
giờ Hêrôđê thấy mình bị các đạo sĩ đánh lừa, nên nổi cơn thịnh nộ và sai quân
đi giết tất cả con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận từ hai tuổi trở xuống, tính theo
thời gian vua đã cặn kẽ hỏi các đạo sĩ. 17 Thế là ứng
nghiệm lời tiên tri Giêrêmia đã nói: 18 Tại Rama,
người ta nghe những tiếng khóc than nức nở, đó là tiếng bà Rakhen than khóc con
mình, bà không chịu cho người ta an ủi bà, vì các con bà không còn nữa. 19 Khi
Hêrôđê băng hà, thì đây thiên thần Chúa hiện ra cùng Giuse trong giấc mơ, bên
Ai-Cập 20 và bảo: “Hãy chỗi dậy, đem con trẻ và
mẹ Người về đất Israel; vì những người tìm hại mạng sống Người đã chết!” 21 Ông
liền chỗi dậy, đem con trẻ và mẹ Người về đất Israel. 22 Nhưng
nghe rằng Arkhêlao làm vua xứ Giuđêa thay cho Hêrôđê là cha mình, thì Giuse sợ
không dám về đó. Được báo trong giấc mộng, ông lánh sang địa phận xứ
Galilêa, 23 và lập cư trong thành gọi là Nagiarét: để ứng
nghiệm lời đã phán qua các tiên tri rằng: Người sẽ được gọi là
Nagiarêô.
c) Giây phút
thinh lặng cầu nguyện:
Để Lời Chúa có thể thấm
nhập vào lòng và soi sáng đời sống chúng ta.
2. Suy Gẫm
a) Chìa khóa
dẫn đến bài đọc:
Tin Mừng của thánh
Mátthêu đã được gọi là “Tin Mừng Nước Trời”. Mátthêu mời gọi chúng
ta suy nghĩ về việc Vương Quốc Nước Trời sắp đến. Có một số người đã
thấy trong cấu trúc sách Tin Mừng của ông tường thuật một bộ trường bi kịch gồm
có bảy màn nói về sự sắp xuất hiện của Vương Quốc này. Bộ trường bi
kịch bắt đầu với việc chuẩn bị cho sự ra đời của Vương Quốc trong con người của
cậu bé Đấng Cứu Thế và kết thúc với sự ra đời của Vương Quốc trong sự đau khổ
và chiến thắng của cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô,
Con Thiên Chúa.
Đoạn Tin Mừng được đưa
ra để cho chúng ta suy gẫm là một phần được gọi là màn đầu tiên nơi Mátthêu giới
thiệu với chúng ta con người của Đức Giêsu như là việc thực hiện những lời của
Kinh Thánh. Tin Mừng của Mátthêu là Tin Mừng thường trích dẫn lời Cựu
Ước để cho thấy rằng trong Đức Kitô, lề luật và các lời tiên tri đã được ứng nghiệm. Chúa
Giêsu, sự ứng nghiệm và hoàn thiện của Kinh Thánh, đến thế gian để tái lập
Vương Quốc Nước Trời đã được công bố trong giao ước của Thiên Chúa với dân Người. Với
sự ra đời của Đức Kitô, giao ước này không còn được chỉ dành riêng cho dân
Do-Thái mà được mở rộng ra cho tất cả mọi dân tộc. Mátthêu viết Tin
Mừng cho cộng đoàn Kitô hữu gốc Do-Thái, bị bách hại bởi hội đường, và mời gọi
Tin Mừng được mở rộng ra cho các dân ngoại. Ông là người ký lục khôn
ngoan biết cách phân biệt từ kho tàng của mình những gì cũ và mới. Tin
Mừng của ông đã được viết lần đầu tiên bằng tiếng Aramaic và sau đó được chuyển
ngữ sang tiếng Hy-Lạp.
Đoạn Tin Mừng Mt
2:13-23 là một phần của chương nói về sự Giáng Sinh và thời thơ ấu của “Đức
Giêsu Kitô, con cháu vua Đavít, con cháu tổ phụ Abraham” (Mt
1:1). Chúa Giêsu thuộc dòng dõi của dân Do-thái nhưng Người cũng thuộc
dòng dõi của cả nhân loại. Trong gia phả của Người, chúng ta thấy có
những ảnh hưởng của cả dân ngoại (Mt 1:3-6). Sau Đức Maria, mẹ Người,
những người đầu tiên được gọi để đến bái lạy Đức Cứu Thế hài nhi là những nhà đạo
sĩ (Mt 2:11). Với ánh sáng của Người, Đức Cứu Thế thu hút những đạo
sĩ tìm đến Người và ban cho họ ơn cứu rỗi (Mt 2:1-12). Các nhà đạo
sĩ nhận được ơn cứu rỗi này, không giống như Hêrôđê và các dân bối rối của
thành Giêrusalem (Mt 2:3). Ngay từ lúc sinh ra, Chúa Giêsu đã bị đàn
áp bởi các kẻ thủ lãnh của dân tộc Người và đồng thời khơi dậy những kinh nghiệm
thương đau của dân Người.
Ngay từ lúc sinh ra,
Chúa Giêsu đã làm khơi dậy những kinh nghiệm đau thương của dân Người trong cuộc
sống lưu đày, bị hạ nhục lần nữa và lần nữa. Phúc Âm cho chúng ta thấy
điều này bằng cách kể lại cho chúng ta biết về việc chạy trốn sang Ai Cập và cuộc
tàn sát những trẻ thơ vô tội. Bộ trường bi kịch của những sự kiện này mở ra trước
chúng ta trong các chi tiết sau đây:
i) Thiên thần Chúa hiện ra với ông Giuse trong giấc mộng sau
khi các đạo sĩ ra đi, và cuộc chạy trốn sang Ai Cập (Mt 2:13-15).
ii) Vua Hêrôđê biết mình bị các đạo sĩ đánh lừa và sai quân
đi giết tất cả các con trẻ ở Bêlem (Mt 2:16-18).
iii) Cái chết của vua Hêrôđê và cuộc trở về “bí mật”
của Thánh Gia không về lại Bêlem mà lánh sang xứ Galilê (Mt 2:19-23).
Chủ đề các vị vua ra
tay tàn sát những kẻ mà họ sợ thì rất thông thường trong lịch sử của mỗi triều
đại vua chúa. Ngoài cảnh vua Hêrôđê lùng kiếm để sát hại hài nhi
Giêsu ra, trong Kinh Thánh phần Cựu Ước, chúng ta cũng tìm thấy những câu chuyện
tương tự. Trong sách Samuel quyển thứ nhất, vua Saul, người đã bị Đức
Chúa từ chối, lo sợ Đavít và tìm cách sát hại ông (1Sm 15; 18; 19; 20). Bà
Mikhan và ông Giônathan đã giúp Đavít chạy thoát (1Sm 19; 20). Lần nữa
trong sách Các Vua quyển thứ nhất, vua Salômôn trong tuổi già của mình, đã bất
trung với Thiên Chúa của cha ông và với một trái tim hoang đàng, đã làm những
điều tội lỗi dưới con mắt của Thiên Chúa (1V 11:3-13). Vì lý do này,
Thiên Chúa đã xui khiến cho có một người đối nghịch chống lại vua Salômôn (1V
11:14), Hađát là người dưới triều đại vua Đavít đã chạy trốn sang Ai Cập lánh nạn
(1V 11:17). Một người đối nghịch khác với vua Salômôn là Gia-róp-am
cũng đã trốn chạy sang Ai Cập khi nhà vua muốn tìm cách giết ông (1V
11:40). Những sự nguy hiểm như thế của một vương quốc suy
thoái. Trong sách Các Vua quyển thứ hai, lần này trong bối cảnh
thành Giêrusalem bị vây hãm, “Ngày mồng mười, tháng mười, năm thứ chín dưới triều
đại [vua Na-bu-cô-đô-nô-xo]” (2V 25:1) năm 589, chúng ta đọc thấy thành
Giêrusalem bị cướp phá và cuộc lưu đày biệt xứ lần thứ hai của người dân vào
năm 587 (2V 25:8-21). Những người dân “còn sót lại trong xứ Giuđêa”
(2V 25:22) bị đặt dưới quyền cai trị của Gơđan-gia-hu, người được vua
Na-bu-cô-đô-nô-xo đặt làm tổng trấn. “Ông Ít-ma-en […] và cùng với
mười người […] giết chết ông Gơđan-gia-hu cũng như các người Giuđêa và Canđê
đang cùng ở với ông”. Sau đó vì sợ người Canđê, họ chạy trốn sang đất
Ai-cập (2V 25-26). Trong sách của tiên tri Giêrêmia, chúng ta cũng
tìm thấy câu chuyện của Uria “Cũng có một người nữa đã tuyên sấm nhân danh Đức
Giavê” (Gr 26:20). Uria đã trốn sang Ai-cập vì vua Giơ-hô-akim đang
tìm cách giết ông. Cuối cùng nhà vua đã tìm thấy ông ở Ai-cập và đã
giết ông (Gr 25:20-24).
Với những sự kiện này
như là bối cảnh cho cuộc chạy trốn của Thánh Gia vào đất Ai-cập; Mátthêu cho
chúng ta thấy Đức Giêsu, từ thuở còn rất thơ ấu, như đã tham dự vào vận mệnh của
dân tộc Người. Đất Ai-cập, đối với Chúa Giêsu, trở thành một nơi
lánh nạn, như đã từng được dùng cho các tổ phụ xưa kia:
– Abraham
“xuống trú ngụ ở Ai-cập trong thời gian đó, vì nạn đói hoành hành trong xứ” (St
12:10).
– Giuse đã
bị đe dọa bởi các anh mình, những người đã tìm cách giết cậu vì lòng ghen tị,
và sau đó bán cậu cho những người lái buôn đã đưa cậu vào đất Ai-cập và bán cậu
lại cho Pô-ti-pha (St 37:12-36).
– Israel
(Giacóp) đi đến Ai-cập theo lời mời của con trai ông là Giuse (St 46:1-7).
– Gia đình
của Israel (Giacóp) đi đến Ai-cập để định cư tại đó (St 46-50; Et 1:1-6).
Mátthêu xoay qua trích
dẫn ngược lại từ sách tiên tri Hôsê 11:1 “Từ Ai-cập Ta đã gọi Con Ta về”, và giải
thích như là nếu Thiên Chúa đã gọi Con của Người là Đức Giêsu phải trốn sang Ai
Cập (Mt 2:15). Ý nghĩa nguyên thủy của Hôsê là Thiên Chúa đã gọi Con
của Người là Israel rời khỏi đất Ai-cập để bắt đầu một quốc gia mới. Cuộc
trốn chạy của Chúa Giêsu vào đất Ai-cập và việc tàn sát những trẻ vô tội tại
Bêlem nhắc nhớ chúng ta việc dân Israel bị đàn áp ở Ai-cập và việc tàn sát tất
cả những bé trai mới sinh (Xh 1:8-22).
Lời tiên tri được áp dụng
vào vụ giết hại những người vô tội được trích ra từ sách an ủi gồm các chương 30
và 31 của sách tiên tri Giêrêmia. Tiếng than khóc được nối kết với lời hứa của
Chúa an ủi bà Rakhen, vợ ông Giacóp (vợ ông Israel), mẹ của Giuse, người mà
theo thánh truyền được chôn cất gần Bêlem, và hứa với bà rằng bà sẽ được đền bù
vì sự than khóc của bà cho những người con sẽ không còn trở về nữa (Gr
31:15-18).
Khi họ trở về từ Ai-cập
sau khi vua Hêrôđê băng hà, thánh Giuse quyết định sang lập cư ở xứ Galilê
trong thành Nagiarét. Chúa Giêsu sẽ được gọi là Nagiarêô (Cv
24:5). Ngoài việc chỉ ra tên của một thành, tên này cũng có thể nói
đến như “một nhánh nhỏ”, đó là “neçer” của sách tiên tri Isaia
11:1. Hoặc nó có thể ám chỉ phần còn lại của Israel, “naçur” (xem
Is 42:6).
b) Những câu
hỏi cho phần suy gẫm cá nhân:
i) Điều gì trong đoạn Tin Mừng này của Mátthêu đánh động bạn
nhất?
ii) Vương Quốc Nước Trời có ý nghĩa gì đối với bạn?
iii) Vương Quốc Nước Trời khác với các vương quốc
trần thế như thế nào?
iv) Mátthêu giới thiệu với chúng ta về con người của Đức
Giêsu như là Đấng trở thành một người chịu cùng một số phận với dân của Người. Bạn
hãy đọc đoạn Tin Mừng được trích dẫn trong phần chìa khóa dẫn đến bài đọc để
suy gẫm và cầu nguyện về các sự kiện về dân riêng của Chúa, với những người mà
Chúa Giêsu đã tự gắn bó. Những tình trạng gì tương tự trong thế giới
chúng ta? Hãy tự hỏi chính bạn rằng bạn có thể làm được gì để cải
thiện các điều kiện nơi bạn sống và làm việc, đặc biệt là nếu chúng không đúng
với Vương Quốc Nước Trời.
3. Cầu Nguyện
a) Cầu nguyện
cá nhân trong thinh lặng.
b) Kết thúc
buổi “đọc sách thánh trong tinh thần cầu nguyện” (Lectio Divina) với lời nguyện
này:
Lạy Cha nhân từ, xin
Cha cho chúng con có thể noi theo gương Thánh Gia của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và
Thánh Giuse để chúng con có thể luôn được bền vững trong các thử thách
của đời sống cho đến ngày khi chúng con có thể được chung hưởng vinh quang của
Cha trên Nước Trời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô là Chúa chúng
con. Amen.
4. Chiêm Niệm
Ước gì ơn bình an của
Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em. (Cl 3:15)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét