Trang

Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2025

01.09.2025: THỨ HAI TUẦN XXII THƯỜNG NIÊN

 01/09/2025

 Thứ Hai tuần 22 thường niên

 


Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Tx 4, 13-17

“Nhờ Ðức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem những người đã chết đến làm một với Người”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.

Anh em thân mến, chúng tôi chẳng muốn để anh em không biết gì về số phận những người đã an nghỉ, để anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những kẻ không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin Ðức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì cũng vậy, những người đã chết nhờ Ðức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem họ đến làm một với Người.

Bởi vậy, chúng tôi dựa vào lời Chúa để nói cùng anh em điều này: chúng ta, những kẻ đang sống, những kẻ còn sót lại khi Chúa đến, thì chúng ta không đi trước những người đã an nghỉ. Vì khi nghe lệnh và tiếng Tổng lãnh Thiên thần, và tiếng loa Thiên Chúa, thì chính Chúa từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Ðức Kitô sẽ sống lại trước hết, rồi đến chúng ta, những kẻ đang sống, những kẻ còn sống sót, chúng ta sẽ được nhắc lên cùng với họ trên các tầng mây, đi đón Ðức Kitô trên không trung, và như vậy, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa luôn mãi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 95, 1 và 3. 4-5. 11-12. 13

Ðáp: Chúa ngự tới cai quản địa cầu

Xướng: Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc.

Xướng: Vì Thiên Chúa, Người hùng vĩ và rất đáng ngợi khen, Người khả úy hơn mọi bậc chúa tể. Vì mọi chúa tể của chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo trời xanh.

Xướng: Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan, biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên, đồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui. Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở.

Xướng: Trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh và chư dân cách chân thành.

 

Alleluia: Tv 110, 8ab

Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, mọi giới răn Chúa được lập ra cho tới muôn đời. – Alleluia.

(Hoặc đọc: Alleluia, alleluia! Thần Khí Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. – Alleluia.)

 

Phúc Âm: Lc 4, 16-30

“Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó… Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu trở về Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày Sabbat, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng”.

Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”. Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: “Người này không phải là con ông Giuse sao?”

Và Người nói với họ: “Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: “Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình”; “điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông”. Người nói tiếp: “Ta bảo thật các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Êlia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Êlia không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Êlisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria”.

Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.

Ðó là lời Chúa.

 


Chú giải về 1 Thê-xa-lô-ni-ca 4,13-18

Những Ki-tô hữu đầu tiên, bao gồm cả người Thê-xa-lô-ni-ca, tin chắc rằng Chúa Giê-su sẽ tái lâm trong thời đại của họ. Do đó, họ rất buồn phiền về số phận của những anh chị em đã qua đời. Điều gì sẽ xảy ra với họ nếu họ không còn ở đó để chào đón Chúa khi Ngài đến?

Vậy nên, ở đây, Phao-lô đề cập đến tập tục than khóc quá mức cho người chết của người Thê-xa-lô-ni-ca, một phản ứng xuất phát từ sự căng thẳng mà cộng đồng đặt lên niềm tin rằng Chúa Giê-su sẽ tái lâm rất sớm, chắc chắn là trong đời sống của họ. Nhưng giờ đây, mọi người đã chết trước khi điều này xảy ra: điều gì sẽ xảy ra với họ? Liệu họ có nghĩ rằng người chết, theo tín ngưỡng Do Thái và Hy Lạp, đã đến một nơi dành cho người chết (tiếng Do Thái là Sheol hoặc tiếng Hy Lạp là Hades) mà không có lối thoát? Và vì vậy, họ sẽ không còn ở đó khi Chúa Giê-su đến để đón tất cả các Ki-tô hữu về với Ngài?

Sứ đồ nhắc nhở họ về giáo lý Ki-tô về sự phục sinh của người chết trong Chúa Giê-su. Dựa trên lời dạy của Chúa Kitô, ông khẳng định rằng sự sống lại của người chết sẽ xảy ra trước khi Chúa tái lâm. Những người còn sống vào thời điểm tái lâm sẽ không có lợi thế hơn người chết khi là những người đầu tiên chứng kiến ​​điều đó. Ngược lại, Chúa sẽ truyền lệnh cho người chết sống lại trước; sau đó, người sống sẽ đến với họ và cả hai nhóm sẽ là những chứng nhân của Ngày Tái Lâm.

Giáo lý được nói đến ở đây cần được ghi nhớ khi có nhiều người chết hơn trong cộng đồng. Vì Phao-lô không biết thời điểm của Ngày Tái Lâm, nên ông liên kết với người Thê-xa-lô-ni-ca với hy vọng sống đến ngày đó, tức là trong thế hệ Ki-tô hữu đầu tiên. Trong suy nghĩ của ông, khả năng đó dường như không bị loại trừ bởi chính lời dạy của Chúa Giê-su.

Đó là bối cảnh, bây giờ là phần đọc chính. Những người cải đạo ở Thê-xa-lô-ni-ca rõ ràng đã lo lắng về bạn bè và người thân đã chết và sẽ không có mặt để chứng kiến ​​Chúa tái lâm. Trả lời câu hỏi của họ, Phao-lô khẳng định giáo lý cơ bản về sự phục sinh để củng cố đức tin và hy vọng của họ. Phao-lô muốn người Thê-xa-lô-ni-ca biết chắc chắn về số phận của những người đã “ngủ quên”. Cách nói giảm nói tránh này thường được dùng trong cả Cựu Ước và Tân Ước, cũng như trong văn học Hy Lạp. Vì vậy, việc gọi “sự phục sinh” để sống một cuộc sống mới hoặc từ cõi chết là “sự thức tỉnh” là điều tự nhiên. Đối với người Ki-tô, giấc ngủ là một ẩn dụ đặc biệt thích hợp cho cái chết, bởi vì tính chất cuối cùng của nó.

Một số người Thê-xa-lô-ni-ca dường như đã hiểu sai ý nghĩa của sự Tái Lâm và nghĩ rằng tất cả các tín đồ sẽ sống cho đến khi Chúa Kitô tái lâm. Khi một số người qua đời, câu hỏi được đặt ra là: “Những người đã chết có được dự phần vào ngày trọng đại đó không?”

Nhưng, Phao-lô nói, chúng ta không cần phải đau buồn về họ, như những người khác không còn hy vọng. Những dòng chữ khắc trên mộ và các tài liệu tham khảo cho thấy những người ngoại giáo vào thế kỷ thứ nhất đã kinh hoàng khi nhìn nhận cái chết như là sự kết thúc của mọi thứ. Thái độ của người Ki-tô giáo hoàn toàn trái ngược (xem 1 Cô-rinh-tô 15,55-57; Phi-líp-phê 1,21-23).

Vì chúng ta tin rằng Chúa Giê-su đã chết và sống lại, nên cũng vậy, qua Chúa Giê-su, Đức Chúa Trời sẽ đem những người đã chết đến với Ngài. [tức là những người đã chết với tư cách là Ki-tô hữu].

Sự phục sinh của Chúa Giê-su là điều hoàn toàn thiết yếu cho niềm tin Ki tô về một cuộc sống tương lai. Như Phao-lô đã viết cho các tín hữu Cô-rinh-tô:

…nếu Đấng Ki tô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi là vô ích và đức tin của anh em cũng vô ích…Nếu Đấng Ki tô đã không sống lại, thì đức tin của anh em là vô ích, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi mình. Vậy thì những người đã chết trong Đấng Ki tôt cũng đã hư mất. Nếu chúng ta chỉ hy vọng vào Đấng Ki tô cho đời này mà thôi, thì trong mọi người, chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết. Nhưng thật ra, Đấng Ki tôt đã từ cõi chết sống lại, là trái đầu mùa của những người đã chết. (1 Cô-rinh-tô 15,14.17-20)

Phao-lô cũng có thể trích dẫn lời dạy của chính Chúa, cụ thể là, những người còn sống khi Chúa đến sẽ không có lợi thế nào hơn những người đã ngủ, tức là những người đã chết. Người Thê-xa-lô-ni-ca rõ ràng lo ngại rằng những người trong số họ đã qua đời sẽ mất đi vị trí của họ trong các biến cố trọng đại khi Chúa đến, và Phao-lô đảm bảo với họ rằng điều này sẽ không xảy ra. Không có tài liệu tham khảo chính xác nào trong các sách Phúc Âm đã viết về lời phán này của Chúa Giê-su. Có lẽ Phao-lô đang dựa vào những truyền thống mà ông nhận được từ những người khác, nhưng không được đưa vào các bản văn Phúc Âm. Chắc hẳn đã có rất nhiều lời phán như vậy.

Tiếp theo, Phao-lô nói về những tín đồ vẫn còn sống khi Chúa Giê-su tái lâm:

... chúng ta là những người còn sống, những người còn lại cho đến khi Chúa đến...

'Chúng ta' không nhất thiết có nghĩa là Phao-lô nghĩ rằng bản thân ông sẽ còn sống vào lúc đó. Ông thường đồng nhất mình với những người mà ông viết thư cho hoặc nói về. Ở những chỗ khác, ông nói rằng Đức Chúa Trời sẽ khiến "chúng ta" sống lại vào lúc đó (1 Cô-rinh-tô 6,14; 2 Cô-rinh-tô 4,14). Nếu ông tự nhận mình là một trong số những người sẽ có mặt tại Parousia, thì đó là do hy vọng hoặc mong muốn hơn là do niềm tin.

Sau đó, Sứ đồ đã đưa ra một hình ảnh về Parousia bằng cách sử dụng hình ảnh khải huyền truyền thống cho sự can thiệp của thần thánh. Không nên hiểu đó là một mô tả theo nghĩa đen về một trải nghiệm hoàn toàn vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta.

Vì chính Chúa, với tiếng kêu truyền lệnh, với tiếng gọi của tổng lãnh thiên thần và với tiếng kèn của Chúa, sẽ từ trời ngự xuống…

Tổng lãnh thiên thần duy nhất được nêu tên trong Kinh thánh là Michael (Giu-đa 9; Đa-ni-ên 10,13). Trong Lu-ca, Gabriel chỉ được gọi là một thiên thần, và tương tự như vậy, Raphael trong Sách Tô-bi-a cũng được gọi như vậy. Truyền thống sau này gọi tất cả họ là 'tổng lãnh thiên thần'. 'Tiếng kèn', cùng với tiếng nói và mây, là những dấu hiệu truyền thống đi kèm với một sự hiển linh, một sự hiển linh, chẳng hạn như sự hiển linh trên Núi Sinai. Sau đó, chúng được sử dụng như những yếu tố thông thường trong văn học khải huyền, chẳng hạn như trong lời mô tả của Mát-thêu về sự xuất hiện của Con Người vào thời kỳ cuối cùng (Mát-thêu 24,29).

Sau đó, trong một lời khẳng định đầy an ủi, Phao-lô khẳng định rằng:

... những người chết trong Đấng Ki-tôt sẽ sống lại trước. Sau đó, chúng ta là những người còn sống, những người còn lại, sẽ được cất lên giữa đám mây cùng với họ để gặp Chúa trên không trung...

Đây là nơi duy nhất trong Tân Ước đề cập rõ ràng đến 'sự cất lên' - được cất lên hoặc được đưa lên với Đức Chúa Trời. Mặc dù một số người cho rằng những trải nghiệm như vậy sẽ là bí mật, nhưng dường như Phao-lô đang mô tả một điều gì đó công khai và rõ ràng, với những tiếng nói lớn và tiếng kèn vang rền.

Trái ngược với nỗi sợ hãi của họ, Phao-lô nói rằng:

... chúng ta sẽ ở cùng Chúa mãi mãi.

Trong tất cả các chi tiết được nêu ra ở đây: rằng người chết sẽ đáp lại lời kêu gọi bằng cách sống lại, rằng họ và người sống sẽ được đưa đến gặp Chúa, và rằng họ sẽ cùng Ngài đến cuộc phán xét, khởi đầu cho vương quốc vĩnh cửu, thì điều thiết yếu là sự cuối cùng—sự sống vĩnh cửu với Chúa Kitô. Đó là ‘sự cứu rỗi’, ‘vinh quang’, ‘Vương quốc’ mà Chúa Giêsu chia sẻ giữa những môn đồ được Ngài chọn.

Và, Phao-lô kết luận:

Vậy hãy dùng những lời này mà khích lệ nhau.

Mục đích chính của toàn bộ đoạn văn không phải là đưa ra niên đại của các sự kiện tương lai, mặc dù điều đó có liên quan, nhưng trên hết là thúc giục cộng đồng Thê-xa-lô-ni-ca khích lệ lẫn nhau.

Như đã đề cập, không cần thiết phải hiểu kịch bản được mô tả ở đây theo nghĩa đen; thực tế, làm như vậy là hoàn toàn sai. Nó bao gồm ngôn ngữ khải huyền và Kinh Thánh truyền thống để mô tả điều không thể diễn tả—cuộc sống tương lai của chúng ta với Chúa sau khi chết.

Chẳng bao lâu sau trong đời sống của Hội Thánh, người ta bắt đầu ít nghĩ đến vấn đề này hơn. Chúng ta cần nhớ rằng Thư này là một tác phẩm của Hội Thánh thời kỳ đầu. Khi chúng ta đọc đến Phúc Âm, nỗi lo lắng này đã qua đi và giờ đây mối bận tâm là làm thế nào để sống trong một thời kỳ bất định, có lẽ kéo dài hoặc vô tận.

Nhưng những lời cảnh báo chúng ta đã thấy trong Phúc Âm Mát-thêu tuần trước vẫn còn nguyên giá trị. Vấn đề quan trọng không phải là khi nào hay bằng cách nào Chúa sẽ đến lần cuối, mà là khi nào và bằng cách nào chúng ta sẽ rời khỏi thế gian này. Liệu tôi có sẵn sàng không? Tôi đã sẵn sàng chưa?

 




Chú giải về Luca 4,16-30

Hôm nay chúng ta bắt đầu bài đọc từ Phúc Âm Luca, bài đọc này sẽ đưa chúng ta đến cuối năm Phụng vụ. Chúng ta đã tìm hiểu Phúc Âm Mát-thêu và Mác-cô, và Phúc Âm Gioan đã được phổ biến trong nhiều thời điểm khác nhau trong năm, đặc biệt là trong các mùa Vọng, Giáng Sinh, Mùa Chay và Phục Sinh.

Phúc Âm Luca là một sách bổ sung cho sách Công Vụ Tông Đồ, và ngôn ngữ cũng như cấu trúc của hai sách này cho thấy cả hai đều được viết bởi cùng một người. Chúng được viết cho cùng một cá nhân, Thê-ô-phi-lô, và sách Công Vụ Tông Đồ ám chỉ Phúc Âm Luca. Phúc Âm Luca và Công Vụ Tông Đồ có thể được xem là tập 1 và 2 của cùng một sách.

Lu-ca trình bày các công trình và giáo huấn của Chúa Giê-su, đặc biệt quan trọng để hiểu con đường cứu rỗi. Nội dung của sách bao quát từ khi Chúa Giê-su giáng sinh cho đến khi Người thăng thiên, và sách này hấp dẫn cả người Do Thái lẫn người ngoại.

Hôm nay, chúng ta tiếp tục Phúc Âm Luca vào thời điểm khởi đầu cuộc đời công khai của Chúa Giê-su (chương 4). Sau khi chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả:

Chúa Giêsu, trong quyền năng của Thánh Linh, trở về Galilê…  (Lu-ca 4:14)

Như chúng ta đã biết, Galilê là tỉnh phía bắc của Palestine và cũng là quê hương của Ngài. Người ta đã bàn tán về Ngài khắp nơi.

Giờ đây, khi bài đọc mở đầu, chúng ta thấy Ngài ở Nazareth, một thị trấn nhỏ ở Galilê, nơi Ngài lớn lên. Từ những câu Kinh Thánh ngay trước đó, có vẻ như Chúa Giêsu không thực sự bắt đầu chức vụ của mình tại Nazareth. Sự kiện được mô tả ở đây có thể không diễn ra cho đến một năm sau đó. Một gợi ý (Bản dịch Kinh Thánh NIV) là tất cả những gì được mô tả trong Phúc Âm Gioan từ 1,19 đến 4,42 đã diễn ra giữa cơn cám dỗ trong sa mạc và việc di chuyển về phía bắc đến Galilê (xem Lu-ca 4,13-14).

Nhưng Lu-ca đã sắp xếp cấu trúc Phúc Âm của mình theo cách Chúa Giêsu sẽ bắt đầu cuộc đời công khai của mình tại Nazareth, và sẽ dần dần tiến về phía nam hướng đến mục tiêu của mình, Giê-ru-sa-lem, mà không quay lại. Trong các sách Phúc Âm Nhất Lãm khác, Chúa Giê-su di chuyển khắp Galilê, và Gioan cho rằng Ngài đã đến Giê-ru-sa-lem nhiều lần trong đời sống công khai của mình.

Bản Kinh Thánh Giê-ru-sa-lem cho rằng đoạn Kinh Thánh hôm nay của chúng ta thực sự kết hợp ba phần riêng biệt:

1. câu 16-22 Chúa Giê-su được tôn vinh: xảy ra vào thời điểm được chỉ ra bởi Mát-thêu 4,13;

2. câu 23-24 Chúa Giê-su làm kinh ngạc những người nghe Ngài: cuộc viếng thăm mà Mát-thêu và Mác-cô nói đến;

3. câu 25-30 mạng sống của Chúa Giê-su bị đe dọa: không được Mát-thêu hay Mác-cô đề cập đến và được đặt vào cuối chức vụ tại Ga-li-lê.

Theo cách này, Lu-ca trình bày một bức tranh mở đầu, vừa là bản tóm tắt vừa là biểu tượng cho lời đề nghị vĩ đại của Chúa Giê-su, vừa là sự từ chối khinh miệt của chính dân Ngài.

Khi bài đọc bắt đầu, chúng ta thấy Chúa Giê-su trong hội đường của thị trấn. Hôm đó là ngày Sa-bát. Ngài đứng dậy đọc Kinh Thánh và bình luận về nó. Người quản lý hội đường có thể cho phép bất kỳ người Do Thái trưởng thành nào đọc bài học Kinh Thánh. Đoạn Kinh Thánh mà Ngài đọc đầy ý nghĩa. Nó bắt nguồn từ tiên tri Isaia, và lời Chúa Giêsu đọc lên tương đương với một bản tuyên ngôn, hay điều mà ngày nay chúng ta có thể gọi là một “tuyên ngôn sứ mệnh”. “Sách” thời đó được lưu giữ dưới dạng cuộn giấy, và Kinh Thánh được cất giữ ở một nơi đặc biệt trong hội đường Do Thái và được một người hầu đưa cho người đọc. Chúa Giêsu có thể đã tự mình chọn đoạn văn này hoặc nó có thể được chỉ định cho ngày hôm đó.

Nhưng nó không chỉ là một tuyên ngôn sứ mệnh. Khi Ngài đọc, rõ ràng là toàn bộ tuyên ngôn nói về chính Chúa Giêsu:

Thánh Linh Chúa ngự trên tôi…

Điều này đã được xác nhận trong lễ rửa tội của Ngài tại sông Jordan khi “Chúa Thánh Linh ngự xuống trên Ngài dưới hình dạng chim bồ câu” và có tiếng phán rằng:

Con là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Con. (Lu-ca 3:22)

Tiếp theo, Chúa Giêsu, vẫn đọc từ Isaia, nói:

…vì Ngài đã xức dầu cho tôi…

Khi nói điều này, Ngài đang tuyên bố một cách rõ ràng rằng Ngài chính là Đấng Mê-si-a hay Đấng Ki-tô, vị Vua giải phóng của Israel được mong đợi từ lâu. Từ “Messiah”, dịch sang tiếng Hy Lạp là Christos, có nghĩa là người được xức dầu (chúng ta gọi dầu trong phép rửa tội và thêm sức là “chrism”). Và một người được phong làm vua bằng cách đổ dầu lên đầu (hãy nhớ lại cách Đa-vít được xức dầu làm vua). Dĩ nhiên, Chúa Giê-su không được xức dầu theo nghĩa đen, mà được “xức dầu” theo nghĩa bóng bởi sự giáng lâm của Đức Thánh Linh trên Ngài trong phép rửa tội. “Xức dầu” tương đương với “lễ đăng quang”, được tượng trưng bằng việc đội vương miện lên đầu vị vua mới.

Rồi đến sứ mệnh của vị Vua này:

-mang tin mừng cho người nghèo,

-công bố sự giải thoát cho những người bị giam cầm,

-người mù được sáng mắt,

-giải thoát những người bị áp bức,

-công bố năm hồng ân của Chúa.

Không có gì ở đây là khôi phục lại vinh quang của Israel, không có gì về việc chinh phục kẻ thù và tàn phá đất đai của họ. Không, đó là việc để người nghèo trên thế giới này được nghe Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa dành cho họ. Đó là về sự chữa lành và hòa giải. Đó là về việc giải phóng những người bị trói buộc bởi bất kỳ hình thức nô lệ nào. Đó là về việc giúp mọi người thấy rõ ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Đó là về việc khôi phục sự trọn vẹn cho cuộc sống của con người và cho xã hội. Đó là về việc khai mạc Vương quốc của Vua.

Tóm lại, đó là toàn bộ bức tranh về Chúa Giêsu sẽ được mở ra trong các trang sách Luca, một Phúc Âm tập trung vào người nghèo và những người dễ bị tổn thương, một Phúc Âm của sự dịu dàng và lòng trắc ẩn, một Phúc Âm của Thánh Linh và niềm vui, một Phúc Âm của cầu nguyện và chữa lành. Đó là việc công bố “năm hồng ân của Chúa”. Điều này ám chỉ thời đại Đấng Messia, khi ơn cứu rỗi sẽ được công bố. Trong bản gốc, I-sai-a ám chỉ đến Năm Thánh, khi cứ mỗi 50 năm, nô lệ được giải phóng, nợ nần được xóa bỏ và đất đai của tổ tiên được trả lại cho gia đình nguyên thủy. I-sai-a chủ yếu nghĩ đến sự giải phóng khỏi ách nô lệ ở Babylon, nhưng Chúa Giê-su đang nói về sự giải phóng trên mọi phương diện của đời sống con người.

Khi đọc xong, Chúa Giê-su đặt cuộn sách xuống và nói:

Hôm nay, lời Kinh Thánh này đã được ứng nghiệm trong tai các ngươi.

Dân chúng trong thành, những người tưởng mình biết rõ Ngài, đã vô cùng kinh ngạc trước sự khôn ngoan mà Ngài phán dạy. Phản ứng tích cực này đối với Chúa Giê-su là một chủ đề được yêu thích trong sách Lu-ca.

Họ hỏi một cách hùng biện:

Đây chẳng phải là con trai của Giu-se sao?

Nhưng họ đã nhầm. Ngài không phải là con trai của Giu-se; Ngài là con trai của Ma-ri-a và của Chúa Cha, Ngôi Lời thiêng liêng chia sẻ “xác thịt” của chúng ta (như đã đề cập ở trên, sự kiện này có thể đã xảy ra trong lần viếng thăm thứ hai).

Và điều này dẫn chúng ta đến phần thứ ba của bài đọc, một diễn biến bất ngờ và phù hợp hơn với giai đoạn sau của cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Những người nghe Chúa Giêsu ngạc nhiên trước cách Người nói, nhưng họ không hề thay đổi. Suy cho cùng, Người “chỉ” là con trai của Giuse, và một người mà họ biết rõ như vậy lại chẳng có gì để nói với họ. Đồng thời, Chúa Giêsu nói rằng chính họ, những người dân trong thị trấn của Người, hẳn đang tự hỏi tại sao Người không làm những việc ở Nazareth như Người đã làm ở những nơi như Ca-phác na-um

Ca-phác-na-um, rõ ràng là một thị trấn lớn, là nơi Phêrô sống và Chúa Giêsu đã xây dựng nhà của mình, trung tâm nơi Người thực hiện công việc truyền giáo ở Galilê. Một nhà thờ hiện đại hiện đang tọa lạc trên tàn tích của một vương cung thánh đường thế kỷ thứ 5, trên địa điểm được cho là nhà của Phêrô, và gần đó có một giáo đường Do Thái thế kỷ thứ 4.

Lý do khiến người dân thị trấn không chấp nhận Chúa Giêsu là vì họ không thực sự chấp nhận Người như Người vốn có. Người nhắc nhở họ rằng các tiên tri hiếm khi được chấp nhận ở đúng vị trí của họ. Sự quen thuộc làm người ta mù quáng trước thông điệp của họ. Thái độ của họ là: "Tôi biết ông ta là ai và ông ta chẳng có gì để nói với tôi." Sau đó, Chúa Giê-su đưa ra hai ví dụ khá khiêu khích:

• Trong một nạn đói lớn vào thời tiên tri Ê-li-a, Ê-li-a được sai đến không phải để giúp đỡ những người Do Thái đồng hương của mình, mà là một góa phụ nghèo ở Xa-rép-ta, gần Si-đôn, thuộc vùng đất không phải của người Do Thái. Si-đôn là một trong những thành phố cổ nhất của người Phê-ni-xi trên bờ biển Địa Trung Hải và cách Tya khoảng 33 km về phía bắc. (Sau này, Chúa Giê-su đã chữa lành con gái của một phụ nữ ngoại bang tại đây.)

• Vào thời tiên tri Ê-li-sê, có rất nhiều người phong hủi ở Ít-ra-en, nhưng Ê-li-sê được sai đến để chữa lành cho Na-a-man, một vị tướng ngoại bang đến từ Syria.

Việc Thiên Chúa tiếp cận dân ngoại thông qua các tiên tri của Ngài đã tạo tiền đề cho dân ngoại tiếp nhận thông điệp của Tiên tri Giê-su, vốn là chủ đề chính trong các tác phẩm của Lu-ca. Những lời nhận xét này đã khiến dân thành Nazareth tức giận đến nỗi họ lôi Chúa Giêsu lên đỉnh đồi với ý định xô ngã Người, nhưng:

... Người đã đi qua giữa họ và tiếp tục cuộc hành trình.

Không rõ Người đã làm điều này một cách kỳ diệu hay từ sức mạnh tuyệt đối của tính cách Người. Dù sao đi nữa, thời điểm của Người vẫn chưa đến.

Việc những tiếng nói tiên tri bị chính những người của mình chối bỏ là một hiện tượng quá phổ biến trong thời đại chúng ta. Và đó là điều Chúa Giêsu đã báo trước sẽ xảy ra với những người theo Người, chỉ vì họ là môn đồ của Người và tuyên xưng tầm nhìn của Người về cuộc sống. Trong lúc này, chúng ta hãy biến lời tuyên bố sứ mệnh của Chúa Giêsu thành của chính mình. Đó chính là ý nghĩa của việc trở thành một Ki-tô hữu.

 

https://livingspace.sacredspace.ie/o1222g/

 


Suy niệm: Bí Quyết Nên Thánh

Sau một thời gian rao giảng Tin Mừng ở vùng gần Giêrusalem bên bờ sông Giócđan nơi Gioan Tẩy Giả làm phép rửa, Chúa Giêsu trở về thăm làng cũ. Ở đó dân chúng đã nghe nói về nội dung lời rao giảng của Ngài, ở đó người ta cũng nghe nói tới một số phép lạ Ngài đã làm. Tin đồn này làm cho những người đồng hương bỡ ngỡ: "Ông ta đã học được những điều đó ở đâu? Ông không phải là con ông Giuse đó sao?" Ðó là một thắc mắc rất chính đáng.

Người dân Nazareth, nhất là những người đã từng quen biết và lớn lên với Chúa Giêsu hẳn có đủ lý do để tỏ ra ngỡ ngàng khi nghe kể về thành tích của Ngài, bởi vì trong suốt ba mươi năm sống trong ngôi làng nhỏ bé ấy, Ngài đã chẳng tỏ ra bất cứ một dấu thánh thiện siêu phàm nào. Chúng ta có thể tự hỏi làm sao Chúa Giêsu đã có thể sống trong ngôi làng bé nhỏ ấy trong suốt ba mươi năm mà không để lộ bản tính của Ngài? Làm sao Con Thiên Chúa lại có thể sống trong ngôi làng hẻo lánh nghèo nàn ấy trong bao nhiêu năm mà dân chúng không hề thắc mắc? Câu trả lời chỉ có thể là Chúa Giêsu chỉ có một ý niệm về thánh thiện hoàn toàn khác với những người Do Thái đồng hương và cả chúng ta nữa. Thời Ngài, thánh thiện có nghĩa là tuân giữ chi ly mọi Lề Luật, trung thành với truyền thống và phong tục vốn được xem là biểu thị của đời sống đạo đức, nhưng Chúa Giêsu đã không nghĩ như thế. Chính vì vậy mà khi Ngài bắt đầu rao giảng, chữa bệnh và làm phép lạ, tất cả những ai đã từng biết Ngài trong ngôi làng nhỏ bé ấy đều thắc mắc và bỡ ngỡ. Quả thật, tất cả những ai đã từng quen biết Ngài chỉ xem Ngài như một người như họ mà thôi, Ngài không để lộ bất cứ một dấu thánh thiện hay siêu phàm nào.

Ðiều đáng làm cho chúng ta suy nghĩ là không nơi nào trong các sách Tin Mừng viết rằng Chúa Giêsu là một con người đạo đức, chúng ta chỉ đọc được rằng Ngài đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng và làm việc thiện mà thôi. Như vậy, chúng ta có thể kết luận rằng Chúa Giêsu có một quan niệm về sự thánh thiện hoàn toàn khác với những người Do Thái đương thời. Ðối với Ngài, thánh thiện là sống hoàn toàn như một con người, là làm người như Thiên Chúa đã dựng nên, đó là câu giải đáp thắc mắc tại sao những người Do Thái đồng hương của Chúa Giêsu thắc mắc và bỡ ngỡ khi Ngài bắt đầu rao giảng và chữa bệnh. Ðối với lối suy tư của họ, Ngài xem ra quá trần tục, quá là người cho nên không thể làm được những chuyện cả thể như người ta đã đồn thổi. Tuy nhiên đây chính là một mạc khải sâu xa: Thiên Chúa nhập thể làm người để sống như một con người như mọi người, hầu dạy chúng ta biết sống cho ra người. Chính cuộc sống đơn giản và bình thường ấy lại chứa đựng một sự thánh thiện tuyệt vời.

Trong các thứ học thì hẳn học làm người là điều khó nhất, người ta có thể đỗ đạt thành tài trong cuộc sống, người ta có thể nắm vững được lãnh vực chuyên môn của mình, nhưng học làm người là một thứ trường học mà con người sẽ chẳng bao giờ tự cho là mình đã tốt nghiệp và thôi học. Sống như một con người, như Chúa Giêsu đã sống ba mươi năm âm thầm tại Nazareth, âm thầm đến độ những người quen biết không thấy có gì đáng chú ý trong cuộc sống ấy. Sống như một con người chính là sống một cách sung mãn từng giây phút của cuộc sống. Sống một cách phi thường những việc tầm thường nhất trong đời thường, sống bằng một tình yêu cao cả những việc làm nhỏ bé nhất hàng ngày, đó chính là bí quyết để nên thánh vậy.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét