Trang

Thứ Sáu, 22 tháng 8, 2025

23.08.2025: THỨ BẢY TUẦN XX THƯỜNG NIÊN

 23/08/2025

 Thứ Bảy tuần 20 thường niên

 


Bài Ðọc I: R 2, 1-3. 8-11; 4, 13-17

Chúa không nỡ để cho bà thiếu kẻ nối dòng. Ðó là thân phụ của Isai, cha của Ðavít”.

Trích sách Rút

Bấy giờ ông Êlimêlech, chồng bà Nôêmi có một người họ hàng, là người quyền thế và giàu có, tên là Booz. Bà Ruth, người Môab, thưa với mẹ chồng rằng: “Nếu mẹ cho phép, con xin ra đồng mót lúa mà các thợ gặt bỏ sót, nơi nào mà chủ ruộng nhân từ vui lòng cho con mót”. Bà mẹ trả lời rằng: “Hỡi con, con cứ đi”. Nàng liền đi mót lúa đàng sau các thợ gặt. Bất ngờ chủ ruộng ấy tên là Booz, người có họ với Êlimêlech.

Ông Booz bảo bà Ruth rằng: “Hỡi con, hãy nghe đây, con đừng đi mót lúa ở ruộng khác, đừng rời khỏi nơi này: nhưng hãy đi theo các tớ gái của ta, chúng nó gặt ở đâu, con cứ đi theo đó; vì ta bảo các đầy tớ ta đừng ai làm phiền con. Cả khi con khát nước, cũng cứ đến các vò nước và uống nước mà các đầy tớ ta uống”. Bà sấp mình xuống đất, lạy ông ấy mà nói rằng: “Bởi đâu tôi được ơn trước mặt ông, và ông đoái thương tôi là người nữ ngoại bang?” Ông trả lời rằng: “Ta đã nghe đồn mọi sự con đã làm đối với mẹ chồng, sau khi chồng con qua đời, con đã lìa bỏ cha mẹ quê hương và đến cùng dân tộc mà trước đây con không hề biết”.

Vậy ông Booz cưới bà Ruth làm vợ. Ông ăn ở với bà, và Chúa ban cho bà có thai, bà sinh được một con trai. Các phụ nữ nói cùng bà Nôêmi rằng: “Chúc tụng Chúa là Ðấng không nỡ để cho gia đình bà thiếu kẻ nối dòng! Và nguyện danh Chúa được ca tụng khắp Israel! Cầu chúc bà có người an ủi tâm hồn và phụng dưỡng tuổi già; vì người đó sẽ sinh ra do người con dâu yêu mến bà, và người con dâu đó đáng quý hơn bảy người con trai”. Bà Nôêmi ẵm con trẻ vào lòng, và nuôi nấng nó như người vú. Các phụ nữ láng giềng đến mừng bà mà rằng: “Bà Nôêmi đã được một cháu trai”. Họ đặt tên cho con trẻ là Obed: đó là thân phụ của Isai cha của Ðavít.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 127, 1-2. 3. 4-5

Ðáp: Ðó là ơn phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Chúa

Xướng: Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may.

Xướng: Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn, con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn. 

Xướng: Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Ðức Thiên Chúa. Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn.

 

Alleluia: x. Cv 16, 14b

Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời của Con Chúa. – Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 23, 1-12

“Họ nói mà không làm”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: “Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm. Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta: còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là “Thầy”. Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là “Thầy”, vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau. Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là “cha”, vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là “người chỉ đạo”: vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Ðức Kitô. Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi. Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên”.

Ðó là lời Chúa.

 

 


Chú Giải về Rút 2,1-3.8-11;4,13-17

Bài đọc thứ hai và cũng là bài đọc cuối cùng của chúng ta từ Rút mô tả kết quả của lòng tốt và lòng trung thành của người phụ nữ góa chồng không con này đối với Naomi, mẹ chồng góa của bà. Có sự kết hợp giữa sự trùng hợp ngẫu nhiên thuần túy và sự quan phòng tuyệt đối của Chúa trong diễn biến của câu chuyện. Cuối cùng, Chúa đứng sau mọi điều xảy đến với chúng ta.

Đầu tiên, chúng ta được biết rằng ở Bê-lem, Naomi có một người bà con tên là Bô-át, có họ hàng với người chồng quá cố của bà, Ê-li-me-léc. Và ông ấy rất giàu có. "Bô-át" có lẽ có nghĩa là "trong ông có sức mạnh". Bô-át được nhắc đến trong cả hai gia phả của Chúa Giêsu (Mt 1,5; Lc 3,32).

Một ngày nọ, Rút xin phép Naomi đi mót lúa theo dấu chân của một người đàn ông và người này đồng ý cho cô làm điều đó. Là một người ngoại quốc và là một phụ nữ trẻ tự lập, cô có thể khá dễ bị tổn thương trên cánh đồng mùa gặt. Tuy nhiên, nàng sẵn sàng chấp nhận rủi ro để chu cấp cho mẹ chồng, người không có nguồn thu nhập nào khác. Sau đó, Naomi đã đáp lại ân huệ này bằng cách khéo léo đưa Rút vào con đường tìm kiếm người chồng tương lai của mình (xem Rút 3,1-5). Naomi đã ban phước cho yêu cầu của Rút.

Theo Luật, người nghèo có quyền này, nhưng việc thực hiện quyền này phụ thuộc vào thiện chí của chủ sở hữu tài sản. Luật pháp của Mô-sê đã hướng dẫn các chủ đất để lại những gì người gặt lúa bỏ sót để người nghèo, người ngoại quốc, góa phụ và trẻ mồ côi có thể mót lúa để đáp ứng nhu cầu của họ. Mót lúa là một công việc thường do phụ nữ đảm nhiệm. Đó cũng là cách để những người nghèo không có đất nhặt bất kỳ hạt lúa nào còn sót lại (hãy nhớ rằng người Pha-ri-sêu đã cáo buộc các môn đồ của Chúa Giê-su vì họ đã hái bông lúa mì… không phải vì họ ăn cắp, mà vì họ làm việc đó vào ngày Sa-bát; xem Mt 12,1-2).

Vì vậy, Rút đã đi mót lúa trên cánh đồng phía sau những người gặt lúa. Thật tình cờ, nàng được dẫn đến một mảnh đất thuộc về một người đàn ông tên là Bô-át, cùng dòng họ với E-li-me-léc, chồng quá cố của Naomi. Trông có vẻ ngẫu nhiên, nhưng sự quan phòng của Chúa đã tác động.

Đến đây, việc bổ sung một số câu Kinh Thánh bị lược bỏ sẽ giúp hiểu rõ hơn về đoạn Kinh Thánh hôm nay. Dường như tình cờ, chính Bô-át đã đến và chào hỏi những người gặt lúa. Và, nhìn thấy Rút, ông hỏi người hầu xem người phụ nữ này thuộc về ai. Ở phương Đông, mỗi người phụ nữ đều "thuộc về" một ai đó, cha, chồng, anh em, chủ nhân. Người hầu cho biết nàng là người phụ nữ Mô-áp đã trở về từ Mô-áp cùng Naomi. Nàng đã xin phép được mót những gì những người gặt lúa bỏ lại, và người hầu nói rằng nàng đã làm việc không ngừng nghỉ từ sáng sớm cho đến tận bây giờ.

Trong bài đọc hôm nay, Bô-át nói chuyện với Rút và bảo nàng tiếp tục mót lúa trong ruộng của ông và không được đi đâu khác. Nàng phải ở gần những người phụ nữ khác của Bô-át và làm việc sát phía sau họ. Người của Bô-át bị cấm quấy rối nàng dưới bất kỳ hình thức nào. Theo thông lệ, những người đàn ông sẽ cắt lúa mì và các đầy tớ gái sẽ đi theo sau để bó lúa thành từng bó. Sau đó, Rút có thể mót những gì họ còn sót lại. Hơn nữa, Bô-át nói với nàng rằng, nếu nàng khát, nàng có thể lấy nước từ những chiếc bình mà các đầy tớ đã chuẩn bị. Rút bèn sấp mình xuống trước mặt Bô-át và nói:

Vì sao con được ơn trước mặt ông, mà ông lại đoái hoài đến con, trong khi con là một người ngoại quốc?

Cô ngạc nhiên trước lòng tốt của ông. Trong mắt nhiều người, có lẽ là hầu hết, Rút là người thấp kém nhất trong những người thấp kém—một người vô danh, một người ngoại quốc và một góa phụ. Nhưng Bô-át nói với cô rằng ông biết câu chuyện của cô, cô đã đối xử tốt với mẹ chồng như thế nào kể từ khi chồng cô qua đời, và cô đã rời bỏ cha mẹ và quê hương để đến sống giữa một dân tộc mà trước đây cô không biết gì. Sự tận tâm của Rút trong việc chăm sóc mẹ chồng cô đơn vẫn là trung tâm của sự chú ý trong suốt cuốn sách.

Giờ đây, chúng ta chuyển sang phần cuối câu chuyện của Rút và cũng là phần cuối của cuốn sách. Phần kết của câu chuyện cân bằng với phần mở đầu (Rút 1,1-5).

1. Trong tiếng Do-thái, cả hai đều có cùng số lượng từ;

2. cả hai đều cô đọng nhiều thứ vào một không gian ngắn;

3. cả hai đều tập trung vào Naomi;

4. phần mở đầu nhấn mạnh sự trống rỗng của Naomi, và phần kết thúc miêu tả sự trọn vẹn của bà.

Giờ đây, Bô-át đã quyết định cưới Rút làm vợ. Khi làm như vậy, ông cũng đang tôn vinh ký ức về người bà con của mình, Ê-li-me-léc. Bằng cách kết hôn với góa phụ của người bà con, ông đảm bảo rằng dòng dõi của Ê-li-me-léc sẽ được duy trì qua ông. Và, khi Bô-át và Rút đến với nhau thành vợ chồng, Đức Chúa đã góp phần vào việc họ có một con trai.

Và những người phụ nữ nói với Naomi:

Chúc tụng Chúa, Đấng đã không để cho bà hôm nay không có người thân thích, và nguyện danh người được vang danh khắp Ít-ra-en! Người ấy sẽ là người phục hồi sức sống cho bà và là người nuôi dưỡng bà lúc tuổi già, vì con dâu bà, người yêu thương bà, người có giá trị hơn bảy người con trai đối với bà, đã sinh ra người ấy.

Con trai mới sinh được xem như một sự cứu chuộc cho Naomi, người giờ đây biết rằng bà sẽ được chăm sóc khi về già. Ngay cả trong thời đại của chúng ta, đây có thể là một mối quan tâm lớn đối với những bậc cha mẹ không có phúc lợi xã hội để chăm sóc họ lúc tuổi già. Có thể cảm thấy rằng chỉ có con trai mới làm được điều đó; con gái sẽ bị mất mát khi kết hôn với một gia đình khác. Vì số bảy được coi là con số trọn vẹn, nên việc có bảy người con trai là biểu tượng của mọi phước lành gia đình ở Ít-ra-en (‘…cho ngươi hơn bảy người con trai…’). Lòng tận tụy quên mình của Rút dành cho Naomi nhận được lời khen ngợi cao nhất trong câu nói này. Không thể có lời khen ngợi nào cao hơn.

Sau đó, Naomi bế đứa trẻ, ôm vào lòng và chính bà là người chăm sóc nó. Hành động này được hiểu là nghi lễ nhận con nuôi, cũng được các dân tộc khác ở Cận Đông cổ đại sử dụng. Sự cằn cỗi và trống rỗng của Naomi đã chấm dứt. Đứa con trai gần như là của bà cũng như của Rút.

Trên thực tế, vì Rút là người ngoài cuộc, đứa trẻ được nói đến là cháu trai của Naomi. Naomi là mẹ hợp pháp của đứa trẻ cũng như Ê-li-me-léc là cha hợp pháp của nó. Thông qua Rút, Naomi già nua, người không còn khả năng sinh con, đã có được người thừa kế thay cho con trai mình, Mác-lôn. Và chính những người phụ nữ trong vùng đã đặt tên cho đứa trẻ là Ô-vét. ‘Ô-vét’ có nghĩa là ‘người hầu’, tức là người hầu của Đức Chúa. Ông sẽ là cha của Gie-sê, người sau này sẽ là cha của Đa-vít.

Vì lòng hiếu thảo của Rút và Bô-át, nên Na-ô-mi trở thành tổ mẫu của Vua Đa-vít. Nhưng còn một điểm đáng chú ý khác: chính Rút, một người ngoại quốc, cũng là tổ mẫu của Đa-vít và qua ông, là tổ mẫu của Chúa Kitô. Phúc Âm sẽ lưu ý đến điều này. Thực tế, trong gia phả của Chúa Giê-su, Mát-thêu sẽ đề cập đến Bô-át và Rút là tổ mẫu chứ không phải Na-ô-mi.

Nhờ dòng máu "ngoại kiều" của Rút, Nhà Đa-vít được liên kết với các dân tộc bên ngoài Ít-ra-en. Chúa Giê-su sẽ là Vua của Ít-ra-en mới, một Ít-ra-en sẽ bao gồm mọi dân tộc. Phúc Âm của Ngài sẽ dành cho "muôn dân".

 


Chú giải về Mát-thêu 23,1-12

Hôm nay, chúng ta bắt đầu chương 23 của sách Mát-thêu, bao gồm lời cáo buộc nghiêm khắc của Chúa Giê-su đối với người Pha-ri-sêu và các kinh sư. Điều này không nên được hiểu là sự lên án chung chung đối với tất cả mọi người Pha-ri-sêu và kinh sư, bởi vì chúng ta biết rằng nhiều người trong số họ là những người tốt. Một ví dụ nổi bật là Ga-ma-li-ên, người xuất hiện trong sách Công vụ Tông đồ như một người công chính và chính trực. Ni-cô-đê-mô, người đã đến gặp Chúa Giê-su vào ban đêm và tham gia vào việc chôn cất Chúa Giê-su, cũng là một người Pha-ri-sêu.

Đoạn văn này chắc chắn phản ánh một số xung đột nảy sinh giữa những Ki-tô hữu đầu tiên (đặc biệt là những người Do Thái) và những người Do Thái chống đối Đường lối Ki-tô, những người coi đó là một tà giáo và thường xuyên tấn công và quấy rối Ki-tô hữu bằng lời nói và thậm chí là hành động.

Điều Chúa Giê-su đang tấn công không phải là một nhóm người cụ thể mà là một số thái độ tinh thần nhất định. Và những thái độ này cũng dễ dàng được tìm thấy trong cộng đồng Ki-tô hữu thời đó và mọi thời kỳ kể từ đó. Vậy nên, chúng ta nên lắng nghe lời Chúa Giêsu, không phải nhắm vào những người Pharisêu và kinh sư trừu tượng, mà là nhắm vào chính chúng ta. Chính vì lợi ích và sự suy ngẫm của chúng ta mà những lời này được đưa vào Phúc Âm. Phúc Âm được viết cho chúng ta và cho chúng ta; nó không phải là một bài chỉ trích lịch sử chống lại một số người trong quá khứ.

Trước hết, Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng, với tư cách là những người có thẩm quyền và chuyên gia về vấn đề này, các kinh sư và người Pharisêu cần được lắng nghe với sự tôn trọng và cần được vâng lời khi họ giảng dạy. Nhưng Chúa Giêsu nói rằng hành vi của họ - gương mẫu của họ - không nên được noi theo:

Họ bó những gánh nặng khó mang, đặt lên vai người khác, nhưng chính họ lại không muốn động một ngón tay vào.

Họ không ngần ngại đặt ra những luật lệ khó thực hiện đối với người khác nhưng họ hoàn toàn không làm gì để giúp họ thực hiện. Giáo Hội không phải lúc nào cũng không mắc lỗi trong những việc như thế này, ngay cả trong thời đại của chúng ta. Ngay cả các nhà lập pháp dân sự hay những người có thẩm quyền khác, bao gồm cả cha mẹ của các gia đình hay giáo viên trong trường học, cũng không phải là không có lỗi. Đây là tiêu chuẩn kép, khi con người đặt ra những quy tắc mà chính họ không tuân thủ: “Hãy làm như Ta nói, đừng làm như Ta làm” hoặc “Hãy làm vì Ta bảo các ngươi làm”.

Thứ hai, người Pha-ri-sêu bị chỉ trích vì mọi việc họ làm đều nhằm thu hút sự chú ý. Nhưng tất cả chỉ là bề ngoài. Cái mà ngày nay chúng ta gọi là “hình ảnh”. Hộp đựng kinh của họ lớn hơn những hộp khác và tua rua của họ cũng rất lớn. Hộp đựng kinh là một chiếc hộp nhỏ chứa một số lời cốt lõi của Luật pháp. Nó được đeo trên cánh tay hoặc trán, một cách diễn giải theo nghĩa đen của lời khuyên trong Xuất Hành:

[Luật pháp] sẽ là dấu hiệu trên tay ngươi và là lời nhắc nhở trên trán ngươi, để lời dạy của Đức Chúa ở trên môi ngươi, vì Đức Chúa đã dùng bàn tay mạnh mẽ đưa ngươi ra khỏi Ai Cập. (Xuất Hành13,9)

Có bốn tua rua được khâu ở mỗi góc áo choàng của một người.

Thông điệp được đưa ra rất rõ ràng: “Chúng ta tốt hơn; chúng ta thánh thiện hơn.” Nhưng đó là một sự giả dối vì tất cả chỉ là bề ngoài. Tuy nhiên, khi nói đến "hình ảnh", thế giới đương đại của chúng ta chẳng có gì để học hỏi từ quá khứ.

Họ cũng mong đợi sự chú ý đặc biệt dành cho mình: hàng ghế đầu trong giáo đường Do Thái, chỗ ngồi danh dự trong các bữa tiệc, những danh hiệu tôn kính đặc biệt. Đáng buồn thay, chúng ta đã chứng kiến ​​điều này không ít lần trong giới giáo sĩ nhà thờ ngay trong cuộc đời mình. Chúng ta thấy điều đó hàng ngày giữa các chính trị gia, lãnh đạo doanh nghiệp, những người nổi tiếng trên phương tiện truyền thông. Họ không chỉ được ban cho những thứ này, mà còn mong đợi chúng như một quyền lợi. Đó là hội chứng VIP và thường rất đáng thương: máy bay riêng, phòng chờ hạng sang ở sân bay, bàn đặc biệt trong nhà hàng, xe limousine của khách sạn và những thứ xa xỉ khác.

Ngay cả những người bình thường cũng trở thành nô lệ của hình ảnh: nhãn hiệu trên quần áo họ mặc, nơi họ sống, xe họ lái, và tất cả những món đồ trang sức tiêu dùng khác mà họ đeo quanh mình. Chúa Giêsu nói rằng, không điều gì trong số những điều này làm nên sự vĩ đại của một con người.

Người vĩ đại nhất là người biết phục vụ, tức là người dùng tài năng của mình vì lợi ích của người khác, người dành trọn cuộc đời để biến thế giới này thành một nơi tốt đẹp hơn cho người khác sinh sống. Đó là kiểu người mà những thứ hào nhoáng bên ngoài hoàn toàn không liên quan.

 

https://livingspace.sacredspace.ie/o1207g/

 

 


Suy Niệm: Trung Thực Với Lời Nói

Những lời khiển trách của Chúa Giêsu đối với các kinh sư, những nhà thông thái Kinh Thánh biết rõ về Luật Môsê để giảng dạy cho dân chúng được hướng tới hai tật xấu quan trọng là giả hình và khoe khoang. Giả hình vì nếp sống cụ thể của họ không phù hợp với những gì họ giảng dạy cho dân chúng. Họ nói mà không làm, họ giải thích Luật Môsê cách tỉ mỉ nhưng là để cho kẻ khác tuân giữ còn họ thì không thèm động ngón tay vào đó. Thật ra không phải là họ không tuân giữ, vì họ luôn ăn chay, bố thí cho đền thờ, họ cầu nguyện, họ đọc Kinh Thánh. Nhưng họ làm tất cả những điều này để làm cho người ta trông thấy, để được khen thưởng, được danh lợi. Họ làm những điều tốt lành đó là để khoe khoang, là để được người khác nhìn thấy, là để được tranh hơn thiệt, để được chỗ ngồi danh dự, để được gọi là thầy, đó là họ thực hành những hình thức bên ngoài và không có tinh thần tôn thờ và yêu mến Chúa nơi chính họ. Chúa Giêsu trách những kinh sư và biệt phái như thế là để cảnh tỉnh các môn đệ đừng đi vào con đường không tốt.

Việc người thì sáng, việc mình thì quáng. Chúng ta dễ dàng nhìn thấy và phơi bày những tật xấu của anh chị em nhưng lại làm ngơ hoặc che dấu những tật xấu của chính mình. Trước đó, Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh các môn đệ Người như sau: "Nếu sự công chính của các con không hơn sự công chính của các kinh sư và những biệt phái, thì các con sẽ không được vào Nước Trời; các con đừng để ai gọi mình là Thầy, vì chỉ có một Thầy, còn tất cả các con là anh chị em với nhau". Cộng đoàn các môn đệ chỉ có một Chúa Giêsu là Thầy và một Thiên Chúa là Cha. Chúng ta nên lưu ý đoạn Tin Mừng này không có ý chối bỏ quyền hành trong cộng đoàn những đồ đệ, nhưng chỉ chống lại lòng ham quyền, ham danh, lạm dụng địa vị để phục vụ cho cái tôi cao ngạo của mình. Những con người ham quyền ham danh như vậy muốn chiếm chỗ của Thiên Chúa trong tâm hồn anh chị em.

Chúa Giêsu không loại bỏ tác vụ phục vụ cộng đoàn để hướng dẫn cộng đoàn: "Ai nghe các con là nghe Thầy", nhưng Chúa muốn lưu ý rằng những thừa tác viên của Chúa có trách nhiệm đối với cộng đoàn cần sống nêu gương cho anh chị em, thực hành trung thực những gì mình rao giảng.

"Ai làm lớn trong các con phải là kẻ phục vụ cho tất cả". Quyền hành trong cộng đoàn những kẻ tin Chúa là quyền thừa tác nhân danh Chúa và phục vụ anh chị em, giúp anh chị em đến với Chúa chứ không phải là để cho quyền hưởng lợi cá nhân. Tất cả mọi thành phần trong cộng đoàn, những đồ đệ đều phải hướng về cùng một điểm trung tâm duy nhất là Thiên Chúa Cha và sống hiệp nhất, hiệp thông với nhau trong Chúa Kitô.

Lạy Chúa,

Xin giải thoát các con khỏi cám dỗ sống giả hình, khoe khoang. Xin thương củng cố chúng con tất cả trong ơn gọi và sứ mạng riêng biệt của mình nơi cộng đoàn dân Chúa. Xin đổ tràn ơn Chúa Thánh Thần xuống trên các con, giúp các con hiểu biết và yêu mến Chúa hết lòng và dấn thân hết sức mình phục vụ lẫn nhau vì yêu mến Chúa.

 

(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét