27/08/2025
Thứ Tư tuần 21 thường niên
Thánh nữ Mônica.
Lễ nhớ.
Bổn mạng Giới Hiền Mẫu.
* Thánh nữ MONICA sinh năm 331 tại Ta-gát, châu Phi
trong một gia đình theo Kitô giáo. Lúc còn thanh xuân, thánh nữ đã kết hôn với
anh Pa-tri-xi-ô và sinh được những người con, trong đó có thánh Âu-tinh. Khi
Âu-tinh mất đức tin, thánh nữ đã dâng những dòng lệ tựa những lời cầu nguyện âm
thầm lên Thiên Chúa. Khi thấy Âu-tinh trở lại, thánh nữ đã tràn ngập vui mừng.
Người không còn gì để chờ đợi ở trần gian này nữa, Thiên Chúa đã gọi người về ở
Ốt-ti-a, năm 387, khi người đang sửa soạn trở về châu Phi, quê hương của người.
Thánh nữ là tấm gương sáng chói cho những người làm mẹ: nuôi dưỡng lòng tin bằng
lời cầu nguyện và chiếu tỏa ra bên ngoài bằng các nhân đức.
Bài Ðọc I: (Năm
I) 1 Tx 2, 9-13
“Chúng tôi làm việc ngày đêm để rao giảng Tin Mừng giữa anh
em”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu
Thêxalônica.
Anh em thân mến, anh em vẫn còn nhớ đến công lao khó nhọc của
chúng tôi: chúng tôi phải làm việc ngày đêm để khỏi trở nên gánh nặng cho một
ai trong anh em, khi chúng tôi rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa giữa anh em.
Chính anh em là nhân chứng và cả Thiên Chúa cũng làm chứng: chúng tôi ăn ở
thánh thiện, công chính và không đáng trách điều gì đối với anh em là những kẻ
đã tin. Như anh em biết, chúng tôi đối xử với mỗi người trong anh em như cha đối
xử với con cái mình, khi chúng tôi khuyên răn, khích lệ và van nài anh em hãy
ăn ở sao cho xứng đáng với Thiên Chúa, Ðấng đã kêu gọi anh em vào hưởng nước trời
và vinh quang của Người.
Bởi thế, chúng tôi không ngừng cảm tạ Thiên Chúa, vì khi anh
em nhận lãnh lời Thiên Chúa do chúng tôi rao giảng, anh em đã nhận lãnh lời ấy
không phải như lời của người phàm, mà như lời Thiên Chúa, và thực sự là thế, lời
đó hoạt động trong anh em là những kẻ đã tin.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 138, 7-8. 9-10. 11-12ab
Ðáp: Lạy Chúa,
Ngài thăm dò và biết rõ con
Xướng: Con đi đâu
để xa khuất được thần linh của Chúa? Con trốn đâu cho khỏi thiên nhan Ngài? Nếu
con leo được lên trời, thì cũng có Ngài ngự đó; nếu con nằm dưới âm phủ, thì đấy
cũng có mặt Ngài.
Xướng: Nếu con mượn
đôi cánh của hừng đông, và bay đến cư ngụ nơi biên cương biển cả, tại nơi đấy
cũng bàn tay Chúa dẫn dắt con, và tay hữu Ngài nắm giữ con.
Xướng: Nếu con
nói: “Phải chi sự tối tăm che phủ, và sự sáng trở thành đêm bao quanh con”, thì
đối với Ngài sự tối sẽ không có tối, và đêm sẽ sáng sủa như ban ngày.
Alleluia: Pl 2, 15-16
Alleluia, alleluia! – Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống,
anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian. – Alleluia.
Phúc Âm: Mt 23, 27-32
“Các ngươi là con cháu những kẻ đã giết các tiên tri”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Khốn cho các ngươi, hỡi những
luật sĩ và biệt phái giả hình: vì các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài
có vẻ tốt đẹp, nhưng bên trong đầy xương kẻ chết và mọi thứ dơ nhớp. Các ngươi
cũng thế, bên ngoài, các ngươi có vẻ là người công chính, nhưng bên trong, các
ngươi đầy sự giả hình và gian ác. Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt
phái giả hình, các ngươi xây đắp phần mộ các tiên tri, trang hoàng mồ mả những
người công chính, và các ngươi nói rằng: “Nếu chúng tôi sống thời cha ông chúng
tôi, ắt chúng tôi không thông đồng với các ngài trong việc đổ máu các tiên
tri”. Vì thế, các ngươi tự chứng thực các ngươi là con cháu những kẻ đã giết
các tiên tri. Vậy các ngươi cứ đong cho đầy đấu của cha ông các ngươi”.
Ðó là lời Chúa.
Chú giải về 1 Thê-xa-lô-ni-ca 2,9-13
Phao-lô bảo vệ
cách cư xử của mình với người Thê-xa-lô-ni-ca, nơi ông đã bị một nhóm người đối
xử rất tệ. Ông nhắc nhở họ về việc ông và những người truyền giáo khác đã làm
việc ngày đêm để không trở thành gánh nặng cho họ trong khi họ rao giảng phúc
âm giữa vòng họ.
Chúng ta biết rằng,
bất cứ nơi nào có thể, Phao-lô đều tự nuôi sống bản thân và không xấu hổ khi được
biết đến với nghề nghiệp của mình - nghề may lều. Như ông đã nói trong bài đọc
hôm qua, ông không bao giờ khăng khăng về những gì ông tin là quyền của mình với
tư cách là một người truyền giáo. Người Hy Lạp có xu hướng coi thường lao động
chân tay và coi đó chỉ phù hợp với nô lệ, nhưng Phao-lô không xấu hổ khi làm bất
kỳ công việc nào giúp truyền bá phúc âm. Ông không bao giờ muốn phụ thuộc vào
người khác một cách không cần thiết.
Chính người Thê-xa-lô-ni-ca
đã thấy - cũng như chính Đức Chúa Trời - cách cư xử của Phao-lô giữa vòng họ
luôn hoàn hảo và ngay thẳng. Phao-lô không bao giờ ngần ngại thừa nhận những điểm
yếu của mình, nhưng ông cũng không ngại nói về những điểm mạnh của mình, và ông
đã làm như vậy ở đây (xem thêm lời biện hộ mạnh mẽ của ông trong 2 Cô-rinh-tô).
Ông và các bạn đồng hành luôn đối xử với người Thê-xa-lô-ni-ca như một người
cha đối với con cái, thúc giục họ, khích lệ họ và kêu gọi họ sống một cuộc đời
xứng đáng với Đức Chúa Trời, Đấng kêu gọi họ chia sẻ Vương quốc và vinh quang của
Ngài. Ông tự hào về tấm gương mà mình đã nêu ra cho người khác. Đó là một công
việc kết hợp cả sự tận tụy và tình yêu thương.
Khi kêu gọi họ
chia sẻ Vương quốc của Đức Chúa Trời, ông trung thành với cốt lõi lời dạy của
Chúa Giê-su. 'Vương quốc' không phải là một thuật ngữ Phao-lô sử dụng thường
xuyên, nhưng ông đã sử dụng nó một lần để tóm tắt thông điệp trong lời dạy của
mình. Điều này xảy ra trong bài diễn văn từ biệt các trưởng lão tại Ê-phê-sô:
Và bây giờ, tôi biết rằng không ai trong anh em,
những người mà tôi đã đến rao giảng Vương quốc, sẽ còn thấy mặt tôi nữa. (Công vụ Tông đồ 20,25)
Phao-lô liên tục
tạ ơn Chúa vì họ, bởi vì ngay khi nghe lời Phao-lô mang đến như sứ điệp của
Chúa, họ đã đón nhận nó đúng như bản chất của nó—không phải lời của một con người
tầm thường (Phao-lô), mà là lời của chính Chúa, một quyền năng hiện đang hoạt động
giữa họ với tư cách là những tín đồ.
Nhận thức này đã
giúp họ kiên định trước sự chống đối. Ở đây, chúng ta cũng có một bản tóm tắt
ngắn gọn về truyền thống các sứ đồ: sứ điệp trước tiên được ‘tiếp nhận’, hay ‘lắng
nghe’. Sau đó, nó thấm vào tâm trí hoặc trái tim, nơi nó được đón nhận, và chứng
minh rằng người nghe thừa nhận Chúa đã phán qua người truyền giáo của Ngài.
Trong mọi đời sống
Ki-tô của mình, chúng ta cũng cần nhận thức rằng ảnh hưởng lớn nhất của chúng
ta không chỉ được tạo ra bởi lời nói, mà còn bởi tấm gương sống của chúng ta—bởi
tình yêu thương, sự quan tâm và lòng trắc ẩn mà chúng ta thể hiện. Và thử thách
thực sự cho chứng tá Ki-tô của chúng ta không phải là việc mọi người nói chúng
ta thánh thiện như thế nào, mà là chính họ được dẫn dắt đến với Chúa.
Chú giải về Mát-thêu 23,27-32
Hôm nay, chúng ta
đến với hai trong bảy “Khốn Nạn” mà Chúa Giê-su giáng xuống chủ nghĩa
Pha-ri-sêu. Một lần nữa, đây là một lời công kích nhắm vào thói đạo đức giả và
Ngài đưa ra hai ví dụ:
6. …các ngươi giống như mồ mả tô trắng… (câu 27-28)
Một mặt, Ngài so
sánh người Pha-ri-sêu với “mồ mả tô trắng” (“mồ mả tô trắng” trong bản dịch
NRSVue), một cụm từ (giống như nhiều cụm từ khác) đã được sử dụng trong tiếng
Anh hàng ngày thông qua bản Kinh Thánh King James. Nói cách khác, họ giống như
những ngôi mộ mà người dân ở Palestine thường thấy sạch bong kin kít trong những
phiến đá tô trắng, nhưng bên trong lại đầy rẫy những xác chết đang phân hủy và
thối rữa.
Một lý do khiến
chúng được tô trắng là vì một người vô tình bước lên mộ sẽ bị ô uế về mặt nghi
lễ. Việc tô trắng khiến chúng dễ thấy hơn, đặc biệt là trong bóng tối. Người
Pha-ri-si bề ngoài luôn tỏ ra hoàn hảo về mặt tôn giáo đến từng chi tiết nhỏ nhất,
nhưng bên trong, lòng dạ họ đầy kiêu hãnh, hận thù và khinh miệt đồng loại. Điều
này được thể hiện rõ nét trong câu chuyện Chúa Giê-su kể về người Pha-ri-sêu và
người thu thuế đến Đền Thờ cầu nguyện. Lời cầu nguyện đạo đức giả của người
Pha-ri-sêu là:
Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ
khác: trộm cắp, bất lương, ngoại tình, hay thậm chí như người thu thuế kia. (Lu-ca 18,11)
Tất nhiên, điều đó
đúng ở một mức độ nào đó, nhưng nó đã đóng kín tâm trí họ trước một loại tội lỗi
hoàn toàn khác – lòng kiêu hãnh và sự tự mãn tưởng tượng. Như Chúa Giê-su sẽ
nói ở một chỗ khác, tội lỗi lớn nhất của người Pha-ri-sêu là sự mù quáng, không
thể nhìn nhận bản chất thật sự của mình. Tôi cho rằng đây là tội lỗi nguy hiểm
nhất của người ngoan đạo trong mọi thời đại, nhưng lại là tội lỗi ít được xưng
thú và ăn năn nhất. Và nó có thể xảy ra với bất kỳ ai trong chúng ta.
7. …các ngươi xây mồ mả cho các tiên tri và trang
hoàng mồ mả cho người công chính… (các câu 29-32)
Mặt khác, việc đề
cập đến mồ mả dẫn Chúa Giê-su đến việc bình luận về lòng kiêu hãnh của người
Pha-ri-sêu về những ngôi mộ mà họ đã xây để tưởng nhớ các tiên tri và những người
thánh thiện khác. Họ tự khen ngợi rằng, nếu họ có mặt ở đó, họ đã không bao giờ
tham gia vào những hành động mang lại sự bắt bớ và cái chết cho các tiên tri. Vậy
mà Chúa Giê-su, vị tiên tri của tất cả các tiên tri, lại đang chuẩn bị giết chết
người này.
Trong câu cuối
cùng của bài đọc, Chúa Giê-su bảo họ cứ tiếp tục và hoàn thành việc giết hại
các tiên tri, ám chỉ đến điều sẽ xảy ra với chính Ngài. Đây là một ví dụ điển
hình khác về sự mù quáng của những kẻ tự cho mình là công chính. Chúng ta càng
tận tâm với đức tin Ki-tô và với những hành vi mà đức tin đòi hỏi, thì nguy cơ
chúng ta cũng có thể rơi vào cái bẫy tương tự và tự cho mình ở một đẳng cấp cao
hơn những người khác mà chúng ta lên án và thậm chí có thể công kích hành vi của
họ càng lớn.
Trong những năm gần
đây, nhiều nhóm người như vậy đã xuất hiện, những người tự nhận mình hiểu biết
về Giáo hội hơn cả Đức Giáo hoàng, những người vẫn lên án những “tà thuyết” của
Công đồng Vatican II, hoặc những người tự khép mình vào nhóm tinh hoa vì sợ bị
lây nhiễm không chỉ bởi “thế gian”, mà còn bởi cả những người Công giáo khác!
https://livingspace.sacredspace.ie/o1214g/
Hôm nay chúng ta mừng lễ thánh Monica, Nữ vương của các bà mẹ
nói chung và của các bà mẹ công giáo nói riêng. Sự kiên tâm bền chí của thánh
nhân trong cầu nguyện là một lời chứng hùng hồn về đời sống đức tin sâu xa của
một người nữ trong cương vị là một người mẹ.
Thánh Monica đã nếm mùi đau khổ trong việc nuôi dạy người
con ngỗ nghịch của mình là thánh Augustino. Như chúng ta biết, thánh Monica là
người đã đau khổ nhiều vì thánh Augustino, có lúc tưởng chừng như tuyệt vọng,
nhưng đức tin đã cung cấp cho thánh nữ sức mạnh, lòng tin tưởng và kiên trì
trong lời cầu nguyện cho người con xa Chúa, và phần thưởng cho sự kiên trì đó
là ơn trở lại của Augustino và cuối cùng, thánh nhân đã được hạnh phúc chứng kiến
người con của mình trở thành người của Chúa, được tận hiến cho Chúa để chăm sóc
cho một cộng đoàn. Có thể nói thánh Monica đã thành thật sống đức tin của mình
để nêu gương cho người con đã một thời sống ngoài luật Chúa. Thật là trái ngược
với thái độ sống giả hình của những người biệt phái và kinh sư mà Chúa Giêsu đã
nặng lời khiển trách.
‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’




Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét