Trang

Chủ Nhật, 24 tháng 8, 2025

25.08.2025: THỨ HAI TUẦN XXI THƯỜNG NIÊN

 25/08/2025

 Thứ Hai tuần 21 thường niên

 




Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Tx 1, 1-5. 8b-10

“Anh em đã từ bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa, để trông đợi Con của Người, Ðấng mà Người cho sống lại”.

Khởi đầu thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.

Phaolô, Silvanô và Timôthêu kính gửi giáo đoàn Thêxalôni-ca trong Thiên Chúa Cha và trong Chúa Giêsu Kitô. Nguyện chúc cho anh em được ân sủng và bình an.

Tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa cho mọi người anh em; trong khi tôi cầu nguyện, tôi hằng nhớ đến anh em không ngừng, tôi nhớ đến sự nghiệp của lòng tin, công việc của lòng bác ái, sự vững lòng trông cậy của anh em vào Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta.

Hỡi anh em là những kẻ được Thiên Chúa yêu mến, tôi từng biết anh em được Chúa tuyển chọn, bởi vì Tin Mừng của chúng tôi ở nơi anh em, không phải chỉ với lời nói mà thôi, mà là với quyền năng, với Thánh Thần, và với lòng xác tín, như khi chúng tôi còn ở giữa anh em, anh em biết chúng tôi sống thế nào vì anh em.

Trong mọi nơi, lòng tin của anh em vào Thiên Chúa đã quá rõ rồi, đến nỗi chúng tôi không còn nói thêm làm gì nữa. Vì người ta thuật lại việc chúng tôi đã đến với anh em thế nào, và anh em đã bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa làm sao để phụng thờ Thiên Chúa hằng sống và chân thật, để trông đợi Con của Người từ trời mà đến, (Ðấng mà Người đã làm cho từ cõi chết sống lại) là Ðức Giêsu, Ðấng đã giải thoát chúng ta khỏi cơn thịnh nộ sắp đến.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 149, 1-2. 3-4. 5-6a và 9b

Ðáp: Chúa yêu thương dân Người (c. 4a).

Xướng: Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy mừng vui vì Ðấng tạo tác bản thân, con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ.

Xướng: Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người, hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang.

Xướng: Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên Chúa. Ðó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa.

 

Alleluia: 2 Cr 5, 19

Alleluia, alleluia! – Thiên Chúa ở trong Ðức Kitô đã giải hoà thế gian với Người, và đã đặt lời giải hoà trên môi miệng chúng tôi. – Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 23, 13-22

“Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ dẫn đường đui mù”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đóng cửa nước trời không cho người ta vào: vì các ngươi không vào, mà kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào.

“Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đọc kinh cho dài để nuốt tài sản của các bà goá, bởi thế, các ngươi sẽ chịu phán xét nặng hơn.

“Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi rảo khắp biển khơi và lục địa, để tìm cho được một người tòng giáo, nhưng khi đã cho người đó tòng giáo, các ngươi làm cho nó trở thành con cái hoả ngục gấp hai lần các ngươi.

“Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ dẫn đường đui mù! Vì các ngươi nói rằng: Ai lấy đền thờ mà thề, thì không có giá trị gì, nhưng ai lấy vàng trong đền thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi kẻ ngu ngốc và đui mù, chớ thì vàng hay là đền thờ thánh hoá vàng, cái nào trọng hơn? Các ngươi còn bảo rằng: Ai lấy bàn thờ mà thề, thì không giá trị gì, nhưng ai lấy của lễ để trên bàn thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi những kẻ đui mù, chớ thì của lễ hay là bàn thờ thánh hoá của lễ, cái nào trọng hơn?

“Vậy ai lấy bàn thờ mà thề, thì lấy cả bàn thờ và mọi sự để trên bàn thờ mà thề. Kẻ nào lấy đền thờ mà thề, thì lấy cả đền thờ và Ðấng ngự trong đền thờ mà thề. Và kẻ nào lấy trời mà thề, thì lấy ngai toà Thiên Chúa và Ðấng ngự trên ngai toà ấy mà thề”.

Ðó là lời Chúa.

 


Chú giải về 1 Thê-sa-lô-ni-ca 1,1-5.8-10

Chúng ta đã đọc Cựu Ước trong chín tuần qua. Chúng ta bắt đầu với chương 12 của sách Sáng Thế Ký và lần lượt xem qua các đoạn văn được chọn lọc từ mỗi sách trong tám sách đầu tiên của Kinh Thánh theo thứ tự: Sáng Thế, Xuất Hành, Lê-vi, Dân Số, Đệ Nhị Luật, Giô-suê, Thủ Lãnh và Rút.

Hôm nay, chúng ta quay trở lại Tân Ước và bắt đầu với các bài đọc từ thư thứ nhất của Phao-lô gửi cho các tín hữu tại Thê-sa-lô-ni-ca, thuộc Ma-kê-đô-ni-a, miền bắc Hy Lạp. Các thư của Phao-lô (và những thư được cho là của ông) không được trình bày trong Tân Ước theo thứ tự thời gian viết. Chúng được liệt kê theo độ dài, vì vậy thư gửi tín hữu Rô-ma, là thư dài nhất, được đặt đầu tiên và thư ngắn gửi Phi-lê-môn được đặt cuối cùng.

Thư đầu tiên gửi tín hữu Thê-sa-lô-ni-ca, mặc dù nằm ở cuối danh sách, nhưng thực ra lại là thư sớm nhất của Phao-lô mà chúng ta có. Dường như nó được viết tại thành phố Cô-rinh-tô, thuộc A-khai-a, miền nam Hy Lạp. Nó được viết vào khoảng năm 51 SCN, tức là chỉ hơn 20 năm sau khi Chúa Giê-su chịu chết và sống lại. Điều này khiến nó trở thành sách đầu tiên trong số 27 sách của toàn bộ Tân Ước. Nó được viết, giống như tất cả các thư tín của Phao-lô, trước sách Phúc Âm đầu tiên rất lâu. Điều này khiến nó trở thành một tác phẩm có ý nghĩa đáng kể. Theo nhiều cách, hai mươi năm là một khoảng thời gian ngắn hơn nhiều vào thời đó so với bây giờ bởi vì xã hội thay đổi chậm hơn nhiều và, trong khoảng thời gian 20 năm, hầu như không có thay đổi gì cả. Tuy nhiên, khi chúng ta đọc qua bức thư này, chúng ta thấy thông điệp Ki-tô đã được phát triển tốt như thế nào.

Những ý tưởng chứa đựng trong đó, đối với những Ki-tô hữu đã đọc chúng, là một phần của thông điệp Phúc Âm, tức là 'Tin Mừng' về Đức Chúa Trời đã đến với chúng ta qua Chúa Giê-su Ki-tôt. Xin lưu ý rằng Phao-lô sử dụng từ “phúc âm” (euangelion, nghĩa là tin mừng) trong đoạn Kinh Thánh hôm nay, mặc dù Mác-co, Mát-thêu, Lu-ca và Gioan—như chúng ta biết—phải 20 năm sau mới xuất hiện.

Bản Kinh Thánh Nghiên Cứu Phiên Bản Quốc Tế Mới (New International Version Study Bible) giới thiệu về thành phố Thê-sa-lô-ni-ca như sau:

Thê-sa-lô-ni-ca là một thành phố cảng sầm uất nằm ở đầu vịnh Thermaic. Đây là một trung tâm giao thông và thương mại quan trọng, nằm tại ngã ba của Đại lộ Egnatian và con đường dẫn về phía bắc đến sông Danube. Dân số khoảng 200.000 người, khiến nơi đây trở thành thành phố lớn nhất ở Ma-xê-đô-ni-a. Đây cũng là thủ phủ của tỉnh này. Bối cảnh của hội thánh Thê-sa-lô-ni-ca được tìm thấy trong Công vụ Tông Đồ 17,1-9. Vì Phao-lô bắt đầu chức vụ của mình tại đó trong hội đường Do Thái, nên có lý do để cho rằng hội thánh mới bao gồm một số người Do Thái. Tuy nhiên, 1,9-10 và Công vụ Tông Đồ 17,4 dường như cho thấy phần lớn tín hữu trong hội thánh là người ngoại bang… Mục đích của Phao-lô khi viết thư này là để khích lệ những người mới cải đạo trong những thử thách của họ (3,3-5), hướng dẫn họ về đời sống tin kính (4,1-8), khuyên nhủ một số người đừng bỏ bê công việc hằng ngày (4,11-12) và đảm bảo về tương lai của những tín hữu qua đời trước khi Chúa tái lâm… Chủ đề về ngày tận thế dường như chiếm ưu thế trong cả hai thư Thê-sa-lô-ni-ca. Mỗi chương của 1 Thê-sa-lô-ni-ca đều kết thúc bằng việc nhắc đến Sự Tái Lâm của Chúa Kitô, và chương 4 tập trung chủ yếu vào điều này… Hai thư này thường được gọi là những thư về ngày tận thế của Phao-lô. (đã chỉnh sửa)

Bài đọc hôm nay được tóm tắt trong bản Kinh Thánh Tân Ước Hoa Kỳ như sau:

“Phao-lô bày tỏ sự hài lòng của ông rằng ba đặc tính chính của Ki-tô giáo—đức tin, đức cậy và đức mến—đang hoạt động trong cộng đồng Thê-sa-lô-ni-ca. Không chút do dự, ông đặt các tín hữu của cộng đồng vào số những người được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương và tuyển chọn. Ông nhớ lại rằng việc ông rao giảng Phúc Âm cho họ không chỉ được đón nhận như một bài tập lý thuyết suông, mà đã tạo ra một tác động thực sự mạnh mẽ đến cuộc sống của họ, mà ngay cả sự chống đối của những người không tin cũng không thể xua tan. Đức tin của họ đã là nguồn cảm hứng cho các Ki-tô hữu ở những nơi khác, những người đặc biệt ấn tượng bởi việc người Thê-sa-lô-ni-ca hoàn toàn từ bỏ việc thờ ngẫu tượng để thờ phượng Thiên Chúa chân thật, và bởi sự hướng tâm sâu sắc của họ về Sự Tái Lâm của Chúa Giê-su.”

Như thường lệ, bức thư mở đầu bằng lời chào của Phao-lô—cùng với Xin-va-nô và Ti-mô-thê—gửi đến các tín hữu địa phương mà ông viết thư cho. Ông cam đoan với người Thê-sa-lô-ni-ca rằng họ luôn ở trong lời cầu nguyện của ông và của các bạn đồng hành. Sau đó là lời chúc phước đặc trưng của Phao-lô:

Chúng tôi luôn tạ ơn Thiên Chúa về tất cả anh em và nhắc đến anh em trong lời cầu nguyện, luôn nhớ đến công việc đức tin, công khó của lòng yêu thương và lòng kiên trì hy vọng của anh em nơi Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô, trước mặt Thiên Chúa là Cha.

Bài đọc hôm nay diễn tả cốt lõi của Kitô giáo. Chúng ta thấy tính trung tâm của mối quan hệ Ba Ngôi giữa Chúa Cha, Chúa Giê-su Ki-tô và Chúa Thánh Thần, cũng như các yếu tố thiết yếu của đức tin, đức cậy và đức mến. Câu trước mô tả bộ ba đức tin, đức cậy và đức mến thường xuyên được tìm thấy trong Tân Ước. Cụ thể như sau:

• Đức tin thật sự dẫn đến hành động:

Hỡi anh chị em, nếu ai nói mình có đức tin mà không hành động thì có ích gì?... Đức tin không có hành động cũng là đức tin chết. (Gia-cô-bê 2,14.26)

• Niềm hy vọng của Ki-tô hữu không chỉ là ước mơ viển vông, mà là niềm tin vững chắc vào Chúa Giê-su Ki-tô và lời hứa của Ngài về một cuộc sống bất diệt.

Ta là đường đi, chân lý và sự sống. (Gioan 14,6)

• Tình yêu thương không gì lay chuyển được bắt chước tình yêu thương của Chúa Giê-su, Đấng đã phán rằng tình yêu thương cao cả nhất mà một người có thể thể hiện là hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu.

Hỡi anh chị em được Đức Chúa Trời yêu thương, chúng tôi biết rằng Ngài đã chọn anh chị em, vì sứ điệp Phúc Âm chúng tôi rao giảng cho anh chị em không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng quyền năng, trong Đức Thánh Linh, và với sự tin chắc trọn vẹn.

Ngài gọi họ là “anh chị em được Đức Chúa Trời yêu thương”. Tất cả họ đều được hiệp nhất với nhau như con cái của một Cha và là anh chị em của Con Ngài.

Từ “anh em” được Phao-lô sử dụng 28 lần trong hai bức thư gửi tín hữu Thê-sa-lô-ni-ca. “Phúc Âm”, tức là Phúc Âm được Phao-lô, Xin-va-nô và Ti-mô-thê rao giảng, là Phúc Âm mà chính họ đã tiếp nhận bởi đức tin và truyền lại cho người khác. Cuối cùng, nó đến từ Đức Chúa Cha, rồi qua Chúa Kitô, đến với những người theo Ngài và xa hơn nữa. Nó không chỉ là những lời sáo rỗng. Nó chứa đầy quyền năng và, một khi được tiếp thu, có thể có tác động biến đổi toàn bộ cuộc đời một người.

Đây chính là tác động của nó đối với các tín hữu Thê-sa-lô-ni-ca. Và bất cứ ai rao giảng sứ điệp Ki-tô qua lời Kinh Thánh đều biết rằng có một sức mạnh vượt xa bất kỳ lời lẽ hùng biện nào của con người.

…anh em biết chúng tôi đã tỏ ra là người như thế nào giữa anh em vì lợi ích của anh em.

Gương mẫu của chính cuộc đời Phao-lô và các bạn đồng hành của ông là một loại phúc âm sống động, và phúc âm này cũng ảnh hưởng đến họ. Họ sống cuộc đời này không phải để thu hút sự chú ý vào bản thân, mà là để dẫn dắt các tín hữu đi theo Con Đường của Chúa Giê-su:

…hãy để ánh sáng của anh em chiếu soi trước mặt mọi người, để họ thấy những việc lành của anh em và tôn vinh Cha anh em ở trên trời. (Mát-thêu 5,16)

Sau đó, Phao-lô chúc mừng người Thê-sa-lô-ni-ca về đức tin vững chắc của họ, danh tiếng của họ đã lan rộng không chỉ đến Ma-xê-đô-ni-a, thủ phủ của Thê-sa-lô-ni-ca, và đến A-khai-a ở phía nam, nơi Cô-rinh-tô tọa lạc, mà còn lan rộng khắp nơi:

…Vì lời Chúa đã vang ra từ anh em…

Ảnh hưởng của họ mạnh mẽ đến nỗi Phao-lô hầu như không cần phải nói về điều đó.

Một lý do khiến tấm gương của người Thê-sa-lô-ni-ca lan rộng đến vậy là vì thành phố này nằm trên con đường Egnatian quan trọng (Via Egnatiana). Ngoài ra, đây là một cảng biển sầm uất và là thủ phủ của tỉnh Ma-xê-đô-ni-a thuộc La Mã.

Người ta ở những nơi khác đang kể về việc Phao-lô bắt đầu công việc của mình với người Thê-sa-lô-ni-ca như thế nào, họ đã từ bỏ các thần giả và đến để phụng sự Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật, và giờ đây đang chờ đợi sự tái lâm của Chúa Giê-su, Con Ngài.

Ở đây chúng ta có ba dấu hiệu của sự hoán cải đích thực:

1. từ bỏ các thần tượng (mọi loại);

2. phụng sự Đức Chúa Trời; và

3. chờ đợi Đấng Ki-tô tái lâm.

Trong hai lá thư ngắn gửi cho người Thê-sa-lô-ni-ca, Phao-lô nói nhiều về sự tái lâm của Đấng Ki-tô. Trong thời kỳ đầu của Ki-tô giáo, đây là mối bận tâm chính của các Ki-tô hữu. Khi năm tháng trôi qua và không có dấu hiệu nào cho thấy Sự Tái Lâm và mọi người lần lượt qua đời trước khi điều đó xảy ra, niềm tin về sự tái lâm sắp xảy ra đã suy yếu và trọng tâm chuyển sang việc dành trọn cuộc đời để phục vụ phúc âm.

Tuy nhiên, ngay lúc này, họ đang chờ đợi Đấng sẽ cứu họ khỏi Sự Phán Xét, Ngày Phán Xét sắp đến. Trong hai câu cuối của bài đọc này, chúng ta thấy hai yếu tố chính của Tin Mừng mà Thánh Phaolô rao giảng: một sự nhấn mạnh mạnh mẽ về độc thần giáo và một Kitô học nhấn mạnh đến sự giáng sinh của Chúa Phục Sinh.

Chúng ta có thể tự hỏi, nếu Thánh Phaolô viết thư cho cộng đồng Kitô hữu nơi chúng ta đang sống - giáo phận hay giáo xứ của chúng ta - chúng ta nghĩ ngài muốn nói gì qua lời khen ngợi hay phê bình? Chúng ta nên phát triển thêm điều gì và nên sửa chữa hay từ bỏ điều gì? Và bao nhiêu phần trong những điều ngài nói có thể áp dụng cho cá nhân tôi?

 


Chú giải về Mát-thêu 23,13-22

Chúng ta tiếp tục với cuộc tấn công của Chúa Giê-su vào tâm lý của các kinh sư và người Pha-ri-si. Hãy nhớ rằng (như chúng ta đã đề cập vào thứ Bảy tuần trước) rằng trước hết, chúng ta đang nói về một trạng thái tinh thần hơn là một sự lên án chung chung đối với cả một nhóm người, và thứ hai, những lời này chủ yếu được lắng nghe như một sự phản ánh cho cộng đồng Ki tô của chúng ta và cách chúng ta hành xử.

Hôm nay và trong hai ngày tới, chúng ta đọc về bảy “Khốn Nạn” mà Chúa Giê-su giáng xuống các nhà lãnh đạo tôn giáo tham nhũng. Chúng ta đã thấy con số bảy được Mát-thêu ưa thích như thế nào.

Bảy Khốn Nạn là:

1. …các ngươi ngăn không cho người ta vào Nước Trời. (câu 13)

[và] …các ngươi nuốt nhà cửa của các bà góa… (câu 14). (Câu này không có trong một số bản văn.)

2. …các ngươi vượt biển cả đất liền để làm cho một người cải đạo… (câu 15)

3. …các ngươi, những kẻ dẫn đường mù quáng, nói rằng: ‘Ai chỉ đền thờ mà thề thì không bị ràng buộc gì cả…’ (câu 16-22)

4. …các ngươi dâng một phần mười bạc hà, thì là, và rau cần… (câu 23-24)

5. …các ngươi lau sạch bên ngoài chén đĩa… (câu 25-26)

6. …các ngươi giống như mồ mả tô vôi… (câu 27-28)

7. …các ngươi xây mồ mả cho các tiên tri, trang hoàng mồ mả cho người công chính… (câu 29-32)

Hôm nay chúng ta đọc ba Tai Ương đầu tiên.

1. …các ngươi ngăn cản người ta vào Nước Thiên Đàng… (câu 13) và (không có trong một số bản văn) …các ngươi nuốt nhà của các bà góa… (câu 14).

Chúa Giê-su cáo buộc các nhà lãnh đạo đã đóng cửa Nước Trời, do đó ngăn cản người khác vào và chính họ cũng không vào. Một mặt, điều này có thể ám chỉ đến việc họ chối bỏ Chúa Giê-su, Đấng chính là hiện thân của Nước Trời, đang rao giảng về Nước Trời và bằng sự hiện diện của mình, Ngài đã làm cho Nước Trời đến được với tất cả những ai đến với Ngài. Mặt khác, điều này cũng có thể có nghĩa là họ đã khiến việc tuân giữ Luật pháp trở nên vô cùng khó khăn bằng những cách diễn giải phức tạp về những điều được phép và không được phép.

Dù chúng ta là cha mẹ, thầy giáo, linh mục hay tu sĩ, bằng hành vi của mình, chúng ta cũng có thể ngăn cản mọi người đến với Chúa Giê-su và tự mình xa cách Ngài.

Câu 14 bị lược bỏ trong một số bản văn, trong đó Chúa Giê-su cáo buộc những người Pha-ri-sêu cầu nguyện dài dòng, nhưng lại không ngần ngại lấy tiền (dĩ nhiên là cho Đền thờ) từ các góa phụ, những người nghèo nhất trong số những người nghèo. Xét đến việc các góa phụ nằm trong số những người nghèo khổ và bất an nhất trong xã hội Do Thái, đây là một sự bóc lột đê tiện nhất. Một sự so sánh trong thời đại chúng ta sẽ giống như cách một số “nhà truyền giáo truyền hình” được biết đến là đã moi tiền từ những người nghèo và cả tin, những người đáng lẽ phải nhận lãnh hơn là cho đi.

2. …các ngươi vượt biển vượt đất để đổi lấy một người cải đạo… (câu 15)

Trong khi các nhà lãnh đạo tôn giáo cố gắng ngăn cản mọi người đến với Chúa Giê-su, thì chính họ lại sốt sắng làm mọi cách để đổi lấy dù chỉ một người cải đạo, chỉ để khiến người đó trở nên tệ hơn cả chính họ. Họ làm điều này bằng cách làm cho người ta hư hỏng bằng những ý niệm sai lầm về tôn giáo chân chính. Họ nhồi nhét vào người ta những ý niệm về nghi lễ thanh tẩy và do đó tạo ra một cảm giác an toàn giả tạo về điều thực sự mang lại sự cứu rỗi. Vào thời điểm này, việc truyền đạo của người Do Thái rất sôi động trong thế giới Hy Lạp và La Mã. Những điểm tương đồng có thể được tìm thấy trong thời đại chúng ta giữa các nhóm Ki-tô hữu.

3. …các ngươi, những kẻ dẫn đường mù quáng, nói rằng: ‘Ai chỉ nơi thánh mà thề thì chẳng bị ràng buộc gì cả’… (câu 16-22)

Ở đây, Chúa Giê-su nhắm vào lòng tham của các nhà lãnh đạo và sự tha hóa tôn giáo vì lợi ích vật chất. Họ thuyết phục mọi người thề trên vàng của Đền Thờ và bắt họ trả tiền. Người ta bảo họ đừng thề trên bàn thờ, mà hãy thề trên lễ vật họ đã đặt ở đó. Chúa Giêsu hỏi: Đền Thờ hay vàng mà Đền Thờ thánh hóa, bàn thờ hay lễ vật mà bàn thờ thánh hóa, cái nào thánh hơn? Một lần nữa, nhân danh sự thánh thiện, những người Pharisêu đang bóc lột người nghèo.

Đáng buồn thay, ngày nay chúng ta cũng thấy sự lạm dụng quyền hành và quyền lực - dù trong Giáo hội, trong chính phủ, trong kinh doanh hay các lĩnh vực khác - dẫn đến đủ loại tham lam và tham nhũng, làm suy yếu chính cấu trúc của xã hội. Các chức vụ bị biến thành công cụ trục lợi cá nhân, thường gây thiệt hại cho những người yếu đuối và túng thiếu nhất. Các quốc gia từ lâu đáng lẽ phải trở nên giàu có, thịnh vượng và mang lại chất lượng cuộc sống cao cho người dân thì nay lại phá sản, theo đúng nghĩa đen của từ này, trong khi một nhóm nhỏ tinh hoa lại sống cuộc sống xa hoa vô liêm sỉ.

Giáo hội cũng có thể thấy mình quá bận tâm đến vấn đề tiền bạc mà quên mất sứ mệnh mục vụ của mình. Một giáo phận, một giáo xứ, một giám mục hay linh mục giàu có nhưng sống trong một thế giới nghèo đói và thiếu thốn là trở ngại lớn cho việc lắng nghe Phúc Âm.

 

https://livingspace.sacredspace.ie/o1212g/

 

 


Suy niệm: Kết Án Tội Mù Quáng

Toàn chương 23 Phúc Âm thánh Mátthêu ghi lại những lời kết án của Chúa Giêsu đối với các Luật sĩ và Biệt phái. Nhưng trước khi công bố 7 lời kết án đó, tác giả Mátthêu ghi lại nhận định chung của Chúa Giêsu (c.1-12). Chúa Giêsu, Ngài đề ra luật sống mới cho tất cả những ai muốn theo Ngài, Ngài là vị thầy duy nhất thay thế Môsê và các vị thầy nhân loại khác, Ngài muốn cho các môn đệ đừng rơi vào thái độ của những Luật sĩ và Biệt phái: mù quáng, giả hình, vụ hình thức, chú trọng đến cái phụ thuộc mà bỏ quên giáo lý làm linh hồn cho những hình thức bên ngoài.

Ba lời lên án của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay có cùng một điểm chung là sự mù quáng. Vì mù quáng, các Luật sĩ và Biệt phái chẳng những không được vào Nước Trời, mà còn cản trở những ai muốn vào đó; vì mù quáng, họ chỉ muốn khoe khoang lòng nhiệt thành tông đồ của họ, chứ không thực sự nhằm đến ơn cứu rỗi của những người họ muốn đưa về cùng Chúa; vì mù quáng, họ thay đổi luật Chúa theo ý riêng để có lợi cho cá nhân, chứ không thực sự màng đến luật Chúa.

Ðó là ba lời kết án của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã tự ví mình như người chăn chiên nhân lành đi tìm chiên lạc, như thầy thuốc cần cho bệnh nhân, như một Vị Thiên Chúa quyền năng sẵn sàng tha thứ và giải phóng con người tội lỗi. Thế nhưng, Ngài đã không sợ đưa ra những lời kết án mạnh mẽ, thẳng thắn: "Khốn cho các ngươi", không phải vì Ngài không còn lòng nhân từ và tha thứ, nhưng vì sự cứng lòng chai đá của con người đã đến mức tột cùng; không hoán cải khỏi thái độ giả hình, mù quáng, lạm dụng tôn giáo, con người không thể hưởng được tình yêu thương nhân từ của Thiên Chúa.

Ước gì Lời Chúa hôm nay thức tỉnh chúng ta khỏi thái độ mù quáng, khép kín, tư lợi, và cho chúng ta biết sống khiêm tốn, chân thành trước mặt Chúa và đối với anh em, để chúng ta xứng đáng hưởng chúc lành của Chúa.

(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét