Trang

Thứ Hai, 15 tháng 10, 2012

16-10-2012 : THỨ BA TUẦN XXVIII MÙA THƯỜNG NIÊN

Thứ Ba sau Chúa Nhật 28 Quanh Năm


* * *

Bài Ðọc I: (Năm II) Gl 4, 31b - 5, 6
"Cắt bì là vô giá trị, nhưng chỉ có đức tin hoạt động bởi đức mến".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, chính để chúng ta được tự do mà Ðức Kitô đã giải thoát chúng ta. Anh em hãy đứng vững, đừng để bị đặt dưới ách nô lệ một lần nữa. Chính tôi đây, Phaolô, tuyên bố cho anh em rằng: Nếu anh em chịu cắt bì, thì Ðức Kitô chẳng làm nên công trạng gì cho anh em. Tôi chứng thực một lần nữa với mọi người nào chịu cắt bì rằng: họ bị bắt buộc phải giữ trọn cả lề luật. Anh em muốn công chính hoá bởi lề luật, thì anh em tự tách biệt khỏi Ðức Kitô, và đã mất ân sủng rồi.
Về phần chúng tôi, nhờ Thánh Thần và nại vào đức tin, chúng tôi mong chờ trông cậy sự công chính. Bởi chưng trong Ðức Giêsu Kitô, cắt bì hay không cắt bì đều vô giá trị, nhưng chỉ có đức tin hoạt động bởi đức mến.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 118, 41. 43. 44. 45. 47. 48
Ðáp: Lạy Chúa, xin rủ lòng thương xót đến con (c. 41a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, xin rủ lòng thương xót đến con, xin ban ơn phù trợ theo lời Ngài đã hứa. - Ðáp.
2) Xin đừng rút lời chân lý khỏi miệng con, vì con trông cậy vào sắc dụ của Ngài. - Ðáp.
3) Con sẽ tuân giữ luật pháp Chúa luôn luôn, cho tới muôn ngàn đời và mãi mãi. - Ðáp.
4) Con sẽ bước đi trên đường rộng rãi, vì con tìm kiếm huấn lệnh của Ngài. - Ðáp.
5) Các chỉ thị Ngài làm cho con hoan lạc, đó là những điều con vẫn mến yêu. - Ðáp.
6) Con giang tay cầu chỉ thị của Chúa, và con suy gẫm về những thánh chỉ của Ngài. - Ðáp.

* * *

Alleluia: Ga 6, 64b và 69b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có những lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 11, 37-41
"Hãy bố thí, thì mọi sự sẽ nên trong sạch cho các ông".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, lúc Chúa Giêsu còn đang nói, thì có một người biệt phái mời Người dùng bữa tại nhà ông. Người đi vào và ngồi bàn ăn. Nhưng người biệt phái ngạc nhiên, nghĩ trong lòng rằng tại sao Người không rửa tay trước khi dùng bữa.
Bấy giờ Chúa phán cùng ông ấy rằng: "Này các ông, những người biệt phái, các ông lau rửa bên ngoài chén đĩa, nhưng nội tâm các ông đầy tham lam và gian ác. Hỡi những kẻ ngu dại, chớ thì Ðấng đã tạo thành cái bên ngoài, lại chẳng tạo thành cả cái bên trong sao? Hãy đem những cái bên trong ra mà bố thí, thì mọi sự sẽ nên trong sạch cho các ông".
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Người Biệt Phái thắc mắc vì Ðức Giêsu không rửa tay trước bữa ăn theo tập tục của tiền nhân. Nhưng Ngài cho thấy nếu quá câu nệ vào Luật thì đó chỉ là những hình thức rỗng tuếch. Ðiều quan trọng là chúng ta có một tâm hồn trong sạch. Sự trong sạch theo tinh thần của Ðức Giêsu chỉ có được khi biết sống chân thành, tự do với mọi ràng buộc vật chất và tình cảm không chính đáng.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cho chúng con biết giá trị của sự trong sạch đích thực chính là trong tâm hồn chúng con. Xin Chúa soi sáng và thanh tẩy lòng chúng con, để chúng con biết sống bằng một tình yêu mến đối với Chúa, với anh em, chứ không tuân giữ luật một cách máy móc và hình thức. Amen.

(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)

Quan Tâm Ðến Ðiều Cốt Yếu
(Lc 11,37-41)
Suy Niệm:
Quan Tâm Ðến Ðiều Cốt Yếu
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy nhóm Biệt phái ngạc nhiên vì Chúa Giêsu không rửa tay trước khi dùng bữa. Họ ngạc nhiên không phải vì Chúa Giêsu không giữ phép vệ sinh, nhưng vì Ngài không giữ luật định, theo đó, trước mỗi bữa ăn phải rửa tay bằng nước chứa trong các chum lớn bằng đá, với một số lượng nước được quy định và qua một cách thức được ấn định. Dưới con mắt người Biệt phái, người nào không giữ luật này, đó là người không xử sự đúng đắn: chẳng những không giữ vệ sinh, mà còn nhơ bẩn trước mặt Thiên Chúa; không rửa tay trước khi dùng bữa sẽ trở nên đối tượng tấn công của quỉ dữ, dẫn đến nghèo đói vì bị phá sản; và bánh ăn với bàn tay không sạch thì chẳng khác gì phân bón.
Vì những lý do trên và những lý do khác tương tư, sách các Rabbi có ghi những mẫu truyện như sau: Một Rabbi nọ không giữ luật rửa tay trước khi dùng bữa chỉ có một lần, thế mà đến lúc chết đã bị chôn cất như một người bị dứt phép thông công. Một Rabbi khác bị người Rôma giam giữ, đã dùng nước uống cung cấp rất hạn chế cho việc thi hành nghi thức rửa tay trước và trong khi dùng bữa, vì thế đã gần phải chết khát, bởi lẽ ông nhất định thà chết khát hơn là chểnh mảng giữ luật rửa tay.
Quan niệm và tâm thức của những người Biệt phái thời Chúa Giêsu coi các phong tục, tập quán, luật lệ là cốt tủy của việc thờ phượng Thiên Chúa và có giá trị như trọng tâm của tôn giáo, do đó những ý nghĩa cao thượng khác của niềm tin và tôn giáo cũng như những giá trị luân lý quan trọng hơn hầu như bị chôn vùi dưới lớp bụi dầy đặc của những luật lệ rườm rà tỉ mỉ; tâm thức này đưa họ đến việc giữ đạo vụ hình thức. Câu trả lời của Chúa Giêsu hướng con người vào những giá trị bên trong, quan tâm đến điều cốt yếu là sự trong sạch của lương tâm và tâm hồn.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta duyệt xét lại cách thức và mức độ giữ đạo và hành đạo của chúng ta. Ước gì chúng ta dần dần từ bỏ những cách thức giữ đạo hình thức, để đi vào chiều sâu của việc sống đạo với một lương tâm trong sạch, một tâm hồn quảng đại và ý hướng ngay lành.

(Veritas Asia)

Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần 28 TN2
Bài đọc: Gal 4:31-5:6; Lk 11:37-41.


GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Sống theo đức tin hay theo Lề Luật?

Tiếp theo những gì chúng ta đã chia sẻ hôm qua về sự xung đột giữa người Do-Thái và thánh Phaolô về giao ước cũ và mới. Hôm nay, cả hai Bài đọc đều dẫn chứng sự xung đột này bằng những ví dụ cụ thể. Bài đọc I tranh luận về việc có nên cắt bì hay không? Phúc Âm tranh luận về việc có nên rửa tay trước khi ăn?

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Sống theo đức tin hay theo Lề Luật?
1.1/ Lề Luật không thể làm con người nên công chính: Thánh Phaolô nhắc lại đạo lý căn bản của Kitô Giáo: “Chúng ta không phải là con của một người nô lệ (Hagar-Ismael), nhưng là con của người tự do (Sarah-Isaac). Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta. Vậy, anh em hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa.”
Ngài trưng ra một ví dụ, việc cắt bì: Theo lễ nghi nhập Đạo Do-Thái, người tân tòng phải làm 3 việc: cắt bì, dâng lễ vật, và chịu thanh tẩy. Một số người Do-Thái sau khi đã trở lại Công Giáo đòi các người tân tòng Dân Ngọai cũng phải chịu cắt bì như họ. Thánh Phaolô phản đối mạnh mẽ sự đòi hỏi này: “Phải, tôi đây, Phaolô, tôi nói cho anh em biết: anh em mà chịu phép cắt bì thì Đức Ki-tô sẽ không có ích gì cho anh em.”
Ngài cắt nghĩa lý do tại sao không nên cắt bì bằng việc dùng tam đọan luận:
- Tiền đề: Bất cứ ai chịu phép cắt bì, người ấy buộc phải giữ trọn vẹn Lề Luật. Nếu không giữ trọn vẹn Lề Luật, người ấy sẽ phải lãnh nhận hình phạt do tội gây nên;
- Phản tiền đề: Nhưng không ai trong con người có thể giữ trọn vẹn Lề Luật;
- Kết luận: Mọi người đều phải lãnh nhận hình phạt.
1.2/ Chỉ có niềm tin vào Chúa Kitô mới có thể làm cho con người nên công chính:

Hình phạt của tội bất trung với Thiên Chúa là cái chết. Làm sao con người có thể tránh khỏi cái chết? Chắc chắn không bằng việc giữ Lề Luật! Nhưng bằng việc tin vào lòng thương xót Chúa qua sự kiện Ngài đã cho Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô xuống trần để chết thay cho con người. Chính bằng niềm tin vào Người Con này, con người được trở nên công chính và khỏi chết. Vì thế, “Nếu anh em tìm sự công chính trong Lề Luật, anh em đoạn tuyệt với Đức Kitô và mất hết ân sủng. Còn chúng tôi thì nhờ Thần Khí và dựa vào đức tin mà vững lòng chờ đợi được nên công chính như chúng tôi hy vọng.”
Đối phương của Thánh Phaolô thách thức ngài: “Phải chăng Lề Luật của Thiên Chúa thành vô giá trị đối với các Kitô hữu?” Trong Thư Rôma, Thánh Phaolô cắt nghĩa rõ hơn về vai trò của Lề Luật. Chúng ta chỉ trả lời cách vắn gọn ở đây: Điểm quan trọng chúng ta cần lưu ý là đích điểm và cách chính yếu làm sao để đạt đích. Theo Thánh Phaolô, đích mà mọi người nhắm tới là làm sao trở nên công chính trước Thiên Chúa để khỏi phải chết, và cách để đạt đích là tin vào Chúa Kitô là Con Thiên Chúa đã chịu chết thay cho con người.
Lề Luật, tuy không có giá trị cứu rỗi, nhưng giúp cho con người nhận ra những gì nên và không nên làm. Lề Luật chỉ giúp con người đáp ứng những điều kiện tối thiểu, nhưng không giúp con người tiến xa hơn trong lãnh vực hy sinh, yêu thương, và bác ái. Để có thể tiến xa trên con đường trọn lành, con người cần có một đức tin vững mạnh vào Thiên Chúa, đức tin này thể hiện qua việc làm chứng nhân bằng lời giảng dạy cũng như bằng các công việc bác ái xã hội.
Và Thánh Phaolô kết luận: “Quả thật, trong Đức Kitô Giêsu, cắt bì hay không cắt bì đều không có giá trị, chỉ có đức tin hành động nhờ đức ái.”

2/ Phúc Âm: Trong sạch tâm hồn thì quí trọng hơn sạch sẽ bên ngòai.
2.1/ Người Pharisêu sửng sốt Chúa vì không rửa tay trước khi ăn: Cũng tương tự như đối phương của Thánh Phaolô tranh luận về sự quan trọng của sự cắt bì, đối phương của Chúa Giêsu là một người Pharisêu sửng sốt vì Người không rửa tay trước bữa ăn. Đối với người Do-Thái, việc rửa tay trước khi ăn không chỉ thuần túy là để cho hợp vệ sinh, nhưng là việc giữ Lề Luật. Người Pharisêu sửng sốt vì một người như Chúa lại không giữ các Lề Luật căn bản.
2.2/ Trong sạch tâm hồn thì quí trọng hơn sạch sẽ bên ngòai: Chúa Giêsu biết những gì ông đang tự hỏi, nên Người thẳng thắn nói với ông ấy rằng: "Thật, nhóm Pha-ri-sêu các ngươi, bên ngoài chén đĩa, thì các ngươi rửa sạch, nhưng bên trong các ngươi thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà. Đồ ngốc! Đấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao? Tốt hơn, hãy cho đi những gì đang có bên trong như của làm phúc, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người.”
Một câu Hy-Lạp rất khó dịch trong đọan này là “plh.n ta. evno,nta do,te evlehmosu,nhn.” Nhóm PVCGK dịch “Tốt hơn, hãy bố thí những gì bên trong.” Theo văn mạch của đọan này, điều Chúa Giêsu đang muốn nói là sự trong sạch của tâm hồn, và câu 39 đang nói tới những tật xấu bên trong của người Pharirêu: “nhưng bên trong các ngươi thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà.” Tổng hợp tất cả, chúng ta có thể dịch: “hãy cho đi những gì đang có bên trong như của làm phúc.”
Điều Chúa muốn họ lưu ý ở đây là sự thanh sạch trong tâm hồn mà Thiên Chúa muốn họ có, vì Thiên Chúa đã dựng nên con người, và Ngài biết tất cả mọi sự: bên trong cũng như bên ngòai. Họ có thể đánh lừa được mọi người bằng việc giữ cẩn thận các Lề Luật nhưng không thể đánh lừa được Thiên Chúa vì Ngài thấu suốt mọi toan tính trong tâm hồn của họ. Một khi họ đã vất đi những toan tính thấp hèn, họ sẽ trở nên trong sạch thực sự và biết yêu thương tha nhân hơn.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta không thể trở nên công chính bằng sức mình qua việc cẩn thận giữ các Lề Luật, nhưng chỉ có thể trở nên công chính bằng lòng thương xót của Thiên Chúa qua việc tin tưởng vào Người Con của Ngài. Chính Người Con này đã chết thay cho chúng ta.
- Lề Luật của Thiên Chúa trong Cựu Ước vẫn có giá trị căn bản của chúng. Tuy nhiên, những giới răn của Chúa Giêsu dạy làm hòan hảo những Lề Luật của Cựu Ước. Nếu chúng ta yêu mến Chúa Giêsu, chúng ta phải giữ các giới răn của Người.
- Các Lề Luật đều tóm trong hai giới răn quan trọng nhất: “Mến Chúa, yêu người.” Sự thanh sạch trong tâm hồn cao trọng hơn sự thanh sạch bên ngòai.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
16/10/12 THỨ BA TUẦN 29 TN
Th. Hétvích, nữ tu

Lc 11,37-41 
LÀM ĐẸP CẢ TRONG LẪN NGOÀI
Đức Giêsu nói: “Đấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao? Tốt hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người.” (Lc 11,40-41)
Suy niệm: Ca dao Việt Nam nói rằng: “Sông sâu còn có kẻ dò, nào ai bẻ thước mà đo lòng người”.Quả thật, người ta có thể đo đạc được biển sâu, núi cao, kể cả những ngôi sao xa lắc xa lơ, nhưng lại không có máy móc chuyên dụng nào để đo lòng người. Lòng người thật khôn dò, thật rắc rối và cũng thật bí hiểm. Vì thế, đã có lắm trường hợp vì tin người mà phải thiệt của, hay thậm chí thiệt thân. Thế nhưng, người ta quên rằng đối với Đấng đo được lòng người, dù ta có ngụy trang khéo léo đến đâu, Ngài vẫn nhìn thấy thấu suốt. Đức Giêsu nhắc ta nhớ rằng Đấng ấy là Thiên Chúa, và Ngài mong muốn ta, bên cạnh việc cố gắng làm đẹp phong cách bên ngoài, cũng hãy quan tâm thanh tẩy tâm hồn bên trong khỏi những tư tưởng ô uế, gian tà.
Mời Bạn: Chú ý đến việc làm đẹp nội tâm bằng hai cách : 1/ Loại trừ những tư tưởng ích kỷ, chỉ tìm niềm vui cho mình. 2/ Nuôi dưỡng tâm tình yêu mến, quảng đại.
Chia sẻ: Bạn có thấy mình thường tìm cách làm đẹp phong cách, dáng vẻ bên ngoài, mà ít quan tâm đến việc làm đẹp tâm hồn bên trong không?
Sống Lời Chúa: Hằng ngày bạn chăm sóc cho thân thể được sạch sẽ, xinh đẹp, bạn cũng nhớ thanh tẩy tâm hồn khỏi những tư tưởng, ước muốn bất xứng và làm đẹp nó bằng ân sủng Chúa nhé.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cả thân xác bên ngoài lẫn tâm hồn bên trong. Xin giúp chúng con tìm cách tô điểm cho cả hai được tốt đẹp, trươc mặt Chúa và người khác.

Bên ngoài, bên trong
Đời Kitô hữu chính là một nỗ lực đi từ việc giữ đạo hời hợt, hình thức, đến việc sống đạo từ trong máu thịt mình. 
Suy nim:
Một ông Pharisêu mời Đức Giêsu đến dùng bữa.
Cử chỉ đó cho thấy thiện cảm của ông đối với Ngài.
Đức Giêsu đã đáp lại lời mời, đã đến nhà ông và liền ngồi vào bàn tiệc.
Ông chủ nhà bị sốc vì thấy khách không rửa tay trước khi ăn.
Đối với ông đây là một thói quen quan trọng, không thể thiếu.
Thế là Đức Giêsu đã giảng cho ông một bài hẳn hoi.
Tuy nhiên, vì tế nhị, vì là khách mời cho một bữa ăn,
nên chắc Ngài đã chẳng nặng lời đến mức đó.
Bài Tin Mừng này thật ra phản ánh sự căng thẳng từ sau năm 70,
giữa những người Pharisêu thuộc giới lãnh đạo hội đường với các Kitô hữu.
Đức Giêsu đã dùng hình ảnh một cái chén uống nước và cái đĩa.
Đối với Ngài, các người Pharisêu chỉ lo lau rửa ở bên ngoài chén đĩa.
Chú trọng tỉ mỉ đến cái bên ngoài là nét riêng của họ.
Lắm khi cái bên ngoài chỉ là những cái phụ thuộc, không cần thiết.
Điều họ muốn mọi người tuân giữ lại không phải là chính Luật Môsê,
nhưng chỉ là những lời giải thích chi li Luật đó
được truyền miệng nơi các rabbi, rồi sau này được viết lại thành sách.
Đức Giêsu cho thấy cái bên trong của người Pharisêu,
cái bên trong của chén và đĩa mà họ không để tâm lau rửa.
“Cái bên trong của các người thì đầy chuyện cướp bóc, gian tà” (c. 39).
Như thế cái bên trong của chén đĩa
tượng trưng cho cái bên trong của tâm hồn con người.
Rửa sạch cái bên ngoài của chén đĩa, không đủ.
Cần phải rửa sạch cả cái lòng tham lam chiếm đoạt và lòng độc ác gian tà.
Rửa sạch cái bên trong mới là điều quan trọng hơn, cấp thiết hơn, khó hơn.
Có khi vì khó nên người ta né tránh bằng cách làm cái dễ.
Đức Giêsu bực bội về sự tương phản này nơi một số người Pharisêu,
tương phản giữa cái bên ngoài rất sạch và cái bên trong rất dơ,
khiến nhiều người có thể bị ngộ nhận.
Nhưng Thiên Chúa thì không.
Ngài thấy cả hai, vì ngài đã làm ra cả cái bên ngoài lẫn cái bên trong (c. 40).
Đức Giêsu cho ta cách để tẩy rửa cái bên trong nhơ uế, đó là bố thí (c. 41).
Trong tiếng Hy Lạp, bố thí có nghĩa gốc là bày tỏ lòng thương xót.
“Bấy giờ mọi sự trở nên sạch cho các người.”
Khi bố thí chia sẻ, người ta biến đổi từ bên trong.
Tấm lòng tham lam ác độc trở nên đầy tình bác ái xót thương.
Đức Giêsu đưa chúng ta về với cái bên trong, cái cốt lõi của đời Kitô hữu.
Như người Pharisêu cách đây hai ngàn năm,
chúng ta vẫn bị cám dỗ để dừng lại và mãn nguyện với cái bên ngoài.
Làm sao để chúng ta thực sự trong sạch dưới ánh mắt của Thiên Chúa?
Làm sao để cái bên ngoài của chúng ta thực sự phản ánh cái bên trong?
Đời Kitô hữu chính là một nỗ lực đi từ việc giữ đạo hời hợt, hình thức,
đến việc sống đạo từ trong máu thịt mình.
Xin Chúa giúp ta rút ngắn khoảng cách giữa cái bên ngoài và cái bên trong.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.

Khi đến với Chúa,
chúng con cũng thường mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức bên ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.

Lạy Chúa Giêsu,
chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình,
mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.

Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính mình.

Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

"Hãy bố thí, thì mọi sự sẽ nên trong sạch cho các ông".
Những Kẻ Sống Giả Hình
Việc rửa tay trước khi dùng bữa là một nghi thức, là một nếp sống theo truyền thống chứ không phải là một giới răn bắt buộc. Ðây là một nghi thức tự nó không có tính cách bắt buộc tuyệt đối. Nhưng những người biệt phái đã có thái độ câu nệ vào đó một cách thái quá, đến độ dùng nó như là một mẫu mực để phán xét giá trị của một người. Chúa Giêsu không để mình phải lệ thuộc vào một nghi thức bề ngoài này, và đối với Ngài, tâm hồn trong sạch, tuân giữ luật Chúa là điều quan trọng hơn. Chúa Giêsu đã trách thái độ giả hình của người Pharisiêu: “Các ngươi lo rửa tay, rửa chén dĩa cho sạch, mà không lo thanh luyện tâm hồn trong sạch, để tâm hồn mình đầy sự gian ác, mánh mung”.
Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao. Thái độ sống giả hình, vụ hình thức là một cám dỗ triền miên của con người mọi thời đại. Những lời trách của Chúa Giêsu đối với người biệt phái, thức tỉnh mỗi người chúng ta hôm nay trong nếp sống đức tin của mình.
Phải chăng chúng ta cũng đang rơi vào thái độ vụ hình thức giả hình, chúng ta mang thánh giá Chúa trên mình, đọc kinh trước khi dùng bữa nhưng thật sự tâm hồn chúng ta thì sao? Có đầy lòng mến Chúa, có tình yêu thương chân thành, chia sẻ, khiêm tốn phục vụ anh chị em chung quanh hay không? Chúng ta đến nhà thờ đọc kinh, nhưng tâm hồn chúng ta có đầy lòng yêu mến và tôn thờ Chúa hay không? Hay là giống như dân Do Thái ngày xưa, bị Chúa Giêsu quở trách: “Dân này kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng thì ở xa ta. Không phải chỉ kêu lên “Lạy Chúa, Lạy Chúa” thì được vào nước Trời, nhưng chỉ những ai thi hành thánh ý Cha Ta thì người ấy mới đáng vào nước Trời”. Chu toàn giới răn Chúa, tôn thờ giới răn Chúa trong Thánh Thần và trong sự thật, đó là điều quan trọng nhất. Ðức tin chúng ta cần được trưởng thành mỗi ngày một hơn.
Lạy Chúa
Xin giải thoát chúng con khỏi mọi sự giả hình, xin ban cho chúng con một tâm hồn tràn đầy tình yêu Chúa và nhờ tình yêu này mà chu toàn những lời dạy của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Rửa Cái Gì Mới Sạch Nhất?
Đức Giêsu nói: “Thật nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén dĩa thì các ngươi rửa sạch, nhưng bên trong các ngươi thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà.” (Lc. 11, 39)
Bệnh dễ sợ bị lây nhiễm đủ thứ không hợp thời với mục tử. Từ lâu trước thời Đức Giêsu, luật Mô-sê đã phổ biến nghi thức thanh tẩy rất tỉ mỉ, câu nệ, lại được nhóm biệt phái cố gắng thực hành và áp đặt mọi người tuân theo.
Đối với những vết nhơ
Suốt buổi sáng người ta đi làm phải tiếp xúc với đủ mọi thứ và đủ mọi người, làm họ có thể bị ô uế như luật dạy. Trước bữa trưa, điều quan trọng buộc họ phải thanh tẩy kỹ lưỡng khỏi mọi thứ ô uế nhơ bẩn trước khi đọc kinh tạ ơn Thiên Chúa để dùng bữa.
Đức Giêsu thấy tận căn sâu thẳm: Người ta không thể hư mất do việc không thanh tẩy bên ngoài, sự ô uế bên trong mới đáng sợ. Từ lâu, tác giả Thánh vịnh đã nhận thức được điều đó: “Xin dùng cành hương thảo rửa tội tôi thì tôi được trong sạch, xin rửa tôi thì tôi được trắng hơn tuyết” (Tv. 50, 9). Chính vì thế, Đức Giêsu nhắc nhóm biệt phái. Họ ngạc nhiên thấy Người và môn đệ không rửa tay trước khi ăn. “Các ông chỉ rửa bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong các ông đầy những chuyện cướp bóc, gian tà”.
Thanh tẩy hữu hiệu, chính là tình yêu
Có gì khác giữa chúng ta và biệt phái? Chẳng phải chúng ta cũng như biệt phái, đã nồng nhiệt tiếp đón người khác theo dáng vẻ bên ngoài mà không quan tâm đến tính tình bên trong đó sao?
Đức Giêsu nói rằng chính bên trong, tận thâm sâu giữa lòng con người mới đáng kể. Nếu lương tâm mình ô uế thì không còn gì bên ngoài có thể rửa sạch được. Cần phải ăn năn sám hối tội lỗi mình và cầu xin Thiên Chúa, Đấng làm nên cả bên trong lẫn bên ngoài, mới làm cho con tim mình nên trong sạch. Lúc đó, được đầy lòng mến Chúa, mình mới hiến thân đi bố thí giúp đỡ người khác một cách không vụ lợi và không mong đáp lại. Như vậy, mới có tấm lòng trong sạch hoàn toàn. Chính tình yêu Thiên Chúa và tha nhân có sức thanh tẩy tận cõi lòng. Thánh Augustinô đã diễn tả sự thật này: “Hãy yêu mến và làm điều anh muốn” thì mới được tốt đẹp.
RC.

 Dành ưu tiên cho nội tâm
Hôm nay chúng ta đề cập tới ít đoạn Phúc Âm nói về lòng thù ghét của nhóm biệt phái đối với Chúa Giêsu. Chúng cho ta phỏng đoán một trong những kích thước của sự thù nghịch con người đối với Thiên Chúa. Đó quả là một mầu nhiệm.
Một phần nào, mầu nhiệm ấy nằm ở chỗ con người cảm thấy khó sống trong “trung tâm” mình, cái trung tâm thiêng liêng của lương tâm. Khuynh hướng của con người, và ngay của tư tưởng nó, những gì điều kiện hóa nó. Cá nhân thường đánh giá mình bằng cách đối chiếu với kẻ khác. Nó tìm cách để được người ta chấp nhận và mến chuộng mình. Trên bình diện tư tưởng (và tư tưởng lắm khi do những sự chọn lựa sâu xa gây nên), một triết thuyết như thuyết mác-xít đang giản lược con người vào điều kiện vật chất của nó. Trong cả hai trường hợp, liên hệ của lương tâm với Thiên Chúa đều không có.
Chúa Giêsu quở trách bọn biệt phái một cái gì tương tự như thế, bởi họ lo lắng về bề ngoài hơn bề trong.
Nhưng lời nói sau đây mới đáng ngạc nhiên: “Vậy hãy làm phúc bố thí… thì mọi sự sẽ nên trong sạch cho các ngươi”. Trong mạch văn tổng quát của Phúc Âm, thì của bố thí có giá trị tẩy rửa trong mức độ nó diễn tả tình yêu đích thực đối với tha nhân. Tình yêu này bắt nguồn trong Thiên Chúa là Tình Yêu. Điều đó có nghĩa là con người được tẩy rửa tùy theo chỗ nó tiến gần đến Chúa Tình Yêu như thế nào. Nếu con người cố gắng yêu mến thật sự như Chúa Kitô và trong Chúa Kitô, thì nó sẽ gột bỏ được lòng ích kỷ, sẽ trở nên đơn giản, tinh tuyền.



Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 10
16 THÁNG MƯỜI
Yêu Thương Bằng Con Đường Dâng Hiến
Lòng bác ái và sự hy sinh của Mẹ Tê-rê-sa, phát xuất từ tình yêu đối với Đức Kitô, đã trở nên một thách đố cho thế giới. Thế giới này vẫn thường được thấy như là một thế giới của ích kỷ và dục vọng, một thế giới đầy tham lam, đầy những đam mê danh lợi và quyền lực.
Đứng trước những sự dữ của thời đại chúng ta, chứng tá của Mẹ Tê-rê-sa nêu bật – không phải bằng lời nói mà bằng chính những hành động hy sinh cụ thể – giá trị siêu vượt của tình yêu Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta. Tình yêu này kêu gọi các tội nhân hoán cải và mời họ sống theo Chúa Kitô: “Mang niềm vui đến cho người nghèo” (Lc 4,18).
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thánh Margarita Alacoque trinh nữ;
Gl 5, 1-6; Lc 11, 37-41
LỜI SUY NIỆM: Người Pha-ri-sêu thấy làm lạ khi Chúa Giêsu không rửa tay trước khi ăn. Nhưng Chúa nói với ông ấy rằng: “Thật nhóm Pha-ri-sêu các ngươi, bên ngoài chén đĩa, thì các ngươi rửa sạch, nhưng bên trong các ngươi thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà.” (Lc 11,39)
          Đối với những người Pha-ri-sêu rửa tay trước khi ăn, họ xem là điều tối quan trọng. Nhân chuyện rửa tay và không rửa tay trước khi ăn. Chúa Giêsu muốn dẫn đưa họ đến rửa sạch những gì trong tâm hồn của họ. Trong cuộc sống ngày hôm nay, cũng không thiếu những hạng người giả hình này, dù họ là đang ở đấng bậc nào trong xã hội, cũng như trong mọi tôn giáo, vẫn có những con người lấy những công việc tốt đẹp dạo dức bên ngoài, dựa vào những công việc đó để che đậy trong lòng mình: những cái tham lam muốn chiếm đoạt những của cải vật chất về cho chính mình. Chúa Giêsu đang muốn mỗi chúng ta phải sống thật với chính mình và với nhau, như đang được Chúa nhìn thấy.
Mạnh Phương
+++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân

Ngày 16-10
Thánh MAGARITA MARIA ALACOQUE
Đồng Trinh (1647 - 1690)
Thánh Magarita sinh ngày 22 tháng 6 năm 1674 tại Lauthecour miền Charolais. Ngài là con thư năm của ông Claude Alacoque, một viên chức triều đình. Khác với các trẻ em cùng tuổi chỉ ham chơi, Magarita dường như hiểu rằng chỉ có yêu mến Chúa mới là điều quan trọng. Biết được điều gì không đẹp lòng Chúa là Ngài bỏ ngay. Mới 4 tuổi, Ngài đã lần chuỗi Mân côi hàng ngày và thường lẻn vào rừng để suy gẫm cầu nguyện.
Lên 8 tuổi, Magarita gặp thử thách lớn lao. Cha Ngài từ trần. Không đòi được tiền nợ. Mẹ Ngài phải dẫn con về quê ngoại, sống với những người tham lam quê mùa. Họ rút tỉa gia tài của gia đình Ngài đến nỗi phải đi ở đợ. Magarita được gửi học tại tu viện thánh Clara. Nơi đây, Ngài được rước lễ lần đầu và khoảng 9 tuổi.
Magarita lại gặp một thử thách nữa vào năm 14 tuổi. Khi ấy Ngài ngã bệnh nặng. Nhưng rồi Ngài đã được chữa lành sau khi khấn hứa sẽ trở thành con Đức Mẹ. Khỏi bệnh Ngài bị cám dỗ sống đời vui chơi phù phiếm. Không chịu thỏa hiệp với nếp sống như thế, Ngài bị người chung quanh đối xử tàn tệ. Muốn đi dự lễ, Ngài phải mượn áo. Có những ngày Ngài bị bỏ đói. Khi mẹ lâm bệnh, Ngài phải đi ăn xin để chạy chữa cho mẹ. Dầu vậy, Ngài chỉ ham đọc truyện các thánh và muốn bắt chước các Ngài, sống đời hy sinh bác ái.
Biết Chúa gọi mình, Magarita cố gắng để mình đỡ bất xứng với ơn gọi. Nhân dịp năm thánh, Ngài xưng tội chung và đã mất 15 ngày để xét mình. Hai mươi tuổi, Ngài được thêm sức và nhận thêm tên thánh Maria. Sau nhiều chiến đấu cực nhọc, ngay với chính mình, tháng 6 năm 1671, Magarita vào dòng thăm viếng ở Paray-le-Monnical, sống với 40 nữ tu quý phái mà một số không có ơn kêu gọi:
Trong cuộc tĩnh tâm dọn mình khấn dòng, Chúa nói với Ngài: - Này là vết thương cạnh sườn Cha, nơi đây con hãy ẩn náu bây giờ và mãi mãi.
Ngày 6 tháng 11 năm 1672, Ngài khấn dòng. Ngài được Chúa Giêsu cho thấy một thánh giá phủ đầy hoa và nói: Đây là giường các bạn tình trinh khiết của ta nằm, dần dần hoa rụng xuống và chỉ còn lại những gai. Thị kiến này tiên báo cuộc đời đầy chông gai thánh nữ sẽ trải qua. Nhưng Ngài chỉ biết hiến thân cho Chúa "như một tấm vải căng trước mặt họa sĩ". Ngài sẽ còn xuất thần và được nhiều thị kiến nữa.
Thị kiến đầu tiên trong bốn thị kiến quan trọng xảy ra vào dịp này, Chúa Giêsu tỏ trái tim Người ra: - Trái tim Cha cháy lửa yêu thương đối với loài người và cách riêng đối với con, đến nỗi không còn giữ trong lòng được nữa, ngọn lửa này con phải trải rộng ra.
Chúa Giêsu đã xin thánh nữ trái tim của Ngài và đặt vào lòng mình. Ngài cảm thấy như ở trong hỏa lò. Khi Chúa Giêsu trả lại trái tim, MAGARITA phải chịu mãi cơn đau đớn bên sườn và phải trích máu cho nhẹ bớt cơn đau.
Trong thị kiến thứ hai, thánh nữ viết: - Người quả quyết với tôi rằng: chúng ta phải tôn kính trái tim Chúa dưới hình thể trái tim con người.
Thị kiến thứ ba diễn ra ngày thư sáu đầu tháng nào đó không được rõ. Đức Kitô dạy Ngài rước lễ mỗi thứ sáu đầu tháng.
Những thị kiến này kéo theo một thứ đau đớn thân xác. Thánh nữ đều vui nhận hết. Tuy nhiên Ngài còn bị dằn vặt về tinh thần. Bề trên và chị em trong dòng cho rằng: Ngài bị ám ảnh vì bệnh hoạn, đến mùa thu năm 1674, Thiên Chúa hứa gửi một tôi tớ để trợ lực thánh nữ. Tháng 2 năm 1675, cha Claude la Colombiere khấn trọn tại Lyon. Ngay sau đó, cha được cử về làm bề trên dòng tên ở Paray, dưới sự ngạc nhiên của tất cả những ai đã theo dõi việc làm sáng giá của cha ở Paris.
Không hề có kinh nghiệm về những cuộc xuất thần, cha có trí khôn rất bén nhậy và bằng lòng với việc yêu mến Chúa Kitô trong "mây mù của sự bất tri". Khi gặp Magarita, cha đã nói với mẹ Samaise: - Chị là một linh hồn ưu tuyển.
Cha đã xác quyết cho thánh nữ về đường lối của Ngài.
Thị kiến trọng đại nhất diễn ra trong tuần bát nhật kính Mình thánh Chúa năm 1676. Trước Thánh Thể trưng kính trên bàn thờ, thánh nữ đã nghe những lời này: - Này là trái tim đã yêu thương loài người không còn tiếc rẻ gì, đến độ mỏi mòn tiêu hao để làm chứng tình yêu đối với họ.
Và xin thánh nữ dành riêng ngày thứ sáu sáu tuần bát nhật kính Thánh thể, để tôn thờ trái tim Người. Hôm đó, người ta rước lễ và long trọng làm việc đền tạ. Cha Lolombière dạy thánh nữ viết ra tất cả các thị kiến của Ngài rước khi cha dời đi Luân Đôn .
Cuộc bách hại của cộng đoàn lên tới cao điểm ngày 20 tháng 11 năm 1677, Chúa đã đòi thánh nữ Magarita dâng mình làm hiến vật cho sự công thẳng của Chúa, để đền bù những tội phản nghịch cùng đức ái của cộng đoàn. Khi thánh nữ quỳ xuống để làm như vậy, thì mọi người nghĩ rằng: Ngài bị mất trí. Đêm hôm sau thật khó tin nổi. Ngài nói rằng: đau khổ trong đời gộp lại cũng không thể sánh nổi với những gì Ngài đã phải chịu đêm ấy.
Lễ lên trời năm 1678, mẹ Saumaise rời chức vụ. Ngày 17 tháng 6 mẹ Greyfié được Chúa quan phòng đưa lên để làm sáng tỏ vấn đề. Trắc nghiệm thánh nữ, mẹ thấy thánh nữ rất mực khiêm tốn. Mẹ còn quyết định rằng: thánh nữ phải được lành bệnh hoàn toàn trong một thời gian nhất định, để chứng tỏ rằng các thị kiến là chân thực.
Năm 1684, mẹ Greyjié rời Paray, một thế hệ các nữ tu trẻ xuất hiện. Magarita được chỉ định làm giáo tập. Ngày 20 tháng 6 năm 1685, lễ thánh Magarita nhằm ngày thứ sáu, Magarita dạy các tập sinh, thay vì tặng quà cho Ngài, hãy dâng cho Chúa một vinh dự. Họ dọn một bàn thờ nhỏ và đặt hình Trái tim bị thương tích có mão gai và lửa chung quanh. Tháng 6 năm 1686, các nữ tu tôn kính trái tim Chúa trong nguyện đường. Ngày 07 tháng 9 năm 1688, một nguyện đường nhỏ đầu tiên trong vườn được thánh thiến để kính trái tim.
Ngày 08 tháng 10 năm 1960, Magarita mang bệnh và ngày 17 tháng 10 năm đó Ngài từ trần, lúc 43 tuổi. Các nữ tu thấy Ngài trở nên xinh đẹp lạ lùng. Ngài được phong chân phước năm 1864 và tuyên thánh 1920.
(Daminhvn.net)
++++++++++++++++++
16 Tháng Mười
Xin Cho Chúng Con Lương Thức Hằng Ngày

Hôm nay là ngày quốc tế về lương thực do tổ chức Lương Nông của Liên Hiệp Quốc đề xướng.
Nói đến lương thực, nhất là trong một quốc gia nghèo đói như Việt Nam, có lẽ tự nhiên, ai trong chúng ta cũng nghĩ đến cái đói trên thế giới.
Ðói không chỉ là một trạng thái cần ăn uống, nhưng được các chuyên viên về thực phẩm và sức khỏe định nghĩa như là một tình trạng thường xuyên của một người không đủ ăn để có thể có một cuộc sống lành mạnh. Danh từ chuyên môn thường được dùng để chỉ tình trạng này là dưới mức dinh dưỡng. Nạn nhân dễ thấy nhất của tình trạng này là các trẻ em của những nước nghèo.
Mỗi năm người ta tính có đến 15 triệu trẻ em chết vì nhiều nguyên do có liên quan đến tình trạng thiếu dinh dưỡng. Mỗi ngày, trên khắp thế giới, có khoảng 40 ngàn trẻ em chết vì đói. Số người chết vì đói ăn cũng tương đương với số thương vong nếu cứ ba ngày có một trái bom hạt nhân được ném xuống một vùng đông dân cư.
Có rất nhiều nguyên nhân đưa đến nạn đói kém. Người ta cho rằng nguyên nhân chính nằm trong chính sách kinh tế, chế độ chính trị, xã hội. Nhưng tựu trung, căn rễ sâu xa nhất vẫn là sự ích kỷ của con người. Nếu một phần mười những người giàu có trên thế giới biết san sẻ cho những người nghèo, thì có lẽ thế giới này không còn có những trẻ em chết đói mỗi ngày nữa. Nếu ngay cả trong một quốc gia, người ta biết dùng tiền bạc để mua cơm bánh cho con người hơn là đầu tư vào khí giới, thì chắc chắn sẽ không còn cảnh người chết đói nữa.
Tại một vài quốc gia kỹ nghệ đang chuyển mình để bước vào cuộc cách mạng kỹ nghệ lần thứ ba, người ta thường nói đến kỷ nguyên điện toán, thụ thai trong ống nghiệm... Thế nhưng, tại rất nhiều nơi trên thế giới, mỗi ngày vẫn có đến 40 ngàn trẻ em chết vì đói ăn... Thế giới của chúng ta quả là một nhân thể bệnh hoạn. Một nơi nào đó trong cơ thể, một số bộ phận phát triển một cách dư dật, một nơi khác, nhiều cơ phận đang chết dần chết mòn vì thiếu tiếp tế.
Có lẽ nhân loại chúng ta không chết đói cho bằng vì thiếu tình thương. Những người đang chờ chết cũng là những người đang chờ từng nghĩa cử yêu thương của đồng loại. Những người dư dật nhưng không biết san sẻ cũng là những người đang chết dần trong ích kỷ. Con người cần có cơm bánh để sống đã đành, nhưng con người cũng cần có tình thương để tồn tại. Kẻ đón nhận tình thương cũng được sống mà người san sẻ tình thương cũng được sống.
Chúng ta phải làm gì để được sống? Dĩ nhiên, chúng ta phải có đủ cơm bánh hằng ngày. Nhưng câu trả lời mà mỗi người Kitô phải tự nói với mình là: để được sống, tôi cần phải làm cho người khác được sống. Ðó là sự sống đích thực của chúng ta. Bởi vì ai sống trong tình yêu, người đó sống trong Thiên Chúa.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Ngày 16
Thánh Magarita-Maria Alacôc, trinh nữ
Thánh Hétvích, nữ tu
 

Thiên Chúa đã tạo dựng tt cả và mọi sự đều ở trong tay Người, các vật hữu hình cũng như vô hình. Nhiều khi chúng ta chỉ để ý đến những gì xem thy được, và Đức Giêsu khiển trách chúng ta, như khiển trách người Pharisêu, về tính bên ngoài của chúng ta.
 
Đây chính là ước muốn kiên quyết của thánh Magarita- Maria, mà Giáo hội mừng lễ hôm nay, qua sự chiêm ngắm Trái tim Đức Giêsu và lời kêu gọi tôn kính Người trong Thánh Thể. Khi sống trong sự thân tình với Trái tim đã yêu con người đến thế, thánh nữ là người hướng dẫn chắc chắn để chúng ta cũng lớn lên trong nội tâm. "Đây là Trái tim đã yêu thương con người, không lẩn tránh điều gì, đến nỗi đã kiệt sức và suy tàn để chứng tỏ tình yêu của Người."
 
Đức Giêsu đã châp nhận ăn uống với người Pharisêu và người tội lỗi, còn chúng ta có nhận lời Người mời vào bàn tiệc Thánh Thể không? Chúng ta là cái chén (la coupe); Chúa mun rót máu đời sng cứu chuộc của Người vào cái chén này, Chúa mun chiếc chén không chỉ đẹp bên ngoài, nhưng nhất là đẹp bên trong. Ai là người trong sạch trước mặt Thiên Chúa? Đó là những người sng khó nghèo thực sự và thể hiện cụ thể bằng chia sẻ và b  thí; họ được tự do, không bị ràng buộc, để yêu thương.
 
Một nữ đan sĩ Huynh đoàn Giêrusalem
Hạnh Các Thánh

Ngày 16 tháng 10
THÁNH NỮ HÊVIGÊ 
THÁNH MAGARITA MARIA ALACỐC
St.Hedwig

Silêsia là một đồng bằng khá rộng và phì nhiêu, được tưới gội bởi giòng sông Ođu đổ xuống từ mấy ngọn núi miền Bohême. Thắng cảnh của Silêsia là ngọn đồi Trebnitz cao chừng ba trăm thước, nằm ngay ven bờ sông Ođu. Suốt thời Trung cổ, Silêsia là miếng mồi ngon cho các xứ lân cận như Balan, Tiệp khắc và Đức quốc tranh giành. Vì thế năm 1182, Silêsia bị phân đôi với quận công Henricô I chiếm cứ miền nam Silêsia. Quận công Henricô đây chính là phu quân của thánh nữ Hêvigê mà chúng ta kính nhớ hôm nay.
Hêvigê là một trong tám người con của bá tước Andechs. Thánh nữ có hai người anh làm giám mục, một em gái làm bề trên nữ tu viện và một người nữa làm hoàng hậu nước Hungari, tức thánh nữ Êlizabeth mà Giáo hội mừng lễ vào ngày 19 tháng 11 hằng năm.
Ngay từ khi mới lên bốn tuổi, Hêvigê đã được cha mẹ gửi vào một tu viện để học chữ nghĩa và giáo lý. Trong số các chị em ở đây, Hêvigê được liệt vào hàng xinh đẹp và khôn ngoan nhất. Thực vậy, tuy còn ít tuổi, nhưng Hêvigê đã biết nói năng, cư xử và làm việc như một cô gái trưởng thành. Tới tuổi thành hôn, Hêvigê được cha mẹ hứa gả cho quận công Henricô.
Với cuộc đời mới, là phu nhân của quận công Henricô, Hêvigê đã tỏ ra là một người nội trợ đảm đang và nhân đức. Ngài sinh hạ được tất cả sáu mặt con: ba trai ba gái. Với căn bản đạo đức được hấp thụ khi còn bé, thánh nữ rất để ý đến việc chăm lo cho con cái nên người đạo hạnh hơn là lo cho chúng có địa vị. Ngài dạy dỗ con bằng gương sáng, bằng sự tìm hiểu tâm lý của con hơn là bằng sự truyền khiến và trách mắng. Ngài thường nói: “Con tôi là của Chúa, tôi phải chăm sóc để chúng trở nên những công dân của Nước Trời”. Với đường lối giáo dục tốt đẹp như thế, thánh nữ không những đã làm tròn bổn phận của một người mẹ, mà còn đủ can đảm để vâng theo ý Chúa khi Người cất các con về lúc chúng còn thơ ấu.
Thực vậy, tuy sáu lần sinh con, nhưng sau cùng thánh nữ chỉ còn lại người con gái thứ ba tên là Giêtruđê, sau làm tu viện trưởng tại Trebnitj. Tuy ở địa vị giầu sang phú quý, thánh nữ vẫn một mực trung thành với đức khó nghèo của Phúc âm. Ngài ăn mặc những đồ rẻ tiền. Đôi khi được người ta tặng vải vóc, lụa là quý thì ngài chỉ tìm dịp nhường lại cho những người giúp việc trong nhà. Khác với các bà quý phái thời bấy giờ, thánh nữ ít khi đi dự các cuộc giải trí công cộng, trái lại, ngài thường dành thời giờ ấy để đến nhà thờ suy niệm lời Chúa. Đối với thánh nữ, Thánh vịnh và Phúc âm là hai món ăn thiêng liêng mà không bao giờ ngài chán. Nhờ đời sống đạo đức ấy, ngài đã gây được nhiều ảnh hưởng trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Chính vì thế mà sau khi thánh nữ từ trần, người ta đã nhận ngài làm bổn mạng chung của nước Ba lan và cách riêng của các bà hiền mẫu.
Nhưng người chịu ảnh hưởng trực tiếp hơn cả có lẽ là chính quận công Henricô. Lúc còn thanh niên, ông chơi bời phóng túng, nhưng dần dần noi gương người vợ hiền, ông đã cải hóa và trở thành một người gia trưởng gương mẫu, người công chức chính trực và bác ái. Năm 1209, chính quận công Henricô đã ngỏ ý cùng với thánh nữ khấn giữ đức thanh tịnh đôi bạn. Thực ra, trước kia hai ông bà vẫn có thói quen kiêng cữ không gần gũi nhau trong mùa vọng, mùa chay và các ngày bốn mùa. Hồi ấy Hêvigê mới 30 tuổi. Ít lâu sau, thánh nữ vào sống trong tu viện mà chính ngài đã bỏ tiền xây cất và con gái ngài hiện làm bề trên. Còn quận công Henricô cũng xin vào ở bậc trợ sĩ tại một nhà dòng nam. Thật là một việc ít có nơi các gia đình.
Vào sống trong tu viện, thánh Hêvigê đã treo gương sáng cho các chị em về hai nhân đức: khiêm nhường và nhẫn nại. Khi bà bề trên, tức con gái của thánh nữ ngỏ ý muốn chuẩn cho thánh nữ một vài quy luật dòng, lập tức ngài quỳ xuống và thưa: “Nếu con yêu mẹ, con hãy xử với mẹ như một chị em rốt nhất trong nhà. Mẹ ước được như thế ngay khi mẹ bước chân vào tu viện này. Và đây là một điều ngoài luật dòng mà mẹ muốn con đặc cách cho mẹ, đó là mỗi lần chị em xuống phòng ăn, mẹ muốn được quỳ trước cửa để hôn từng người”. Thánh nữ còn xin được làm những việc hèn hạ trong nhà và ngài đã chu toàn một cách rất cẩn thận và nhân đức. Ngài tỏ ra nhẫn nại khi làm việc, khi coi sóc bệnh nhân, nhất là trong cách đối đãi với chị em.
Mặc dầu tuổi đã cao, thánh nữ vẫn dễ tính và vui tươi với hết mọi người, kể từ người nhỏ tuổi cho tới người mới bước chân vào tu viện. Không những để cho chị em mặc sức bông đùa, thánh nữ còn tìm dịp làm vui cho chị em nữa. Quả thực, tuy cao niên nhưng tâm hồn ngài vẫn tươi trẻ; một sự trẻ trung và vui tươi của những người con cái Chúa và của những tâm hồn trong sạch tràn đầy ơn Chúa. Phải, lòng thánh nữ không tràn đầy ơn Chúa sao được, vì ngài vẫn có một tâm hồn chiêm niệm. Ngài yêu mến thánh lễ cách đặc biệt. Một linh mục đã viết về ngài như sau: “Đối với thánh Hêvigê, chỉ lễ Misa mới làm cho ngài được thỏa mãn”. Ngoài ra, thánh nữ cũng ưa đọc hạnh các thánh để tìm ở đó những mẫu mực nên thánh thích hợp cho mình. Một hôm, có chị em hỏi tại sao thánh nữ thích đọc truyện các thánh, ngài đáp: “Tôi thích đọc vì tôi yêu mến các thánh, và chúng ta phải yêu mến các thánh, vì các ngài là những bông hoa Chúa ban để chúng ta thưởng thức và nhìn ngắm. Các thánh cần thiết cho chúng ta, nếu chúng ta muốn các ngài đến với chúng ta trong giờ chết thì điều kiện duy nhất là chúng ta phải yêu mến các ngài”.
Người ta cũng không thể nào bỏ qua những việc hãm mình phạt xác mà thánh nữ Hêvigê đã làm để được tiến cao trên đường thánh thiện. Được biết thánh nữ ăn chay nỗi tuần ba ngày. Trong những ngày ấy, ngài thường uống một thứ nước lá cây rất đắng mà ngài bảo là để thay thế chất giấm chua mà Chúa đã uống xưa. Hơn nữa, vào mùa đông, thánh nữ chỉ mặc một áo vải thô với chủ đích bắt chước Chúa chịu trần trụi trên thánh giá. Đời sống thánh Hêvigê thực là đời cầu nguyện và hãm mình đáng cho chúng ta phải tự thẹn.
Chắc hẳn vì thế, mà cũng như nhiều vị thánh khác, thánh nữ Hêvigê đã được ơn làm nhiều phép lạ ngay lúc sinh thời. Xin đan cử một vài trường hợp tiêu biểu:
Ngày kia, ngài đã cầu nguyện cho một vị linh mục người Pháp khỏi chết khi còn đang bị vạ vì tội phạm thánh. Lần khác ngài đã làm dấu thánh giá dập tắt lửa đang bốc cháy ngùn ngụt trên mái nhà. Ngoài ra Chúa còn cho ngài biết trước ngày qua đời của quận công phu quân. Càng về cuối đời, thánh nữ càng được Chúa cho làm nhiều sự lạ và đoán biết những điều kín nhiệm. Sau hết, thánh nữ cũng được Chúa cho biết trước ngày giờ Chúa sẽ gọi mình về nước trời.
Vì thế, sau hai tuần lâm bệnh, thánh Hêvigê xin bà bề trên cho chị em đến đứng quanh giường cùng đọc với ngài ca vịnh sám hối để giúp mình dọn mình chết. Đọc xong, thánh nữ xin lỗi mỗi người và hứa về trời sẽ cầu nguyện cho tất cả. Sau hết, thánh nữ xin chịu lễ. Khi vừa nuốt trôi Mình Thánh Chúa và thốt ra được hai tiếng kêu: “Lạy Chúa, lạy Chúa”, thánh nữ từ từ nhắm mắt lại và từ trần cách yên hàn. Hôm ấy là ngày 15 tháng 10 năm 1243.
Thi hài thánh nữ được mai táng trọng thể tại nhà nguyện tu viện, sau được đưa về nhà thờ chánh tòa Trebnitj. Thánh Hêvigê được phong hiển thánh ngay năm 1267, nghĩa là sau khi qua đời được 24 năm. Tại Trebnitj, người ta sùng kính thánh nữ cách đặc biệt. Không kể những nhà thờ được xây cất và mang tên thánh nữ, còn nhiều hội đoàn, nhiều phong trào từ thiện cũng nhận thánh nữ làm bổn mạng. Ngày nay vẫn còn một hội dòng gọi là “Hội các chị em thánh Hêvigê” mà chủ đích là chuyên lo việc giáo dục trẻ em và sống theo quy luật thánh Âutinh. Ngoài ra, thánh nữ còn là bổn mạng của các bà mẹ công giáo và toàn thể đất nước Ba lan.
Xem như vậy, đối với các thánh, chết là bắt đầu sống, và sống một cách mãnh liệt và phong phú. Thật là chí lý vậy.

-o0o- 

THÁNH MAGARITA MARIA ALACỐC
Giữa lúc con người ngủ vùi trong tiền tài, khoái lạc và danh vọng, Magarita Maria đã xuất hiện như một vì sao sáng, một tiếng gọi khẩn cấp cảnh tỉnh nhân loại bỏ đường tội lỗi trở về với Thánh Tâm Chúa.
Magarita Maria sinh năm 1647, trong một gia đình quý tộc và đạo đức tại làng Lautêcourt bên Pháp. Magarita có năm anh em, người anh cả là Giacôbê cũng đi tu, làm linh mục. Vì lòng mến Chúa, ngay từ nhỏ Magarita đã khấn giữ mình đồng trinh, tận hiến trót đời sống cho Thiên Chúa. Dù còn trẻ người non dạ và chưa hiểu đi tu là gì, cô cũng ao ước được vào sống trong tu viện để dễ đọc kinh, nguyện ngắm. Nhiệt thành tôn thờ Chúa, Magarita cũng hết lòng yêu mến Đức Mẹ. Cô lần chuỗi mỗi ngày và trong khi lần chuỗi, cô quỳ cúi mình hôn đất khi hết một chục hạt.
Năm 1656, ông thân sinh qua đời, Magarita được gửi học nội trú trong nữ tu viện Charolla. Chính nơi cô được diễm phúc chịu lễ lần đầu. Khi ấy cô chẵn chín tuổi. Trong những giờ chơi tại lưu xá, Magarita thường đến góc sân hay chỗ nào vắng người quỳ cầu nguyện. Cô xin Chúa thực hiện điều cô vẫn hằng mong ước, là được vào tu trong nhà dòng. Nhưng nhiệm ý của Chúa còn muốn thử thách Magarita trước khi trao cho cô một sứ mệnh quan trọng. Mẹ cô ốm liệt giường lâu năm, gia tài khánh kiệt, nên cô phải về nuôi mẹ. Trong thời gian sống tại quê nhà, Magarita đã tỏ ra rất hiếu thảo đối với mẹ. Chính công việc bề bộn và vất vả của gia đình đã giúp Magarita hiểu sâu về giá trị việc thánh hóa hằng ngày. Do đó cô đã tiến mạnh trên đường tận hiến cho Chúa và bác ái với tha nhân. Magarita vẫn chăm chỉ lần hạt, viếng Chúa và hãm mình nhiều. Giường cô nằm là một tấm ván sần sùi. Cô chỉ có một bộ sách thiêng liêng là hạnh các thánh, cô say mê đọc và cố gắng noi gương bắt chước các ngài.
Qua thời gian thử thách, Magarita được phép mẹ và các anh cho tự do vào dòng. Đầu tiên Magarita định xin nhập tu viện thánh nữ Usula tại tỉnh Macôn. Nhưng một tiếng bí nhiệm đã thầm bảo: “Ta không muốn cho con tới tu ở đó, nhưng Ta muốn con xin vào dòng Đức Mẹ”. Trước tiếng gọi thầm kín đó, cô sung sướng thưa lại: “Lạy Chúa, con xin vâng ý Chúa. Con muốn đến tu trong một tu viện mà không ai biết đến con. Con muốn sống mai danh ẩn tiếng vì tình yêu Chúa”. Thế rồi ngước đôi mắt mờ lệ nhìn lên ảnh chuộc tội, Magarita kêu xin: “Ôi lạy Chúa Cứu Thế, thật hạnh phúc cho con biết bao, nếu Chúa in hình ảnh đau thương khổ cực của Chúa vào tấm thân non dại này. Lạy Chúa, con khẩn khoản nài xin Chúa ban cho con ơn trọng ấy, mặc dầu con chẳng đáng”. Ngày 20 tháng 6, cô được nhận vào dòng Đức Mẹ Thăm Viếng tại Pharây. Sau hai tháng chị được mặc áo nhà tập và chính thức mang tên là Magarita Maria, khi ấy thánh nữ chẵn 22 tuổi. Thời gian trôi qua, ngày 26.10.1672, thánh nữ khấn trọn đời và được bề trên trao cho việc coi sóc hai con lừa. Tuy là một công việc nhỏ mọn, hèn hạ, thánh nữ phải suốt ngày vất vả chăn nuôi hai con vật. Với tinh thần tận hiến và hy sinh, chị luôn làm tròn nhiệm vụ.
Năm sau bề trên sai chị săn sóc các bệnh nhân. Nhận nhiệm vụ mới, chị Magarita đem hết thiện chí thi hành nhiệm vụ. Ai ai trong bệnh viện cũng thấy nơi thánh nữ một tâm hồn khiêm tốn, nhiệt thành và bác ái bao la. Ma quỷ thấy thánh nữ lập nhiều công phúc, chúng tìm mọi cách ám hại ngài. Lần kia, trong lúc thánh nữ chăm chú làm nhiệm vụ, ma quỷ đến cám dỗ để ngài chán nản, chúng nói: “Chao ôi! Vô ích, không làm nên gì đâu, chỉ là công dã tràng thôi. Chúa Giêsu đã bỏ chị từ lâu rồi”. Không nản sợ, thánh nữ quỳ xuống cầu nguyện: “Lạy Chúa, con quyết yêu một mình Chúa, dù Chúa có bỏ con, đầy đọa con... con cũng xin nhận rằng: Chúa làm như thế chỉ vì yêu con mà thôi. Xin Chúa giúp con luôn trung thành và kiên chí làm trọn mọi việc vì yêu Chúa và bác ái với tha nhân”.
Dường như để tiên báo cho thánh nữ biết con đường mà mai ngày thánh nữ phải bước qua, con đường đầy chông gai và đau khổ, lần kia, Chúa đã cho ngài xem thấy một cây thánh giá to, kết đầy hoa và nói: “Hỡi con, đây là giường nằm của những nữ tu khấn giữ mình trinh khiết, nhưng con nên biết trước rằng, rồi đây những cánh hoa tươi thắm kia sẽ rơi hết, chỉ còn trơ lại những gai nhọn”. Quả thế, bao nhiêu biến cố đau thương đã lần lượt xẩy đến đè nặng trên con người thánh nữ: quả thật càng thương mến ai, Chúa càng gửi xuống cho họ nhiều thử thách. Lần kia, thánh nữ đang quỳ chầu Thánh Thể, thì Chúa Giêsu hiện ra tỏ Trái Tim cho ngài và nói: “Trái tim Cha quá yêu mến loài người đến nỗi ngọn lửa tình yêu trong Trái tim Cha muốn bùng cháy ra”. Và từ đấy, Chúa đã đặt trong trái tim thánh nữ những vết thương tình yêu. Thánh nữ luôn cảm thấy đau nhói bên cạnh sườn. Và cũng từ đấy, cứ mỗi thứ sáu đầu tháng, Trái tim Chúa Giêsu lại hiện ra với thánh nữ, dưới hình mặt trời đỏ chói như một bầu lửa.
Theo tiếng gọi của Thánh Tâm và để phạt tạ tội lỗi loài người, thánh Magarita xin mẹ bề trên cho phép thức dậy cầu nguyện từ mười một giờ tối tới mười hai giờ đêm, nhưng bà mẹ bề trên không ban phép, cho là ngớ ngẩn. Sau ít lâu thánh nữ lâm bệnh nặng. Từ trước đến giờ mẹ bề trên cũng như hầu hết các chị em trong dòng đều ngờ vực vì những lần Chúa hiện ra và những lời thánh nữ thuật lại, nên khi thấy thánh nữ lâm bệnh, họ liền đặt điều kiện bảo ngài phải cầu xin với Chúa cho khỏi bệnh. Magarita khiêm tốn cầu xin Chúa và Chúa đã nghe lời. Việc thánh nữ khỏi bệnh như là phần thưởng Chúa ban cho ngài và như ơn thêm đức tin cho các chị em dòng.
Tháng 6 năm 1657, Chúa Giêsu lại hiện ra với thánh nữ và dạy rằng: “Trái tim Cha quá yêu mến loài người... nhưng ôi! Loài người đã đáp trả lại bằng những vong ân bội nghĩa. Nhất là những kẻ đã dâng mình cho Cha lại làm cực lòng Cha hơn hết. Vì thế, Cha muốn con dâng một lễ vào ngày thứ sáu, tức là ngày thứ tám sau lễ Mình Thánh, để phạt tạ và tôn thờ Thánh Tâm Cha”. Chúa cũng tha thiết xin thánh nữ làm giờ thánh đêm thứ năm rạng sáng thứ sáu đầu tháng và siêng năng chịu lễ kêu gọi mọi người phạt tạ Thánh Tâm. Lần khác, trong lúc thánh nữ quỳ bên góc vườn thờ lạy Thánh Thể, Chúa lại hiện ra có các thiên thần bao quanh ca hát và thờ lạy.
Với lòng yêu mến và tâm tình phạt tạ, thánh Magarita muốn loan truyền tiếng nói của Thánh Tâm Chúa cho mọi người. Nhưng khổ thay, còn bao nhiêu chướng ngại phải vượt qua: vì nghi kỵ những sự kiện đã xảy ra và những lời lẽ Magarita kể lại, mẹ bề trên nại đến ý kiến các nhà thần học. Và chính nhà thần học được mời đến cũng thẳng nhăït kết án thánh nữ. Họ cho rằng thánh nữ vì yếu thần kinh nên mắc phẳi chứng bệnh yên trí. Bản án này đã khiến cho các chị em dòng từ trước đã nghi nan thánh nữ, nay lại càng đố kỵ thêm. Dù bị bao nhiêu hiểu lầm, bao nhiêu hiềm ghét, Magarita vẫn âm thầm chịu đựng và cầu nguyện, tìm mọi cách làm cho người ta nhận thấy sự thực.
Một hôm, trong giờ cáo mình theo luật dòng, Magarita đã bình thản đứng lên trình bày lại mọi sự việc đã xẩy ra và những lời kêu gọi khẩn cấp của Thánh Tâm Chúa Giêsu. Nhưng trái với lòng ước nguyện của thánh nữ, chẳng những không thành công, mà còn gây nên truyện xôn xao trong nhà dòng. Từ mẹ bề trên đến các chị tân tu đều coi thánh nữ như một người điên khùng, thậm chí có người lấy nước phép rẩy vào chị vì cho là chị bị quỷ ám. Lợi dụng thời cơ, ma quỷ cũng dồn dập tấn công thánh nữ bằng nhiều ý nghĩ trái đức vâng lời, đức trinh khiết nhất là đức tin. Nhưng ơn Chúa đã giúp thánh nữ bền vững. Ngài âm thầm chịu đựng với một niềm phó thác và tin tưởng vào sự Quan phòng của Thánh Tâm Chúa. Thánh nữ thường nói: “Tôi chỉ là dụng cụ, còn Chúa mới là người hoạt động!”
Tình trạng ấy kéo dài mãi tới năm 1684, khi bà Mêlin, là bạn của thánh nữ đắc cử bề trên. Bà Mêlin hiểu Magarita hơn ai hết, sau khi đắc cử, bà đã chỉ định Magarita làm bề trên nhà tập. Nhờ đó, năm 1685 thánh nữ đã có thể tổ chức việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu và lễ kính Ngài vào ngày thứ sáu sau tuần lễ Mình Thánh. Việc tổ chức lần đầu tiên này mang lại cho tu viện một bầu không khí mới, thấm nhuần ơn siêu nhiên và tình bác ái vị tha. Với sự đồng ý của mẹ bề trên, thánh nữ đã lập một bàn thờ nhỏ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu trong nhà nguyện. Sáng ngày thứ sáu, trước bàn thờ Thánh Tâm, thánh nữ hướng dẫn các chị em nguyện ngắm về Thánh Tâm Chúa Giêsu bằng những lời sốt sắng và đầy ý nghĩa. Ngài nói: “Chúng ta hãy yêu mến Thánh Tâm Chúa Giêsu bằng một tình yêu trọn vẹn không chia sẻ. Thánh Tâm Chúa là nguồn mọi ơn phúc của chúng ta. Và càng yêu mến Ngài, chúng ta càng phải sẵn sàng chịu đau khổ để phạt tạ tình yêu Ngài...” Lễ kính Thánh Tâm đầu tiên được tổ chức trọng thể tại tu viện ngày 21.06.1680. Hai năm sau, đức giám mục địa phận lại cho phép xây một ngôi thánh đường nguy nga dâng kính Thánh Tâm Chúa, mở màn cho phong trào đền tạ mỗi ngày một lan tràn mạnh mẽ tại các nước Âu châu và cả thế giới công giáo.
Thánh nữ Magarita rất đỗi vui mừng khi thấy người ta đã biết nghe theo tiếng gọi của Thánh Tâm Chúa. Ngài không muốn gì hơn là được chịu đau khổ và chết vì tình yêu Thánh Tâm Chúa và để cầu cho mọi người. Thánh nữ đã được Chúa nhận lời: sau nhiều năm chịu khó, ngài đã lâm bệnh nặng và qua đời ngày 17.10.1690. Thọ 44 tuổi.
Năm 1856, Đức Giáo Hoàng Piô IX truyền cho cả giáo hội mừng lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Và tám năm sau, ngày 18.9 thánh nữ được phong chân phúc. Rồi ngày 13.03.1920, Đức Bênêđictô XV tuyên phong ngài lên bậc hiển thánh.
Ngày nay việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu đã phổ biến và ăn sâu trong lòng mọi người, mọi dân tộc, mọi gia đình và nơi từng người. Đó chính là sức mạnh vô biên của tình yêu Chúa Giêsu. Chớ gì nhờ gương sáng và lời bầu cử của thánh nữ Magarita, mỗi người chúng ta biết tha thiết đáp lại tiếng gọi của Thánh Tâm Chúa, và nhiệt thành cổ võ cho mọi người yêu mến...
Thứ Ba 16-10

Thánh Hedwig

(1174-1243)

R
ất ít người nhận thức được rằng họ có thể sử dụng của cải và quyền thế ở trần gian một cách khôn ngoan. Hedwig là một trong những người đó. 
Sinh trưởng trong một gia đình quý tộc ở Bavaria năm 1174. Ngài là con gái của Công Tước xứ Croatia. Năm 1186, ngài được cha mẹ cho lập gia đình sớm với Henry I, Công Tước xứ SilesiaPoland, và được bảy người con. Qua sự thuyết phục và nỗ lực của ngài, nhiều tu viện dành cho các tu sĩ nam nữ được thành lập ở Silesia. Nhiều bệnh viện cũng được hình thành, trong đó một bệnh viện được dành riêng cho người phong cùi. Trong thời kỳ xáo trộn vì tranh dành quyền thế, ngài là người góp phần kiến tạo hòa bình cho các phần đất ở chung quanh. Tuy nhiên, ngài thật đau khổ vì không thể can gián được cuộc chiến ác liệt của chính hai con mình, vì chúng không hài lòng với phần chia gia tài mà Henry đã sắp đặt.
Sau khi sinh hạ người con thứ bảy, ngài và người chồng thề sống tiết dục, ngài sống cuộc đời còn lại trong một tu viện ở Trebnitz, là nơi ngài góp phần trong việc điều khiển cộng đoàn, dù ngài không phải là một thành viên chính thức của tu hội. Ngài từ trần năm 1243.

Lời Bàn

Bất cứ của cải nào chúng ta có được thì không chỉ dành cho nhu cầu và sự thụ hưởng riêng của cá nhân chúng ta, nhưng cũng được dùng để giúp đỡ người khác. Và dù của cải được sử dụng thế nào đi nữa, chúng phải giúp chúng ta thăng tiến trong tình yêu Thiên Chúa, chứ không cản trở. Thực sự thì của cải thế gian không thể nào đi ngược với tình yêu Thiên Chúa, nhưng là chứng cớ của tình yêu ấy; tuy nhiên, rất có thể vì quá yêu chuộng của cải nên chúng ta quên đi Ðấng đã ban phát của cải này.

Lời Trích

Vào lúc cuối đời, Thánh Hedwig đã hy sinh ước muốn trở nên một tu sĩ để ngài có thể dùng của cải để giúp đỡ người nghèo. Với chính bản thân, ngài chọn sự khó nghèo, từ chối những phương tiện được dành cho ngài, ngay cả những vật dụng căn bản như giầy ấm mùa đông. Ngài mặc áo tu sĩ và sống đời tu trì, nhưng không từ bỏ quyền sở hữu tài sản vì muốn dùng của cải để giúp đỡ người nghèo. Ngài đã sống trọn vẹn cuộc đời một Kitô Hữu và sử dụng tài sản của ngài để giúp người khác nhận biết và quý trọng đời sôáng tâm linh trong ơn sủng của Thiên Chúa.
www.nguoitinhuu.com


Bài đọc 2 
Ngày 16 tháng 10: Thánh Ma-ga-ri-ta Ma-ri-a A-la-cốc, trinh nữ
Sinh năm 1647 tại giáo phận Ô-tông, nước Pháp, Ma-ga-ri-ta nhập dòng các Nữ Tu Thăm Viếng ở Pa-rây lơ Mô-ni-an. Suốt những năm 1673-1675, Chúa Ki-tô đã cho chị biết tình yêu nồng nàn của Người đối với nhân loại. Người cũng cho chị thấy Thánh Tâm của Người và trao cho ngườitrách nhiệm xin lập một ngày lễ kính Thánh Tâm. Thánh nữ đã hiến cuộc đời mình, bất chấp muôn vàn khó khăn, để thực hiện dự định ấy. Thánh nữ qua đời ngày 17 tháng 10 năm 1690. 
Chúng ta phải nhận biết tình thương của Đức Ki-tô là tình thương vượt quá sự hiểu biết 
Trích thư của thánh Ma-ga-ri-ta Ma-ri-a A-la-cốc, trinh nữ.

Tôi nghĩ rằng ước muốn lớn lao của Chúa chúng ta, khi Trái Tim Người được tôn sùng cách đặc biệt là làm cho ơn cứu chuộc trổ sinh hoa trái mới trong tâm hồn chúng ta. Thực vậy, Thánh Tâm là suối nguồn vô tận không mong muốn gì hơn là tuôn chảy vào tâm hồn những kẻ khiêm nhu, khiến họ tự do và sẵn sàng hy sinh đời mình theo ý Chúa. 
Từ Thánh Tâm Chúa, có ba dòng sông không ngừng tuôn chảy. Dòng sông thứ nhất là lòng lân tuất đối với tội nhân, tuôn đổ vào tâm hồn họ tinh thần ăn năn sám hối. Dòng sông thứ hai là tình Thiên Chúa yêu thương trợ giúp những người đang gặp gian nan thiếu thốn, nhất là những ai khao khát nên trọn lành, để họ tìm ra phương thế giải quyết các khó khăn. Từ dòng sông thứ ba xuất phát tình yêu và ánh sáng cho các bạn hữu thân tình của Chúa, Người muốn liên kết họ với mình để họ được thông phần sự hiểu biết cũng như các huấn lệnh của Người. Như thế, chính họ, mỗi người một cách, cũng hoàn toàn hiến thân để mưu tìm vinh quang cho Người. 
Thánh Tâm là vực thẳm chứa chất mọi ơn lành, nơi người nghèo phải đến ký thác mọi nhu cầu của mình ; vực thẳm của niềm vui, nơi mọi nỗi u buồn của chúng ta phải tan biến, vực thẳm của hèn mọn để chống lại tính kiêu ngạo của chúng ta, vực thẳm chứa đầy lòng lân tuất đối với những kẻ khốn cùng, vực sâu thẳm của tình yêu, nơi chúng ta phải dìm sâu mọi thiếu thốn của mình xuống. 
Vậy các bạn phải kết hợp với Thánh Tâm Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta trong mọi việc các bạn làm, để trước hết tâm hồn các bạn được ổn định, và cuối cùng các bạn có thể đền tạ Thánh Tâm. Các bạn không tấn tới gì trong việc cầu nguyện ư ? Lúc ấy các bạn chỉ cần dâng lên Thiên Chúa các lời nguyện mà trong thánh lễ Chúa Cứu Thế dâng lên vì chúng ta ; hãy dâng lòng sốt mến của Người để bù lại sự nguội lanh của các bạn. Mỗi khi các bạn làm gì, thì hãy cầu nguyện như sau : "Lạy Thiên Chúa, con làm việc này, hay chịu đựng điều gì trong Trái Tim Con Chúa, theo các lời khuyên thánh thiện của Người. Con dâng lên Chúa để đền bù những cái sai trái hoặc bất toàn trong các việc con làm". Cứ làm như thế trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Mỗi lần các bạn gặp điều lo lắng, buồn sầu hay nhục nhã, hãy tự nhủ : "Mình phải đón nhận điều Thánh Tâm Chúa Giê-su Ki-tô gửi đến cho mình, để mình có thể được kết hợp với Người". 
Trên hết mọi sự, các bạn hãy giữ cho tâm hồn được bình an, đó là điều quý hơn mọi kho báu. Để gìn giữ sự bình an này, không gì ích lợi hơn là từ bỏ ý riêng, và lấy ý của Thánh Tâm thay cho ý chúng ta, để điều gì đem lại vinh quang cho Chúa, thì Người thực hiện cho chúng ta theo ý Người. Còn chúng ta, chúng ta hãy vui mừng vâng phục và hoàn toàn tin cậy vào Người.

Lời nguyện 
Lạy Chúa, xin tuôn đổ vào lòng chúng con ơn Thánh Thần như xưa Chúa đã rộng ban cho thánh nữ Ma-ga-ri-ta Ma-ri-a, nhờ đó, chúng con sẽ hiểu biết tình thương của Ðức Ki-tô là tình thương vượt quá sự hiểu biết của loài người, và chúng con sẽ được đầy tràn sức sống viên mãn của Chúa. Chúng con cầu xin...
(trích bài đọc Giờ Kinh Sách ngày 16/10-bản dịch của nhóm CGKPV)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét