Trang

Thứ Hai, 22 tháng 10, 2012

23-10-2012 : THỨ BA TUẦN XXIX MÙA THƯỜNG NIÊN


Thứ Ba sau Chúa Nhật 29 Quanh Năm

Bài Ðọc I: (Năm II) Ep 2, 12-22
"Chính Người là sự bình an của chúng ta, Người đã làm cho đôi bên nên một".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, khi ấy anh em không có Ðức Kitô, anh em bị đặt ra ngoài cộng đồng Israel, anh em là những người xa lạ đối với những giao ước, không được cậy trông lời hứa và cũng không được biết Thiên Chúa ở cõi đời này. Xưa kia anh em là những kẻ ở xa, thì nay trong Ðức Giêsu Kitô, anh em đã nên gần nhờ bửu huyết của Người. Chính Người là sự bình an của chúng ta, Người đã làm cho đôi bên nên một, đã phá đổ bức tường ngăn cách, tiêu diệt sự hận thù trong thân xác của Người, tức là bãi bỏ lề luật cũ với những thể lệ, để kiến tạo cả hai nên một người mới, đem lại bình an, dùng thập giá giải hoà hai dân tộc trong một thân thể với Thiên Chúa. Nơi Người, mối thù nghịch đã bị tiêu diệt, và Người đã đến loan báo Tin Mừng bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần. Và chính nhờ Người mà chúng ta đôi bên được đến gần Cha trong cùng một Thần Trí.
Vì vậy, anh em không còn là khách trọ và khách qua đường nữa, nhưng là người đồng hương với các Thánh và là người nhà của Thiên Chúa: anh em đã được xây dựng trên nền tảng các Tông đồ và các Tiên tri, có chính Ðức Giêsu Kitô làm đá góc tường. Trong Người, tất cả toà nhà được xây dựng cao lên thành đền thánh trong Chúa; trong Người, cả anh em cũng được xây dựng làm một với nhau, để trở thành nơi Thiên Chúa ngự trong Thánh Thần.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 84, 9ab-10. 11-12. 13-14
Ðáp: Chúa phán bảo về sự bình an cho dân tộc Người (c. 9).
Xướng: 1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng tôi. - Ðáp.
2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống. - Ðáp.
3) Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Ngài. - Ðáp.

* * *

Alleluia: Ga 17, 17b và a
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Lời Cha là chân lý; xin hãy thánh hoá chúng trong sự thật". - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 12, 35-38
"Phúc cho đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, xếp chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy".
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Ðức Giêsu khuyên các môn đệ phải trong tư thế chuẩn bị sẵn sàng để đón Chúa trở lại. Và Người cũng đang nói với chúng ta hôm nay. Cuộc sống hiện tại bị chi phối bởi lo lắng áo cơm, tiền tài, danh vọng... dễ làm cho chúng ta mất sự khôn ngoan, quên tỉnh thức, không lo lắng cho cuộc sống vĩnh cửu. Thật vô phúc, khờ dại và đáng tiếc!

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết chuẩn bị sẵn sàng đón chờ ngày Chúa quang lâm, bằng niềm tin vững mạnh vào Chúa, bằng tình yêu chan hòa với anh chị em chúng con. Chỉ trong niềm tin yêu, phó thác, chúng con mới có được sự khôn ngoan đích thực và an bình, để trình diện với Chúa trong ngày sau hết. Amen.

(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)
Tỉnh Thức
(Lc 12,35-38)
Suy Niệm:
Tỉnh Thức
Trong quyển truyện có tựa đề: "Con Ðức Mẹ" xuất bản tại Hà Nội dạo tháng 8/1990, tác giả đã miêu tả sinh hoạt của một giáo xứ miền Bắc một cách ấu trĩ như sau: Tình yêu giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái đôi khi không cần thiết, không thiêng liêng cho bằng mối tình đối với Ðức Maria. Lòng tôn sùng đối với Ðức Mẹ chỉ là một thứ bịa đặt lừa bịp của Giáo Hội. Sinh hoạt giáo xứ chỉ là những biểu dương bề ngoài, cuồng tín, người giáo dân càng sùng đạo, thì càng là thành phần bất hảo trong xã hội.
Bất cứ độc giả nào cũng có thể nhận thấy giọng điệu bôi bác ấu trĩ của tập truyện. Tuy nhiên, với thái độ tỉnh thức mà Chúa Giêsu không ngừng mời gọi, người Kitô hữu hãy nhận lấy một phần trách nhiệm trong việc gây ngộ nhận nơi nhiều người ngoài Kitô giáo. Sự thiếu sót giữa niềm tin và cuộc sống hằng ngày; sự hăng hái sinh hoạt giáo xứ, nhưng lại bỏ qua những đòi hỏi của công bằng, bác ái, tình liên đới; đó là những hình ảnh méo mó mà chúng ta tạo ra cho Giáo Hội.
"Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn". Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tỉnh thức. Có lẽ chúng ta rất tỉnh thức trong kinh kệ, trong nghĩa vụ đạo đức, nhưng lại mê ngủ trong những đòi hỏi của Tin Mừng. Kitô giáo không phải là đạo ru ngủ, nhưng luôn thức tỉnh chúng ta, bởi vì đạo là đường để đi. Người chăm chú đi đường không thể ngủ gật, trái lại luôn mở mắt để nhìn thấy cảnh trí chung quanh, để nhận ra hướng đi của mình, để đồng hành với người khác.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh táo để nhận ra Nước Trời đang đến trong từng giây phút. Chúng ta hãy sống thế nào để đạo lý và Giáo Hội không bị hoen ố, nhưng được trình bày bằng những hình ảnh cao đẹp nhất của công bằng, bác ái, yêu thương.
(Veritas Asia)

LỜI CHÚA MỖI NGÀY
THỨ BA TUẦN XXIX THƯỜNG NIÊN
Bài đọc: Eph 2:12-22; Lk 12:35-38.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ :
Gương phục vụ của Đức Ki-tô.
“Con người đến không phải được phục vụ, nhưng…” Bài đọc I liệt kê tất cả những gì con người được hưởng qua sự phục vụ của Đức Kitô. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu hứa Ngài sẽ phục vụ tất cả những ai trung thành với sứ vụ Ngài đã trao.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Đức Kitô đã hòa giải con người với nhau và với Thiên Chúa.

1.1/ Khác biệt giữa người Do-Thái và Dân Ngọai: Người Do-Thái tự hào là Dân Riêng của Thiên Chúa, tự hào vì Lề Luật của Thiên Chúa ban cho, và tự hào vì được chính Thiên Chúa lãnh đạo. Những đặc quyền này làm cho họ khinh thường các dân tộc khác và không muốn sống chung với Dân Ngọai trong bất cứ hòan cảnh nào. Thánh Phaolô, mặc dù là Tông Đồ của Dân Ngọai, nhận ra có 4 sự khác biệt giữa người Do-Thái và các Dân Ngọai: Thuở ấy (trước khi Đức Kitô đến) anh em:
(1) không có Đấng Kitô: Lời hứa của Thiên Chúa sẽ ban Đấng Thiên Sai được làm với người Do-Thái. Tước hiệu “Kitô” trong tiếng Hy-Lạp có nghĩa “Đấng được xức dầu.”
(2) không được hưởng quyền công dân Israel: Các dân tộc khác đều được xếp lọai là Dân Ngọai; vì thế, không được hưởng những đặc quyền như những công dân Do-Thái.
(3) xa lạ với các giao ước dựa trên lời hứa của Thiên Chúa: Thiên Chúa đã ký kết nhiều giao ước với người Do-Thái qua các tổ phụ của họ. Những giao ước này hòan tòan xa lạ với các Dân Ngọai.
(4) không có niềm hy vọng, không có Thiên Chúa ở trần gian này: Không có Thiên Chúa là không có hy vọng được sống. Đối với các Dân Ngọai, chết là hết.

1.2/ Công cuộc hòa giải của Đức Kitô: Ngài đã làm cho cả người Do-Thái và Dân Ngọai 5 việc như sau:
(1) Mang hai bên lại gần nhau: “Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Kitô Giêsu, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần.” Dân Ngọai là những người ở xa, nhờ Đức Kitô, đã được nhập đòan cùng với người Do-Thái, những kẻ ở gần.
(2) Hy sinh thân mình để xóa bỏ thù ghét và làm hai bên nên một: “Người đã liên kết đôi bên, dân Do-Thái và Dân Ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét.” Bức tường ngăn cách thể lý đây có thể được nhìn thấy trong Đền Thờ Jerusalem, nơi mà nếu bất cứ người Dân Ngọai nào vượt qua bức tường này, họ sẽ bị tử hình bởi người Do-Thái.
(3) Hủy bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật: “Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người.” Để được trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa, con người chỉ cần đặt niềm tin vào Đức Kitô và giữ các điều Ngài dạy.
(4) Hòa giải con người với Thiên Chúa: “Nhờ Thập Giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên Thập Giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét.” Con người phải hòa giải với nhau trước khi họ có thể hòa giải với Thiên Chúa. Đức Kitô không chỉ giúp cho con người hòa giải với nhau, mà còn giúp cho con người hòa giải với Thiên Chúa nhờ cái chết của Ngài trên Thập Giá.
(5) Mang bình an: “Người đã đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho những kẻ ở gần.” Sự kiện này đã được nhìn thấy trước bởi tiên tri Isaiah (57:19): Dân Ngọai trở thành những người ở gần (người Do-Thái) nhờ việc hòa giải của Đức Kitô. “Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha.”

1.3/ Hậu qủa của việc hòa giải: Thánh Phaolô dùng 2 hình ảnh để nói lên 2 đặc quyền con người được hưởng sau khi được hòa giải bởi Đức Kitô:
(1) Con người trở nên người nhà của Thiên Chúa: “Vậy anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa.” Trong một quốc gia, người ngọai quốc không được hưởng những đặc quyền của người thường trú, và những người thường trú không được hưởng những đặc quyền của người công dân. Cũng như vậy đối với Dân Ngọai, trước khi Đức Kitô đến, họ là những người xa lạ đối với Dân Thánh (Israel); nhưng khi Đức Kitô đến, Ngài đã làm cho họ trở nên những người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa. Vì thế, họ cũng được hưởng đầy đủ mọi đặc quyền như những người trong nhà.
(2) Con người trở nên những viên gạch của Đền Thờ Thiên Chúa: Trong Đền Thờ này, toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau: Đá Tảng Góc Tường là chính Đức Kitô Giêsu, nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn tất cả mọi người là những viên gạch được xây dựng thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thánh Thần.

2/ Phúc Âm: Đức Kitô sẽ phục vụ các đầy tớ trung thành.

2.1/ Sẵn sàng bằng cách hòan tất các bổn phận Chúa trao: Để đánh giá con người có trung thành với Thiên Chúa hay không, Chúa Giêsu dùng ví dụ một ông chủ giao nhà cho các đầy tớ trông coi để đi ăn cưới: “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay.” Vì tiệc cưới của người Do-Thái thường hay xảy ra ban đêm và không có giờ giấc rõ rệt, nên đòi những người có trách nhiệm luôn phải sẵn sàng và nhất là luôn có đèn sáng trong tay. Đêm tối là lúc con người ít chuẩn bị nhất, và hầu hết các họat động bất chính đều xảy ra ban đêm. Vì thế, để đánh giá sự chuẩn bị của các đầy tớ, ông chủ trở về bất chợt lúc ban đêm.

2.2/ Đức Kitô sẽ phục vụ các đầy tớ trung thành: Chúa Giêsu tuyên bố: “Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ.” Lời tuyên bố của Chúa không bình thường vì việc phục vụ là việc của các đầy tớ; nhưng đây là phần thưởng dành cho các đầy tớ trung thành. Nếu con người trung thành trong việc phục vụ tha nhân, con người cũng sẽ được phục vụ bởi Đức Kitô trong vương quốc của Ngài, như Ngài đã từng phán: “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mt 20:28).

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Những sự khác biệt đã tạo nên bất đồng, thù ghét, và chiến tranh giữa con người với con người, giữa quốc gia này với quốc gia kia, giữa con người và Thiên Chúa.
- Sự hiện diện của Chúa Kitô xóa tan những sự khác biệt. Ngài đến để hòa giải bằng cách tiêu diệt mọi bất đồng giữa con người với con người, giữa quốc gia này với quốc gia kia, giữa con người và Thiên Chúa.
- Chưa hết, Ngài còn hứa sẽ phục vụ hết tất cả những ai trung thành với ơn gọi trong vương quốc của cha Ngài.
Lm.An-tôn Đinh Minh Tiên, OP.

Thứ Ba tuần 29 thường niên
Sứ điệp: Ta phải luôn luôn sẵn sàng đón chờ Chúa trở lại bằng cách chu toàn bổn phận của một đầy tớ phục vụ Chúa. Nhưng khi Chúa đến, Chúa sẽ nâng ta lên cao và ân thưởng bội hậu cho ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn yêu thương con hơn con đáng được, và luôn ban cho con những ân huệ hơn con dám mơ ước. Con là phận một đầy tớ, làm sao dám nghĩ rằng Chúa là Thầy và là Chúa của con, mà lại trở nên người phục vụ hầu hạ con. Làm sao con có thể hình dung được rằng Chúa là Thiên Chúa mà lại trở nên đầy tớ của con. Nhưng Chúa đã quả quyết như vậy và dám sống như vậy. Ở đời này Chúa là người rửa chân cho môn đệ, là kẻ tôi tớ hy sinh vì người khác, vì thế khi trở lại, Chúa cũng vẫn muốn là người đầy tớ đi lại phục vụ, trong lúc con được ngồi ăn trong bàn tiệc Nước Trời.
Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa đã nâng con lên địa vị cao trọng. Chúa không còn gọi con là đầy tớ, nhưng gọi con là bạn hữu. Xin Chúa giúp con biết sống xứng đáng với tình thương Chúa. Xin cho con biết quý trọng tình thân mật này. Chúa là Chúa mà đã chẳng ngần ngại phục vụ con, thì xin cho con là phận đầy tớ biết tận tụy phục vụ Chúa trong hân hoan. Dù có phải hy sinh để làm theo Ý Chúa, dù có phải vất vả để chu toàn bổn phận với Chúa, thì cuộc đời làm tôi phụng sự Chúa vẫn chẳng sánh được với những hồng ân mà Chúa đã và sẽ dành cho con. Xin Chúa giúp con trung thành phụng sự Chúa.
Và lạy Chúa, xin giúp con nhìn vào gương Chúa để con biết phục vụ anh chị em. Xin dạy con sống khiêm tốn và biết tôn trọng họ. Xin cho con được luôn mang lấy tâm tình của người đầy tớ như  Chúa. Amen.
Ghi nhớ :"Phúc cho đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức".

23/10/12 THỨ BA TUẦN 29 TN
Th. Gioan Capétranô, linh mục 

Lc 12,35-38 
TỈNH THỨC SẴN SÀNG
“Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay.” (Lc 12,35-36)
Suy niệm: Người Do-thái thường tổ chức tiệc cưới lớn, ăn uống dây dưa suốt mấy ngày đêm, có khi kéo dài cả tuần lễ. Vì thế, ngồi đợi chủ đi ăn cưới trở về không phải chuyện dễ. Có thể chủ về nửa đêm hay giữa ban ngày, có thể ông về khi đầu hôm hay lúc tảng sáng. Nhất là khi chủ đi ăn cưới xa thì không biết ngày nào ông mới về và về giờ nào. Do đó, muốn đợi chủ đi ăn cưới về thì phải sẵn sàng dầu đèn, tư thế sẵn sàng để phục vụ. Phong thái này, người ta vẫn thường nói tới như là tư thế sẵn sàng, sống trong tỉnh thức. Nghĩa là, bất cứ khi nào Chúa đến, con người ấy vẫn luôn sẵn sàng đón Ngài.
Mời Bạn: Chúa Giêsu muốn những ai tin Ngài đều sống với tinh thần này, sẵn sàng chờ Ngài lại đến. Ngài sẽ đến bất chợt như ông chủ đi xa trở về. Vì chẳng ai biết được vào ngày nào, giờ nào Chúa sẽ đến, nên chúng ta được mời gọi sống tỉnh thức, sẵn sàng chờ đón Chúa mỗi ngày, mỗi giây phút của cuộc sống chúng ta.
Chia sẻ: Chia sẻ một kinh nghiệm sống tỉnh thức, cách thực hành cụ thể nào đã làm để chứng tỏ sự sẵn sàng chờ Chúa.
Sống Lời Chúa: Ngày hôm nay tôi sống tỉnh thức bằng cách chu toàn các việc bổn phận đạo đức (thánh lễ, đọc kinh...) và đời thường (lao động, việc gia đình...) một cách chu đáo, tốt đẹp.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu Cứu thế, giờ này đây, xin hãy đến và gõ cửa hồn con. Xin thúc đẩy lòng con để con ao ước Chúa đến mỗi ngày. Xin Chúa đến và ở lại với con, ngõ hầu con được ở với Chúa và để con luôn có Chúa ở trong con. Amen.
Chủ sẽ phục vụ
Kitô hữu biết mình chờ ai, chờ một người sớm muộn chắc chắn sẽ đến. Chờ một cách tích cực với thái độ sẵn sàng làm việc dưới ánh đèn. 
Suy nim:
Chúng ta dành bao nhiêu thời gian để ăn, ngủ, và làm việc trong một đời?
Nhiều người nghĩ mình có thể đưa ra những con số khá chính xác.
Nhưng chúng ta dành bao nhiêu thời gian để chờ?
Có thứ chờ tính được bằng thời gian.
Có thứ chờ kéo dài liên tục nằm nơi trái tim mong ngóng.
Mẹ chờ con, vợ chờ chồng, những người yêu chờ nhau.
Trong một vở kịch của Samuel Beckett, văn sĩ được giải Nobel 1969,
có hai người chờ một nhân vật mơ hồ tên là Godot.
Cả hai chỉ quen sơ sơ ông này, nếu có gặp cũng chẳng nhận ra.
Vậy mà họ vẫn chờ, nhưng ông Godot nào đó đã không đến.
Có lẽ Samuel Beckett muốn nói đến cái phi lý của đời người.
Cứ chờ cứ đợi một điều mơ hồ và chẳng xảy ra.
Đức Giêsu dạy các môn đệ biết chờ đợi trong cuộc sống.
Chờ như những đầy tớ chờ chủ mình đi ăn cưới về.
Đám cưới ngày xưa hay vào ban đêm để tránh cái nóng.
Chủ có thể về trễ, nên phải chịu khó chờ,
nghĩa là phải tỉnh thức, không được ngủ quên.
Nhưng chờ lại không phải là thái độ ngồi yên, thụ động.
Chờ là đặt mình trong tư thế sẵn sàng phục vụ.
“Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sáng” (c. 35).
Người đầy tớ sẵn sàng bắt tay vào việc,
vì chiếc áo đã được vén lên gọn gàng,
và trong đêm, ngọn đèn được châm dầu vẫn luôn cháy sáng.
Có một giây phút quan trọng, giây phút ông chủ về.
Sự chờ đợi, sự tỉnh thức, sự sẵn sàng, tất cả hướng đến giây phút này.
Lỡ giây phút này là lỡ tất cả.
“Để khi chủ về tới, gõ cửa thì mở ngay” (c. 36).
Mở ngay vì mình đang chờ, đang thức, đang sẵn sàng,
áo đã được vén lên để chuẩn bị phục vụ,
đèn đã được thắp sáng để soi trong bóng đêm.
Chủ sẽ ngỡ ngàng vì sự mau mắn như vậy của các đầy tớ.
Nhưng các đầy tớ còn ngỡ ngàng hơn nhiều.
Chính khi các anh chuẩn bị phục vụ chủ, thì chủ lại phục vụ các anh.
“Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn,
và đến bên từng người mà phục vụ” (c. 37).
Rõ ràng đã có một sự đổi vai bất ngờ: chủ đã thắt lưng, phục vụ như đầy tớ.
Đầy tớ đã trở nên trọng hơn chủ, vì Thầy ở giữa anh em như người hầu bàn.
Đó là mối phúc dành cho người tỉnh thức vào giờ lẽ ra đang yên ngủ.
Canh hai, canh ba, là đã quá nửa đêm về gần sáng (c. 38).
Kitô hữu biết mình chờ ai, chờ một người sớm muộn chắc chắn sẽ đến.
Chờ một cách tích cực với thái độ sẵn sàng làm việc dưới ánh đèn.
Hạnh phúc đến với tiếng gõ cửa đầu tiên trong đêm.
Chúng ta mong nghe được tiếng gõ nhẹ ấy như một tiếng gọi.
Xin mở cửa ngay để được thấy tận mắt Thiên Chúa phục vụ con người.

Cầu nguyn:
Lạy Chúa,
con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện,
không có giờ đi vào sa mạc
để ở bên Chúa và trò chuyện với Ngài.
Nhưng thật ra sa mạc ở sát bên con.
Chỉ cần một chút cố gắng của tình yêu
là con có thể tạo ra sa mạc.

Mỗi ngày có biết bao giây phút có thể gặp Chúa
mà con đã bỏ mất :
Khi chờ một người bạn,
chờ đèn xanh ở ngã tư,
chờ món hàng đang được gói.
Khi lên cầu thang,
khi đến nơi làm việc,
khi kẹt xe,
khi cúp điện bất ngờ.
Thay vì bực bội hay nóng ruột
con lại thấy mình sống an bình
trong sự hiện diện của Chúa.

Lạy Chúa,
những sa mạc ngắn ngủi hằng ngày
giúp con tỉnh thức
để nhạy cảm với ý Chúa.

Xin cho con yêu mến Chúa hơn
để tìm ra những sa mạc mới
và vui vẻ bước vào.
(gợi hứng từ Madeleine Delbrêl)

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

"Phúc cho đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức".
Hạnh Phúc Của Nước Trời
Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục cho chúng ta nghe về những dụ ngôn báo trước hạnh phúc của nước Trời. Ngài kêu gọi chúng ta tỉnh thức và sẵn sàng cho giây phút Chúa Cha gọi chúng ta về nhà Người và Ngài đã dùng hình ảnh của ông chủ và người đầy tớ. Thật ra, không bao giờ Thiên Chúa muốn coi chúng ta là đầy tớ đâu, nhưng ở đây hình ảnh này được sử dụng để giúp cho chúng ta dễ nhận ra sứ điệp của lời Chúa mà thôi. Dĩ nhiên, tự bản chất thụ tạo, chúng ta bất trung và chúng ta chỉ xứng đáng là đầy tớ nhưng Thiên Chúa luôn nhìn thấy chúng ta là con như Chúa Giêsu là Con của Chúa Cha. Vì là con nên chúng ta biết mình có chỗ trong nhà Cha, là con nên chúng ta biết mình không thể đi hoang, là con nên chúng ta biết dù gì đi chăng nữa, chúng ta vẫn có quyền được thụ hưởng gia tài của người cha.
Trong một câu chuyện cổ tích nọ, người cha già muốn cho các con mình ra đi để cứu nhân độ thế và ước mơ của ông là các con ông làm được nhiều việc thiện, nhiều việc tốt để mang lại lợi ích cho nhiều người, để sau khi kết quả trở về trong hân hoan vì những thành quả của các con mình.
Thiên Chúa sai chúng ta đến với mọi người trong trần gian này cũng với một sứ mệnh tương tự như sứ mệnh của những người con trong câu chuyện cổ tích trên. Chúng ta hãy sống yêu thương, bác ái để làm cho cuộc sống anh chị em của mình được hạnh phúc, vì Thiên Chúa đã đến trần gian để mong mang lại hạnh phúc cho mọi người.
Lạy Thiên Chúa,
Xin giúp chúng con luôn ý thức sẵn sàng như những người đầy tớ khôn ngoan luôn chờ đợi chủ. Sự đợi chờ của chúng con được thể hiện bằng tất cả nỗ lực mang tình yêu thương của Cha đến cho mọi người, với ước mơ được cùng tất cả anh chị em con được về hưởng hạnh phúc vĩnh cửu cùng Cha trên quê trời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Phải sẵn sàng
 “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa là mở ngay.” (Lc. 12, 35-36)
Trong đời sống con người, Đức Giêsu tự tỏ mình ra bằng nhiều cách khác nhau xuyên qua những biến cố. Kitô hữu phải luôn sẵn sàng nhận ra Người, đón rước và đi theo Người. Người dẫn ta đi đâu, đến đâu ta không biết. Như Thiên Chúa đã nói với tổ phụ Áp-ra-ham: Con hãy đứng dậy, lìa bỏ tất cả và sẽ đi đến xứ sở Ta chỉ cho con. Ông đi đến hết chỗ này qua chỗ khác hướng về nơi không biết. Ước chi Kitô hữu học lấy bài học tỉnh thức và luôn luôn sẵn sàng theo thánh ý Chúa như ông Áp-ra-ham.
Sẵn sàng đón rước Chúa đến:
Đức Giêsu bảo các môn đệ phải luôn luôn thắt lưng để lo phục vụ, nghĩa là sẵn sàng làm việc hay chuẩn bị lên đường trong mọi hoàn cảnh. Luôn luôn sẵn sàng lên đường như dân Do thái chuẩn bị hành trình trở về đất hứa để mừng lễ Vượt qua, lễ đón mừng Đấng Thiên sai cứu thế.
Đức Giêsu còn nói hãy cầm đèn cháy sáng để mở ngay cho chủ lúc chủ đi ăn cưới về, dù chủ có về trễ. Đó là lời khuyên bảo phải luôn luôn mau lẹ đáp lại tiếng Chúa gọi trong mọi biến cố, mọi cảnh ngộ. Trong Thánh kinh, trong kinh nguyện, mọi nơi, mọi lúc, Chúa đều thông dịch cho chúng ta hiểu qua hành động, qua dấu chỉ thời đại, vì Người luôn luôn bước tới ngày quang lâm để dẫn đưa chúng ta đi với Người.
Phúc cho những ai chủ thấy vẫn tỉnh thức, những ai chiến đấu kiên cường chống lại những dục vọng và những ươn hèn của xác thịt đang ru ngủ họ trong u mê tăm tối. Và đặc biệt hạnh phúc hơn nữa cho những ai vẫn luôn luôn sẵn sàng chờ đợi dù còn lâu Chúa mới đến.
Lãnh nhận phần thưởng:
Mỗi lần gặp Chúa là mỗi lần Kitô hữu được bình an và hạnh phúc, nhờ đó họ càng tỉnh thức, sống tỉnh táo hơn. Phần thưởng sau cùng là được mời vào tham dự tiệc nước trời. Những người vẫn luôn luôn tỉnh thức tới cùng sẽ được mời vào đồng bàn với Chúa, được Chúa chia sẻ vinh quang của Ngài đến muôn đời.
RC.
Ngày 23
Thánh Gioan Capétranô, linh mục
 
Thánh thiện là nên niềm vui cho người khác, là làm cho cuộc đời tươi đẹp hơn. Sự thánh thiện là một không gian nơi biểu lộ sự tự do, là dẫn đưa môi người khám phá ra rằng chúng ta có trách nhiệm về định mệnh của Thiên Chúa.
 
Khó nghèo theo Tin Mừng là sự cao cả đích thực duy nht: chỉ cao cả khi tự hiến dâng; và yêu thương là thành rỗng không, là nghèo về chính mình, là làm cho mình thành một không gian nơi mỗi người có một chút nghỉ ngơi.
 
Không bao giờ chúng ta có thể là sự nghèo khó nguyên thuỷ như Thiên Chúa, nhưng chúng ta có th độ lượng hơn trong sự trần trụi của chúng ta. Không bao giờ chứng ta có thể khó nghèo như Thiên Chúa.
 
Thiên Chúa mòi gọi chúng ta đến với hạnh phúc thật, đến với niềm vui của sự dâng hiến trọn vẹn, bởi vì Người mun sự cao cả của chúng ta và Người làm cho nó đầy tràn, khi giao phó cuộc đời của Người cho chúng ta và đặt trong tay chúng ta định mệnh của Người trong lịch sử.
 
Bởi vì, thật ra, Thiên Chúa không thể là một thực tại của lịch sử, tôi muôn nói, là một sự hiện diện trong lịch sử, một sự hiện diện trên đường đi, một sự hiện diện mà ai trên đường ph cũng có thể nhận ra. Thiên Chúa không thể là một thực tại của lịch sử, nếu sự hiện diện của Người không qua chúng ta.
 
Maurice Zundel
Hạnh Các Thánh

Ngày 23 tháng 10
THÁNH GIOAN CAPISTRANÔ HIỂN TU

Nói đến những nhân vật xuất sắc đã mang tâm huyết hãn ngữ đoàn quân Hồi giáo giữa thế kỷ thứ XV, người ta không thể quên thánh Gioan Capistranô. Thánh nhân xuất thân trong một gia đình trung lưu thuộc dòng tộc Abruzaes. Được cha mẹ cho theo đuổi bút nghiên từ thuở nhỏ và được dưỡng dục chu đáo, nên khi trưởng thành, Gioan là một thanh niên trí thức, tài ba và đức độ. Sống vào quãng tiền bán thế kỷ XV, thánh nhân đã được chứng kiến những cuộc thăng trầm của tôn giáo và xã hội.
Thế kỷ XV là thế kỷ mà Giáo hội phải đương đầu với nhiều thử thách phũ phàng. Trong đó chúng ta thấy một trận giông tố hòng lấn át Giáo hội, đó là cuộc xâm lăng và cuộc tàn phá ghê rợn của Hồi giáo. Mahômét II đem đại quân sang bách hại người công giáo Âu châu. Sau khi đã chiếm được thành Belgrade, ông đe dọa tới chiếm cả thành Contantinôpôli. Quân thù đi đến đâu đều tàn sát tín hữu và xâm chiếm đền thờ. Trước thảm cảnh đó, Đức Giáo Hoàng Calixtô III đã phải lên tiếng kêu gọi tấm lòng nghĩa sĩ của đoàn quân Chúa.
Hưởng ứng lời kêu gọi của vị Cha chung, Gioan hăng hái đứng ra thiết lập đạo binh thánh giá chống đoàn quân Hồi giáo hùng hậu đang lăm le lật đổ kinh thành ánh sáng và tiêu diệt tín hữu Chúa. Với lời cầu nguyện của toàn thể Giáo hội và tinh thần thượng võ của đoàn quân thánh giá, thánh Gioan đã chiến thắng quân thù tại mặt trận Belgrade năm 1456. Sau khi bị thất bại nặng nề, quân Hồi giáo không còn hy vọng đàn áp tín hữu, gây mâu thuẫn và hăm dọa xâm chiếm thủ đô Giáo hội. Sau những chiến thắng rực rỡ, Thiên Chúa đã phái đoàn quân thiên sứ đến rước linh hồn thánh nhân về chầu Chúa ngày 23 tháng 10 năm 1456.
“Lạy Chúa, Chúa đã dùng thánh Gioan để giúp đoàn chiên Chúa chiến thắng quân thù... Ước chi nhờ lời thánh nhân bầu cử, xin gìn giữ chúng con thoát mưu mô địch thù thiêng liêng, để chúng con xứng đáng đón nhận triều thiên do bàn tay công bình Chúa”.
Đó là ý nghĩa bài kinh trong ngày lễ kính thánh Gioan Capistranô, một nhân vật đã đem hết sinh lực và tài trí để hãn ngữ Hồi giáo thế kỷ XV.
Nhân dịp mừng lễ thánh nhân, Giáo hội muốn thúc giục chúng ta phải thâm tín vào uy quyền toàn năng Chúa. Ngài luôn luôn sẵn sàng giúp chúng ta chiến thắng ma quỷ. Ước gì mỗi người chúng ta noi gương sáng ngời của thánh nhân, đem tài trí và sinh lực phụng sự Chúa trong mọi hoàn cảnh, tình huống của thời đại.
Phaolô Tống Viết Bường (1773 – 1833)

Phaolô Tống Viết Bường, Sinh tại Phủ Cam, Huế, Giáo dân, Quan Thị Vệ, bị xử trảm ngày 23/10/1833 tại Thợ Ðức dưới đời vua Minh Mạng. Ngày 27.5.1900, ông Phaolô Tống Viết Bường được Đức Lêo XIII suy tôn lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 23/10.
Hiến lễ trong đêm.
Thánh Phaolô Tống Viết Bường, trường hợp đặc biệt bị xử trảm về đêm. Ngài là viên quan thị vệ có nhiều công trạng với vua Minh Mạng, nên Vua muốn cuộc hành hình phải diễn ra thật âm thầm, ít người biết đến. Năm giờ chiều, "Tử tội" mới được báo tin giờ xử, nhưng chính lúc ấy, ông đội Bường lại coi là một cơ may "Có một không hai" cho mình. trên đường ra pháp trường vào buổi chiều cuối tháng mười "chưa cười đã tối" đó, ông tìm cách đi chậm lại, và nói với đám lý hình (trước vốn thuộc quyền ông ): "Các chú đi chi mà nhanh rứa, tôi biết đường mà, không sợ lạc mô".
Và thực ra, trời thì tối, cầu thì hẹp, lại đúng lúc nước sông đang lên, nên đường rất khó đi. Đàng khác, ông Bường chủ ý tìm đến nền cũ nhà thờ Thợ Đúc, xin được chết tại dây. Quan đồng ý ban cho ông như lời ước nguyện. Chính nơi đây, đã từng bao năm tháng, dưới ánh sáng lung linh của những ngọn nến, các tín hữu tụ họp dâng lên hiến lễ tối cao là Đức Giêsu, thì lúc này dưới ánh sáng của những ngọn đuốc bừng cháy, ông đội cũng dâng lên Chúa chính mạng sống mình. cho đến ngày nay, ông vẫn sống mãi trong tâm thức của mọi tín hữu Thợ Đúc, cũng như Giáo Hội Việt Nam.
Giã từ quan trường vì đức tin
Phaolô Tống viết Bường sinh khoảng năm 1773 tại Phủ Cam, Phú Xuân (Huế), trong một dòng tộc Công Giáo lâu đời, cũng là dòng tộc có nhiều quan lớn, dưới triều vua Lê, chúa Nguyễn. Thân sinh ông là Nicôlas Tống Viết Giảng và bà Maria Lương. Vì tổ tiên đều làm quan nên đến khi trưởng thành, ông được chọn là lính thị vệ. Với đời sống liêm khiết và đức độ, sau một thời gian, ông được thăng chức đội, và được nhà Nguyễn tuyển vào làm thị vệ hoàng cung. Vua Minh Mạng rất hài lòng về việc phục vụ cần mẫn và nhiệt tâm của ông. Ông có hai đời vợ, sinh hạ được tất cả 12 người con.
Vào năm 1831, giặc Đá Vách ở Quảng Nam nổi lên quậy phá, quan quân phải đi đánh dẹp. Ông đội Bường được vua cử đi thanh sát mặt trận. Ông mau mắn chu toàn phận sự, và trở về tâu trình thành quả đã đạt được, nhưng có lẽ trong thời gian đó, có người ghen ghét tố cáo ông theo Đạo Công Giáo nên Vua hạch hỏi ông : "Khi xong công tác, khanh có viếng chùa Non Nước không ?" Ông bình tĩnh trả lời: "Muôn tâu, vì hoàng thượng không truyền nên thần không đi. Hơn nữa, chùa Non Nước đâu có giặc để đánh". Vua hỏi tiếp : "Lệ thường dẹp giặc xong rồi thì phải vô chùa lễ bái, tại sao khanh không đi ?" Ông không ngần ngại trả lời: "Vì hạ thần theo đạo Công Giáo".
Thế là ông Đội Bường đã phải trả giá cho lời tuyên xưng niềm tin của mình. vua Minh Mạng thịnh nộ trách mắng thậm tệ và dọa đem đi chém đầu. Một số quan chức có cảm tình với ông đội, đứng ra can gián, nhà vua vẫn chưa nguôi giận, cho lệnh đánh ông 80 roi, tước hết chức quyền, và giáng xuống làm lính trơn. Dù vậy, ông Bường vẫn vui vẻ tiếp tục phục vụ nhà vua.
Vẹn chữ trung với Chúa
Hơn một năm sau, khoảng cuối tháng 12 năm 1832, khi chuẩn bị ra chiếu chỉ cấm đạo toàn quốc, vua Minh Mạng đòi kê khai những người công Giáo trong hàng ngũ thị vệ. Lúc đó các quan mới phát hiện ra nhiều thị vệ nghe lời "quyến rũ" của ông đội Bường vừa gia nhập đạo. Thế là ông Bường và 11 binh sĩ khác có tên trong danh sáh được trình lên. Năm người sợ qúa bỏ đạo, còn bẩy người vua hạ lệnh tống giam vào ngục tối tăm hôi hám tại trấn phủ. Mỗi người phải đeo gông nặng gần bảy mươi ký, chân thì bị xiềng sắt xích chặt.
Thời gian đầu, cứ độ mười ngày một lần, ông Bường bị đem ra tra khảo về niềm tin. Lần nào quan cũng hỏi : "Có bỏ đạo không?" Và lần nào cũng trả lời: "Lâu nay tôi chỉ thờ một Thiên Chúa dựng nên vạn vật, lẽ nào bây giờ tôi lại bỏ Chúa tôi?" Hậu quả mỗi lần thưa như vậy là 20 đòn rách da xé thịt, nhưng người chiến sĩ của Chúa không than trách một lời. Với chí khí một người lính kiên cường, ông tỏ ra sẵn sàng chịu những hình khổ cay nghiệt hơn nữa. Có lần ông nói với bạn hữu đến thăm rằng : "Kiếm cho tôi cái gì nặng hơn chứ gông xiềng tôi còn nhẹ. Người ta còn đánh đập tôi ít quá, tôi tưởng được chịu nhiều hơn nữa kia".
Bốn lần quân lính khiêng qua Thập Giá, ông đều mạnh mẽ chống cự đến cùng. Lần kia, quan bắt lính kéo chân ông chạm vào Thập Gía, ông phản đối : "Việc này do quan làm, chứ tôi không bao giờ làm như thế". Quan tức giận truyền đánh tàn nhẫn hơn mọi lần khác.
Đàn áp không được, các quan quay qua dụ dỗ. Quan Hình Bộ Thượng thư Võ Xuân Cần tha thiết khuyên ông chiều theo ý vua "bỏ đạo lúc này thôi, rồi sau sẽ hay, muốn làm gì thì làm". Nhưng ông trả lời: "Quan lớn có lòng thương tôi thì tôi cũng xin quan lớn một điều là cho tôi được vẹn chữ Trung với Chúa Trời".
Trong nhà giam, ông thường khuyên các bạn bị bắt hãy kiên tâm bền chí, trông cậy và cầu nguyện Đức Mẹ luôn, để được vững lòng chịu khổ đến cùng, vác Thập Giá theo Chúa Giêsu. Càng bị đau khổ, đời sống thiêng liêng của ông càng gia tăng. Mỗi ngày ông siêng năng cầu nguyện, suy gẫm và đọc kinh Mân Côi. Mỗi tháng nhờ các linh mục cải trang vào thăm, ông đều xưng tội và đón nhận Mình Thánh Chúa. hai linh mục An và Vững thay nhau vào khích lệ ông. Thừa sai Jaccard Phan cũng gửi thư an ủi động viên ông. Một lần, ông sáng tác được một bài thơ gửi cha An, biểu lộ lòng trung kiên sắt đá, coi mọi khổ đau là "niềm vui trong Chúa".
Đường về trời
Thấy không thể lay chuyển đức tin của người môn đệ Chúa Kitô, quan Thượng thư Bộ Hình liền xin nhà vua tuyên án. Vua trả lời: "Cần gì bản án, cứ việc tra tấn không ngừng, nếu nó không chịu đạp lên Thập Tự thì cứ việc đánh cho chết, rồi vất ra ngoài thành là xong".
Lần thứ hai các quan tâu lại, vua Minh Mạng mới chấp thuận châu phê bản án trảm quyết, treo đầu ba ngày để làm gương cho kẻ khác. Tuy nhiên, vua vẫn chưa cho thi hành ngay, có ý chờ "người tôi trung" của mình xin ân xá. Các quan nói ý vua cho đội Bường, nhưng ông quyết liệt từ chối. của mình xin ân xá. Các quan nói ý vua cho đội Bường, nhưng ông quyết liệt từ chối.
Thế là ngày 23.10.1833, lúc năm giờ chiều quân lính báo tin cho ông đội biết giờ hành xử đã đến. Ông bình thản giã từ sáu người bạn cùng bị bắt (cả sáu người này về sau cũng bị tử hình, ông nói : "Xin anh em thêm lời cầu nguyện, để tôi lãnh nhận Thánh ý Chúa. Đừng lo cho tôi, anh em hãy luôn đi theo đường lối của Chúa".
Trên đường ra pháp trường, lấy cớ bị trói và mang gông nặng, ông đội kéo dài thời gian đi chuyển, để được chém trên một nền nhà thờ Thợ Đúc. Dọc đường, ông gặp mặt con gái, đã về nhà chồng ở họ Thợ Đúc, tuy không nói với nhau lời nào, nhưng trong ánh mắt hai cha con, dạt dào biết bao tình cảm xúc động.
Dưới ánh sáng bừng bừng của những ngọn đuốc, ông đội được tháo gông, cởi trói và tự do trong ít phút, ông tiến lên vài bước, bình tĩnh đứng nhìn lần cuối cùng những mái nhà thân thương của giáo xứ vây quanh nền nhà thờ hoang tàn. Rồi bước lên chiếc chiếu do một bạn cũ tên Thục ở Phủ Cam đưa cho lính trải. Ông quỳ xuống cầu nguyện giây lát, và ra lệnh cho lính thi hành án xử. Quân lính trói tay ông lại và vung gươm chém rơi đầu người chiến sĩ đức tin kiên cường. Thủ cấp ông bị bêu ba ngày ở nhà thờ Thợ Đúc, còn thi hài vị tử đạo được án táng ở họ Phủ Cam.
Ngày 27.5.1900, ông Phaolô Tống Viết Bường được Đức Lêo XIII suy tôn lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Nguồn từ thư viện Đa Minh

Trường thi tử Đạo.

Thánh Phaolô Tống Viết Bường
Sinh năm Quý Tỵ (1773) quê Phường Phú Cam
Võ quan triều Nguyễn đảm đang
Cấm binh đội trưởng giỏi giang chẳng vừa

Nhiều năm có kẻ cáo vua
Ông người theo đạo đơn thưa đệ trình
Ðức vua đã triệu vào kinh
Võ Quan phải nói phân minh rõ ràng

Giặc về vách đá Quảng Nam
Quân ta toàn thắng, giặc hàng rất đông 
Khanh viếng Chùa Non Nước không
Võ Quan chẳng ngại Thần không viếng Chùa

Thần xin khẳng định với vua
Tôi theo Công giáo thắng thua ý trời
Minh Mạng truyền lệnh khắp nơi
Ai người Công giáo hãy thời khai ra

Viết Bường bị nhốt không sai
Vui lòng chấp nhận không nài, chẳng xin
Phượng thờ Thiên Chúa tôi tin 
Dựng nên vạn vật khắc in thế trần

Trận đòn đau đớn mỗi lần
Mười hai hèo đánh dập thân Viết Bường
Một quan đồng ngũ thấy thương
Gông xiềng tôi giúp cho Bường nhẹ hơn

Người chiến sĩ đã cảm ơn
Xin quan giúp đỡ nặng hơn cho mình
Ðầy thương tích đòn lý hình
Kiên cường ông nói, giúp mình nặng thêm

Bốn lần lính khiêng ông lên
Ðưa qua Thánh Gía ở trên ảnh Người
Ông liền mạnh dạn nói lời
Quan quân làm vậy chẳng thời phải tôi

Võ Xuân Cẩn tô bồi bỏ đạo
Theo ý vua thấu đáo nghĩa tình
Rồi sau tùy ý đệ huynh
Cảm ơn, ông nói, giúp mình chữ trung

Sống trọn vẹn Tin mừng bền vững
Xin Mẹ thương con đứng hiên ngang
Tuyên xưng đạo Chúa sẵn sàng
Vác cây Thập Giá theo đàng khổ đau

Lòng sắt đá trước sau như một
Chẳng chuyển lay bị nhốt xà lim
Hy sinh vì Chúa hướng tìm
Cho con ơn phúc trái tim nhân lành

Lệnh trảm quyết ban hành đã tới
Ông câu giờ, ranh giới nhà thờ
Pháp trường Thợ Ðúc hằng mơ
Ðến đây trời tối phải nhờ đuốc soi 

Lệnh ngừng lại tiếng còi báo hiệu
Tống Viết Bường lính điệu giữa sân
Nguyện cầu xin Chúa Thánh Thần
Lính vung gươm chém xác thân lìa đầu

Tại Thợ Ðúc treo đầu cho khiếp
Theo lệnh vua trảm quyết Viết Bường
Ba ngày thảm thiết đau thương
Viết Bường chiến sĩ hành hương Nước Trời

Rồi sau đó di dời an táng
Ðưa thi hài về mạn Phú Cam
Nơi đây chôn cất đoàng hoàng
Anh hùng tử đạo Thiên Ðàng vinh quang

Ông phục vụ vào hàng cần mẫn
Về gia đình lận đận hai bà
Mười hai con giỏi tài ba
Hồng ân Chúa xuống toàn gia phúc lành

Thuộc dòng tộc nhiệt thành Công giáo
Thật mẫu gương tốt đạo đẹp đời
Viết Bường tử đạo rạng ngời
Vững tin cậy mến ngàn đời lưu danh

Phúc tử đạo hùng anh Quý Tỵ (1833)
Một võ quan cũng bị bay đầu
Chứng nhân Thiên Chúa nhiệm mầu
Suy tôn Canh Tý (1900) lên chầu Thiên cung

Lời bất hủ: Vua hỏi ông Bường: "Lệ thường dẹp giặc xong rồi thì phải vô Chùa lễ bái, tại sao khanh không đi?".
Ông Bường thẳng thắn trả lời: "Vì hạ thần theo đạo Công giáo". Vua Minh Mạng thịnh nộ trách mắng thậm tệ, doạ đem chém đầu. Ông bị thường xuyên tra hỏi, mỗi lần ông đều trả lời: "Lâu nay tôi chỉ thờ một Thiên Chúa dựng nên vạn vât, lẽ nào bây giờ tôi lại bỏ Chúa tôi!". Có lần ông trả lời: "Quan lớn có lòng thương thì tôi cũng xin quan lớn một điều là cho tôi được vẹn chữ Trung với Chúa Trời".
Thứ Ba 23-10

Thánh Gioan ở Capistrano

(1385-1456)

N
gười ta thường nói các thánh là những người lạc quan nhất thế giới. Các ngài không bị mù quáng bởi sự dữ hay hậu quả của nó, nhưng các ngài luôn đặt niềm tin vào quyền năng ơn cứu độ của Ðức Kitô. Sức mạnh hoán cải của Ðức Kitô không chỉ ảnh hưởng đến người có tội mà còn ảnh hưởng cả đến các tai họa.
Thế kỷ 14 là thời kỳ hỗn loạn về đạo cũng như đời. Một phần ba dân số và gần 40 phần trăm giáo sĩ bị tiêu diệt bởi bệnh dịch hạch. Cuộc Ðại Ly Giáo Tây Phương đã phân tán Giáo Hội đến độ Tòa Thánh không chỉ có một giáo hoàng mà đến hai, ba giáo hoàng một lúc. Nước Anh và nước Pháp đang giao chiến với nhau. Thủ đô nước Ý luôn luôn có tranh chấp. Hiển nhiên sự u ám đó đã bao trùm cả thời đại và khống chế tinh thần văn hóa.
Thánh Gioan sinh ở Capistrano, nước Ý năm 1385. Ngài là con của một cựu hiệp sĩ người Ðức sống trong thành phố. Ngài học luật ở Ðại Học Perugia và hành nghề luật sư ở các tòa án Naples. Khi 26 tuổi, ngài được Hoàng Ðế Ladislas của Naples bổ nhiệm làm thủ hiến xứ Perugia. Trong cuộc chiến tranh với người Malatestas ở lân cận, ngài bị phản bội và bị cầm tù. Sau khi được thả về, ngài quyết tâm thay đổi cuộc đời và gia nhập dòng Phanxicô ở Perugia năm ngài 31 tuổi. 
Sau khi được thụ phong linh mục vào bốn năm sau, ngài đi rao giảng khắp các nước Ý, Ðức, Bohemia, Áo, Hung Gia Lợi, Ba Lan và Nga. Vào lúc người ta thờ ơ và nghi ngờ tôn giáo thì ngài đã lôi cuốn được nhiều người trở về với Giáo Hội. Các quốc gia miền trung Âu Châu đã tiếp đón ngài cùng với các tu sĩ Phanxicô như các thiên thần của Thiên Chúa. Họ là những khí cụ để hồi phục niềm tin đang dẫy chết.
Chính dòng Phanxicô cũng trong tình trạng xáo trộn về việc giải thích và tuân giữ quy luật của Thánh Phanxicô. Qua các nỗ lực không ngừng của Cha Gioan Capistrano và nhờ kinh nghiệm luật pháp của ngài, tà giáo Fraticelli bị cấm hoạt động và Linh Ðạo Thánh Phanxicô tinh tuyền lại được nêu cao.
Khi vua Hồi Giáo là Mohammed II đe dọa tấn công Vienna và Rôma, Cha Gioan Capistrano, dù đã bảy mươi tuổi, được Ðức Giáo Hoàng Callistus II giao cho công việc rao giảng và chỉ huy thập tự quân chống với sự xâm lăng của người Thổ Nhĩ Kỳ. Cùng với đoàn quân bảy mươi ngàn Kitô Hữu, ngài đã chiến thắng người Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc chiến sau cùng ở Belgrade năm 1456. Ba tháng sau ngài từ trần ở Illok, Hung Gia Lợi ngày 23-10-1456. Ngài được đặt làm quan thầy của các luật gia.

Lời Bàn

John Hofer, người viết tiểu sử Thánh Gioan Capistrano, nhắc lại một tổ chức ở Bỉ lâáy tên của thánh nhân, nhằm mục đích giải quyết các vấn đề của đời sống trong một tinh thần hoàn toàn Kitô Giáo. Châm ngôn của tổ chức ấy là: "Sáng Kiến, Tổ Chức, Hành Ðộng." Những lời này thực sự là đặc tính của cuộc đời Thánh Gioan. Ngài không phải là người ngồi không. Sự lạc quan Kitô Giáo đã thúc đẩy ngài chiến đấu với các vấn đề thuộc đủ mọi tầng lớp với niềm tin sâu xa nơi Ðức Kitô.

Lời Trích

Trên mộ của thánh nhân ở làng Villach, Hung Gia Lợi, quan đầu tỉnh đã cho khắc những hàng chữ sau: "Ngôi mộ này là nơi chôn cất Thánh Gioan, sinh ở Capistrano, một người đáng được ca tụng, người biện hộ và cổ võ đức tin, người bảo vệ Giáo Hội, người hăng say che chở nhà dòng, niềm vinh dự cho cả thế giới, người yêu quý sự thật và công bình, gương sáng cho đời sống, vững chắc trong giáo lý; được bao người đời ca tụng, ngài đang sung sướng ngự trên thiên đàng." Văn mộ chí ấy thật xứng đáng cho một người lạc quan chân chính và thành công.
www.nguoitinhuu.com



Bài đọc 2 
Ngày 23 tháng 10: Thánh Gio-an Ca-pét-ra-nô, linh mục.
Thánh nhân sinh năm 1386 tại Ca-pét-ra-nô miền Áp-rút-đi. Người học luật ở Pe-ru-xi-a và đã giữ chức thống đốc thành phố một thời gian. Nhập dòng Phan-xi-cô và làm linh mục, người trở thành nhà giảng thuyết tài ba và nhiệt thành, có tài dẫn dứt quần chúng. trước tiên người lo canh tân dòng ở Pháp và ở I-ta-li-a. Sau đó, người rảo khắp Trung Âu để đấu tranh với lạc giáo của vú Gio-an Huy-sơ. Cuối cùng, người giảng thuyết cổ võ đạo binh thánh giá chống lại người Thổ Nhĩ Kỳ đang đe doạ nước Hung-ga-ri Người qua đời gần Vi-la-cô, nước Áo, năm 1465.
Giáo sĩ tốt đem lại ánh sáng và an vui cho người khác 
Trích khảo luận Tấm gương giáo sĩ của thánh Gio-an Ca-pét-tra-nô, linh mục. 

Những người được ơn gọi phục vụ vào bàn tiệc của Chúa phải nêu gương sáng ngời về một đời sống luân lý đáng khen, không vướng mắc một thói hư tật xấu nào khiến cho mình ra nhớp nhơ, hoen ố. Như muối cho đời, bằng lối sống đáng quý đáng trọng, họ ướp mặn chính mình và ướp mặn người khác. Làm ánh sáng trần gian, với trí khôn ngoan minh mẫn, họ đem ánh sáng đến cho người khác. Chớ chi Đức Ki-tô Giê-su, vị Tôn Sư cao cả, giúp họ hiểu rằng Người không chỉ tuyên bố riêng với các Tông Đồ và môn đệ, mà cả vớ mọi linh mục giáo sĩ là thừa kế của các đấng khi Người nói : Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối cho nó mặn lại ? Nó đã thành vô dụng, thì còn việc quẳng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.
Đúng là thiên hạ sẽ chà đạp giáo sĩ nào hoen ố và nhớp nhơ, chìm ngập trong vũng lầy thói hư tật xấu, bị xích xiềng tội ác trói buộc, và nên như phân dơ hôi hám khiến bị coi là chẳng ích lợi gì cho mình hay cho người khác nữa. Thánh Ghê-gô-ri-ô cũng nói : "Sống mà đáng khinh thì dĩ nhiên giảng cũng đáng chê." 
Những kỳ mục thi hành chức vụ chủ toạ cách tốt đẹp, thì đáng được đãi ngộ gấp đôi, nhất là những vất vả phục vụ lời Chúa và giảng dạy . Quả thực, các linh mục xứng đáng thì được danh dự cả hai mặt : vật chất lẫn con người, trần thế lẫn linh thiêng, nhất thời lẫn vĩnh cửu. Vì, mặc dầu còn ở trần gian, và cũng như các thụ tạo phải chết khác, họ còn lệ thuộc các thứ nhu cầu tự nhiên, nhưng họ vẫn nhiệt tình lo sao cho được sống với các thần sứ trên trời, để đẹp lòng đức vua như những người phục vụ thông minh. Vì thế, như mặt trời mọc lên trên chốn cao xanh của Thiên Chúa để soi sáng thế gian, thì ánh sáng của hàng giáo sĩ cũng chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp các ngài làm mà tôn vinh Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. 
Anh em là ánh sáng cho trần gian . Ánh sáng không chỉ chiếu soi cho chính mình, nhưng khi toả sáng, nó soi vào mọi vật khác ở chung quanh cho ta thấy được. Cũng vậy, cuộc sống sáng ngời và giãi toả thánh đức của các giáo sĩ tốt lành và công chính đem lại ánh sáng và an vui cho những ai dõi mắt trông gương các ngài. Vậy khi được cắt đặt để lo cho người khác, giáo sĩ có nhiệm vụ lấy chính cuộc sống của mình mà chỉ cho thiên hạ biết phải ăn ở làm sao trong nhà Chúa.
Lời nguyện 
Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh Gio-an xuất hiện trong Hội Thánh để tinh thần dân Chúa thêm mạnh mẽ, ngay trong lúc ngặt nghèo. Xin thương tình ban ơn che chở để Hội Thánh luôn luôn được bình an và chúng con được sống yên hàn. Chúng con cầu xin...

(trích bài đọc Giờ Kinh Sách ngày 23/10-bản dịch của nhóm CGKPV)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét